Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Cơ khí ô tô 3 - 2 trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.35 KB, 104 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến quý thầy cô
khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế, trường Đại học Kinh tế quốc
dân, đặc biệt là thầy giáo TS. Nguyễn Anh Minh đã tận tình hướng
dẫn em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp trong suốt thời gian vừa
qua.
Xin cảm ơn toàn thể các anh, các chị trong Công ty cổ phần
Cơ khí ô tô 3-2, gia đình, bạn bè đã hỗ trợ, giúp đỡ em trong quá
trình học hỏi và làm việc tại cơ sở thực tập.
Trân trọng!
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
LỜI CAM ĐOAN
Tên em là: Nguyễn Thị Toàn
Mã sinh viên: CQ473349
Lớp: KDQT47B
Khoa: Thương mại và Kinh tế quốc tế
Em xin cam đoan chuyên đề tốt nghiệp : “Nâng cao năng lực
cạnh tranh của Công ty cổ phần Cơ khí ô tô 3-2 trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế” là công trình nghiên cứu độc lập của riêng cá
nhân em.
Những số liệu, kết quả nêu trong toàn bộ bài viết là trung thực,
được trích dẫn và có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí,
các công trình nghiên cứu đã được công bố, các website, và các tài
liệu hợp lệ khác.
Sinh viên
Nguyễn Thị Toàn
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nghĩa
WTO Tổ chức thương mại thế giới
CNCK Công nghiệp cơ khí
CTCP Công ty cổ phần
ROA Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản
ROE Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu
MFN Thuế quan trung bình
VFD Cơ quan phối hợp giữa viện nghiên cứu chính sách Nhật
Bản và trường Đại học Kinh tế quốc dân
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
CBCNV Cán bộ công nhân viên
CKD Nhập tất cả linh kiện về lắp ráp
IKD Nhập một phần linh kiện về lắp ráp
CNC Máy gia công vật liệu được điều khiển bằng máy tính
EDM Máy gia công bằng tia lửa điện
CAD Phần mềm thiết kế với sự trợ giúp của máy tính
CAM Phần mềm gia công với sự trợ giúp của máy tính
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HĨNH VẼ
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, toàn cầu hoá đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu
của quan hệ quốc tế hiện đại. Đại diện cho xu hướng toàn cầu hoá này là sự ra
đời và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). WTO là tổ chức
thương mại lớn nhất toàn cầu, với sự tham gia của 150 nước thành viên,
không chỉ điều tiết thương mại hàng hoá mà còn cả các lĩnh vực dịch vụ, đầu
tư và sở hữu trí tuệ, chiếm trên 90% tổng kim ngạch thương mại thế giới.
Việc gia nhập WTO ngày 4/1/1995 đã đưa Việt Nam bước sang một thời
cuộc mới với nhiều thời cơ và thách thức đan xen. Mỗi cá nhân, tổ chức hay
doanh nghiệp cần phải nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn để nắm bắt
thời cơ và vượt qua thách thức. Sau khi gia nhập WTO, cùng với cơ hội mở
rộng thị trường tiêu thụ, các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực kinh tế mà đặc
biệt là lĩnh vực cơ khí phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt với các doanh
nghiệp nước ngoài về thị trường hàng hoá và dịch vụ. Sự cạnh tranh này
khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước hai sự lựa chọn hoặc chấp
nhận đổi mới hoặc rút lui hoàn toàn khỏi thị trường.
Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, Công nghiệp cơ khí (CNCK) là
một ngành công nghiệp nền tảng, có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế, củng cố quốc
phòng an ninh, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Vì vậy, việc kiểm
soát các doanh nghiệp hoạt động trong ngành CNCK là hết sức cần thiết,
nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Những năm
qua, ngành CNCK đã có những bước khởi sắc ban đầu, đáp ứng được 40%
nhu cầu thị trường trong nước, một số sản phẩm đạt chất lượng tốt, có chỗ
đứng trên thị trường. Tuy nhiên, tỷ trọng gia công trong CNCK nước ta
vẫn còn rất cao, làm cho giá trị gia tăng đạt thấp và thiếu sức cạnh tranh
trên thị trường.
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
1

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
Công ty cổ phần Cơ khí ô tô 3 - 2 là một doanh nghiệp thành viên của
Tổng Công ty ô tô Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực cơ khí, chuyên lắp
ráp, chế tạo các loại ô tô mang nhãn hiệu chính là Transinco. Ngày đầu mới
thành lập, Công ty 3 - 2 mới chỉ là một trung tâm sửa chữa nhỏ, nhưng cho
đến nay công ty đã từng bước lớn mạnh và dần chiếm được cảm tình của
người tiêu dùng trong cả nước. Tuy nhiên, trong hoạt động của công ty vẫn
bộc lộ nhiều hạn chế như chưa tự thiết kế, chế tạo được dòng ô tô, xe máy cao
cấp, chủ yếu gia công theo các mẫu thiết kế của nước ngoài, chưa tự sản xuất
được các loại linh kiện quan trọng phục vụ cho việc lắp ráp mà phải nhập
khẩu từ bên ngoài…Việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty sẽ có ảnh
hưởng tích cực đến ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam nói chung và sự phát
triển của Tổng Công ty ô tô Việt Nam nói riêng. Nhận thức được đây là một
vấn đề cấp thiết nên em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty cổ phần Cơ khí ô tô 3 - 2 trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực cơ khí của Công ty cổ phần Cơ khí ô
tô 3 - 2 trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích, đề tài sẽ giải quyết các
nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh, năng lực
cạnh tranh, nghiên cứu, phân tích vai trò và đặc điểm của các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cơ khí.
- Phân tích các yếu tố cấu thành, yếu tố ảnh hưởng và một số chỉ tiêu
đánh giá năng lực cạnh tranh
- Đánh giá năng lực cạnh tranh của CTCP Cơ khí ô tô 3 - 2 trên thị
trường, chỉ ra những kết quả đã đạt được, hạn chế, nguyên nhân của
những hạn chế đó trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của công

SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
ty.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
Công ty.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cơ khí
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài sẽ nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công
ty cổ phần Cơ khí ô tô 3 - 2 trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến nay.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề gồm 3 chương sau đây:
Chương 1: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sự
cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp cơ khí Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Cơ khí
ô tô 3 - 2
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty cổ phần Cơ khí ô tô 3 - 2
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP CƠ KHÍ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP CƠ KHÍ VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, khái
niệm cạnh tranh đã xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển sản
xuất, trao đổi hàng hoá và phát triển kinh tế thị trường. Có nhiều quan điểm
khác nhau khi nói về cạnh tranh.
Theo K. Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu dùng hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Khái niệm về cạnh
tranh của Marx cho thấy quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là
quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân. Quy luật này dựa trên
những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng
hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận.
Theo từ điển kinh doanh của Anh, cạnh tranh được hiểu là “Sự ganh
đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng
một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
Theo quan điểm này, cạnh tranh được hiểu là các mối quan hệ kinh tế, ở đó
các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tế
của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam (Tập 1) thì: Cạnh tranh trong kinh
doanh là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan
hệ cung cầu nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thi trường có lợi nhất.
Quan niệm này xác định rõ các chủ thể của cạnh tranh là những người sản
xuất hàng hoá, các thương nhân, các nhà kinh doanh và mục đích của họ là
giành được các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.

Ở phạm vi quốc gia, theo Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống
Mỹ thì: Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều
kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ
đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường Quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng
được thu nhập thực tế của người dân nước đó. Như vậy khái niệm cạnh tranh
ở phạm vi quốc gia lại đề cập những phạm trù hẹp hơn đó là khả năng sản
xuất các loại hàng hoá, dịch vụ và thu nhập thực tế của người dân của một
quốc gia cụ thể nào đó.
Những khái niệm trên đây dù tiếp cận trên các góc cạnh và phạm vi khác
nhau của cạnh tranh nhưng có những nét tương đồng vệ nội dung. Tựu trung
lại, ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trường như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế
ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu
kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng
cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng
của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích, đối với
người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận , đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu
dùng và sự tiện lợi.
Cạnh tranh trong kinh tế thị trường có một số đặc trưng như sau:
- Cạnh tranh mang bản chất của mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
với nhau. Nếu trên thị trường chỉ có một chủ thể thì không có cạnh
tranh nhưng có nhiều chủ thể mà các chủ thể không có cùng một mục
tiêu thì mức độ cạnh tranh cũng rất thấp. Do vậy canh tranh chỉ tồn tại
khi có nhiều hơn hai chủ thể tham gia và các chủ thể cùng hướng đến
những mục đích nhất định nào đó.
- Các chủ thể cạnh tranh đều phải tuân thủ những ràng buộc chung
được hình thành trong quá trình kinh doanh. Các ràng buộc này trong

cạnh tranh kinh tế giữa các doanh nghiệp chính là các đặc điểm về
nhu cầu sản phẩm của khách hàng và các ràng buộc của luật pháp và
thống kê kinh doanh ở trên thị trường. Còn giữa người mua với người
mua, hoặc giữa những người mua với người bán là các thoả thuận
được thực hiện có lợi hơn cả đối với người mua.
- Phương pháp cạnh tranh rất đa dạng. Một chủ thể kinh tế có thể tham
gia cạnh tranh dựa trên nhiều phương pháp khác nhau như bán giá
thấp, nâng cao chất lượng sản phẩm, … miễn là đạt được mục tiêu
kinh doanh của mình.
- Cạnh tranh diễn ra trong một khoảng thời gian và không gian không
cố định, hoặc ngắn hoặc dài, hoặc hẹp hoặc rộng.
1.1.2. Phân loại cạnh tranh
• Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau
• Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành
- Cạnh tranh giữa các ngành
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
• Căn cứ theo phương thức cạnh tranh:
- Cạnh tranh bằng giá cả
- Cạnh tranh phi giá cả
• Căn cứ vào tính chất cạnh tranh:
- Cạnh tranh hoàn hảo
- Cạnh tranh không hoàn hảo
• Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh:
- Cạnh tranh lành mạnh

- Cạnh tranh không lành mạnh
• Căn cứ vào các công đoạn của quá trình kinh doanh hàng hóa
- Cạnh tranh trước khi bán hàng
- Cạnh tranh trong khi bán hàng
- Cạnh tranh sau khi bán hàng
• Căn cứ vào mục tiêu kinh tế của các chủ thể
- Cạnh tranh dọc
- Cạnh tranh ngang
• Căn cứ vào cấp độ cạnh tranh
- Cạnh tranh cấp quốc gia
- Cạnh tranh cấp ngành
- Cạnh tranh cấp doanh nghiệp
- Cạnh tranh cấp sản phẩm
Ngoài các loại hình cạnh tranh đã nêu trên, người ta còn xét theo một số
tiêu chí khác nữa: điều kiện không gian, lợi thế tài nguyên, nhân lực, đặc điểm
tập quán sản xuất, tiêu dùng, văn hóa ở từng dân tộc, khu vực, quốc gia khác
nhau mà phân loại thành cạnh tranh giữa các nước và các khu vực trên thế giới.
1.1.3. Tác động của cạnh tranh đối với nền kinh tế
• Tác động tích cực
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
Thứ nhất, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp sử dụng tài nguyên một
cách tối ưu và khuyến khích áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất. Trong sản xuất, nguồn tài nguyên là hữu hạn, thậm chí còn khan hiếm.
Muốn tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải không
ngừng áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, sử dụng tối
đa mọi nguồn lực nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường.
Thứ hai, cạnh tranh làm cho tiêu dùng gắn liền với sản xuất, sản xuất
ngày càng thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Do cạnh tranh mà

ngày nay các doanh nghiệp phải tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích nhu cầu để từ
đó lập kế hoạch sản xuất đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất, kịp thời nhất
và hiệu quả nhất. Sản xuất với năng suất, chất lượng ngày càng tăng, điều này
có ảnh hưởng rất lớn đến người tiêu dùng. Họ được tiêu dùng những hàng hóa
có chất lượng cao và giá cả phải chăng, chủng loại phong phú hơn dẫn đến sự
lựa chọn dễ dàng hơn.
Thứ ba, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế trên cơ sở kết
hợp một cách hợp lý giữa lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu
dùng và lợi ích của toàn xã hội. Mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi
nhuận, mà lợi nhuận chỉ có thể thu được khi các doanh nghiệp bán được hàng
hóa do mình sản xuất ra với chi phí thấp, giá thành hạ. Điều này hoàn toàn
phụ thuộc vào mức độ chấp nhận hàng hóa của người tiêu dùng. Dưới tác
động của cạnh tranh, các nhân tố sản xuất được sử dụng có hiệu quả hơn, từ
đó giảm thiểu tổng chi phí sản xuất của xã hội, nâng cao năng suất lao động.
• Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực đối với nền kinh tế, cạnh tranh cũng
có thể dẫn đến những kết quả không mong muốn. Cạnh tranh làm thay đổi cấu
trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải và phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo.
Cạnh tranh làm xuất hiện và phát triển các hình thức lừa đảo, đầu cơ, làm
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
hàng giả, trốn thuế, ăn cắp bản quyền… Ngoài ra, trong trường hợp cạnh
tranh không cân sức có thể triệt tiêu một ngành, hoặc một lĩnh vực kinh doanh
của một quốc gia.
1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là thuật ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi
nhưng đến nay vẫn là khái niệm chung chung và khó đo lường, theo từ điển
thuật ngữ kinh tế học, “Năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần

lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một
phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp”.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa: “Năng
lực cạnh tranh là khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia
hoặc khu vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững”.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.2.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Các nhân tố bên ngoài là các nhân tố phức tạp, luôn có nhiều cơ hội lẫn
nguy cơ tác động đến hoạt động của doanh nghiệp theo các mức độ khác nhau.
Sự biến động của các nhân tố này nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp
và không thuộc ý muốn chủ quan của bất kì doanh nghiệp nào. Các nhân tố bên
ngoài doanh nghiệp gồm có: các nhân tố thuộc môi trường quốc tế, các nhân tố
thuộc môi trường quốc gia và các nhân tố thuộc môi trường ngành.
• Các nhân tố thuộc môi trường quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay thì các
nhân tố thuộc môi trường quốc tế càng ảnh hưởng mạnh tới năng lực canh
tranh của các doanh nghiệp. Các nhân tố thuộc môi trường quốc tế như: xu
hướng tự do hoá thương mại làm giảm các rào cản thương mại giữa các thị
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
trường; các định chế, hiệp định thương mại, liên kết kinh tế quốc tế cho thấy
phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp được mở rộng, đầu tư ra nước ngoài
phát triển và kéo theo đó là mức độ cạnh tranh cũng trở nên mạnh mẽ hơn.
• Các nhân tố thuộc môi trường quốc gia
Các nhân tố thuộc môi trường quốc gia bao gồm: Nhân tố kinh tế, nhân tố
văn hoá xã hội, nhân tố khoa học công nghệ, nhân tố chính trị luật pháp, nhân tố
tự nhiên.
 Nhân tố kinh tế: Có nhiều yếu tố thuộc môi trường kinh tế ảnh hưởng

đến hoạt động của các doanh nghiệp như tốc độ tăng trưởng kinh tế,
lạm phát, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái, lãi suất, hệ thống thuế
và mức thuế…
- Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định và cao sẽ làm cho thu nhập của
tầng lớp dân tăng. Từ đó tăng sức mua hàng hóa và dịch vụ. Nền kinh tế tăng
trưởng với tốc độ cao và ổn định kéo theo hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp cũng đạt hiệu quả cao.
- Nếu lãi suất cho vay cao thì chi phí kinh doanh của doanh nghiệp cao nếu
doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, do đó làm giảm khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
- Lạm phát cao hay thấp đều ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Lạm phát cao làm tăng giá cả hàng hoá, giảm sức mua xã hội, còn
thiếu phát làm hoạt động kinh doanh trở nên trì trệ và giảm sức cạnh tranh.
- Khi đồng nội tệ giảm giá dẫn đến xuất khẩu tăng, cơ hội sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp trong nước tăng, khả năng cạnh tranh cao hơn ở
thị trường trong nước và quốc tế bởi khi đó giá bán hàng hóa trong nước giảm
hơn so với đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Còn khi đồng nội tệ tăng giá sẽ
thúc đẩy nhập khẩu, doanh nghiệp sản xuất trong nước bị sức ép giảm giá từ
thị trường thế giới, cạnh tranh của doanh nghệp kém.
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
 Nhân tố văn hoá, xã hội
Các phong tục tập quán, thị hiếu, lối sống, thói quen tiêu dùng, tín
ngưỡng, tôn giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến mức tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa
của doanh nghiệp, do đó mà ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp . Ở những khu vực địa lý khác nhau có văn hóa - xã hội khác
nhau, do đó khả năng tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp khác nhau cũng
khác nhau.
 Nhân tố khoa học công nghệ

Các nhân tố về khoa học công nghệ như trình độ phát triển công nghệ
thông tin, khả năng sáng tạo, ứng dụng các ý tưởng kinh doanh, khả năng cập
nhật hay truyền đạt thông tin từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
nào cập nhật thông tin nhanh chóng có nghĩa là doanh nghiệp đó nắm được
hướng đi trước và trong kinh doanh người đi trước luôn dành được những lợi
thế để phát triển.
 Nhân tố chính trị, luật pháp
Chính trị và pháp luật chặt chẽ, rõ ràng và ổn định sẽ làm cơ sở bảo đảm
điều kiện thuận lợi và bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh
trên thị trường một cách lành mạnh, đạt hiệu quả cao. Các chính sách tài
chính, các chính sách bảo hộ mậu dịch tự do, những quan điểm trong lĩnh vực
nhập khẩu, các chương trình quốc gia, chế độ tiền lương, trợ cấp, phụ cấp cho
người lao động... ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường.
 Nhân tố tự nhiên
Các nhân tố tự nhiên có thể tạo ra các thuận lợi và khó khăn đối với doanh
nghiệp trong việc phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các
nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nhiệt độ, độ ẩm...
Vị trí địa lý thuận lợi sẽ tạo điều kiện khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
trường tiêu thụ đồng thời giảm thiểu các chi phí không cần thiết khác.
• Các nhân tố thuộc môi trường ngành
Có nhiều mô hình để phân tích các nhân tố thuộc môi trường ngành ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tuy nhiên mô hình nổi tiếng
nhất và được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là Mô hình năm lực lượng cạnh
tranh của Michael Porter. Theo mô hình này, M.Porter cho rằng ngành kinh
doanh nào cũng phải chịu tác động của năm lực lượng cạnh tranh, bao gồm:

đối thủ cạnh tranh hiện tại, khách hàng, nhà cung ứng, các đối thủ tiềm năng,
sản phẩm thay thế. Các nhân tố này được thể hiện ở Hình 1.1.
Hình 1.1: Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Michael Porter
 Đối thủ cạnh tranh hiện tại
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại là các doanh nghiệp vốn đã có vị thế
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
vững vàng trên thị trường trong cùng một ngành nghề kinh doanh. Số
lượng, quy mô và sức mạnh của từng đối thủ cạnh tranh đều có ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Một số yếu tố chính của đối thủ cạnh tranh có thể làm thay đổi tương quan
cạnh tranh với doanh nghiệp trên thị trường là: mục đích tương lai, các
tiềm năng và chiến lược hiện tại của đối thủ cạnh tranh.
 Khách hàng
Khách hàng là đối tượng có ảnh hưởng rất mạnh trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh, quyết định sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Mọi nỗ lực của doanh nghiệp đều hướng vào khách hàng nhằm thu hút sự
chú ý, kích thích sự quan tâm, thúc đẩy khách hàng đến với sản phẩm hay
dịch vụ do mình làm ra. Khách hàng có thể là cá nhân, tổ chức hoặc doanh
nghiệp. Khách hàng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
dựa trên sức mua cũng như khả năng mặc cả giá sản phẩm của mình và có
thể được xem như là một sự đe doạ cạnh tranh khi họ buộc các doanh
nghiệp giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao hoặc dịch vụ hoàn hảo.
 Nhà cung ứng
Các nhà cung ứng là những doanh nghiệp, những cá nhân có khả năng
sản xuất và cung cấp các yếu tố đầu vào như: máy móc thiết bị nhà xưởng,
nguyên vật liệu, các loại phụ tùng thay thế, vốn các loại dịch vụ lao động,
thông tin năng lượng, phương tiện vận chuyển. Số lượng, chất lượng,
chủng loại. giá cả, các điều kiện cung cấp…của các yếu tố đầu vào ảnh

hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ và mục tiêu kinh doanh, tiến trình hoạt động
của các bộ phận, chi phí sản xuất, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp…
và do đó nó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
trường. Có thể xem nhà cung cấp như một nguy cơ khi họ đòi nâng giá
hoặc giảm chất lượng sản phẩm cung cấp. Bởi vì bằng cách đó họ sẽ làm
cho lợi nhuận của công ty sụt giảm nghiêm trọng, kéo theo đó sức cạnh
tranh của công ty cũng bị giảm đi.
 Các đối thủ cạnh tranh tiềm năng
Đối thủ cạnh tranh tiềm năng bao gồm các doanh nghiệp không ra mặt
cạnh tranh nhưng vẫn có khả năng cạnh tranh trong tương lai. Sự xuất hiện
của những đối thủ tiềm ẩn này sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh đối với các
doanh nghiệp trong ngành. Khả năng cạnh tranh của các đối thủ tiềm năng
được đánh giá qua các “rào cản” ngăn chặn sự gia nhập vào ngành kinh
doanh. Rào cản này cho biết một doanh nghiệp cần phải tốn kém một khoản
phí nhất định để có thể tham gia vào một ngành nghề kinh doanh nào đó. Phí
tổn này càng cao thì rào cản càng cao và ngược lại.
 Sản phẩm, dịch vụ thay thế
Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa
mãn nhu cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành. Áp lực cạnh
tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế là khả năng đáp ứng nhu cầu so với các
sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa là các nhân tố về giá, chất lượng, các
yếu tố khác của môi trường như văn hóa, chính trị, công nghệ cũng sẽ ảnh
hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thế.
1.2.2.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
• Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là sự tập hợp thống nhất các mục
tiêu, các chính sách, các hoạt động kinh doanh trong tổng thể nhất định nhằm

khai thác các lợi thế cạnh tranh của mình để có thể cạnh tranh được với các
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
doanh nghiệp khác trong cùng ngành, cùng loại sản phẩm, cùng thị trường.
Chiến lược giúp các doanh nghiệp phân bổ một cách hợp lý các nguồn
lực sẵn có và cho thấy doanh nghiệp sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình như thế nào. Tuỳ vào từng thời điểm, điều kiện và tuỳ vào năng lực của
các nhà quản trị mà một chiến lược kinh doanh cho thấy được tác dụng của nó
đối với sự phát triển cũng như sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
• Các nguồn lực của doanh nghiệp
Nguồn lực của doanh nghiệp là những điều kiện về vật chất và phi vật
chất được doanh nghiệp sử dụng để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Các nguồn lực này bao gồm nguồn nhân lực, tiềm lực tài chính, điều
kiện cơ sở vật chất, vị trí địa lý,…
- Nguồn nhân lực của doanh nghiệp là tổng thể các tiềm năng lao động
sẵn sàng tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực bao gồm con người với những kinh nghiệm, kĩ năng,
trình độ đào tạo và sự tận tâm, nỗ lực hay bất cứ đặc điểm nào khác
tạo ra giá trị gia tăng và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Nguồn nhân lực càng mạnh thì sức cạnh tranh của doanh
nghiệp càng mạnh và ngược lại.
- Tiềm lực tài chính: tiềm lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện
ở quy mô vốn, khả năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng
lực quản lý tài chính…trong doanh nghiệp. Vốn là một yếu tố sản
xuất cơ bản và là một đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, việu sử dụng
vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh…có ý nghĩa rất lớn trong việc
làm giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Việc huy động vốn
kịp thời nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê nhân công, mua sắm
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B

15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
thiết bị, công nghệ…Như vậy năng lực tài chính phản ánh sức mạnh
kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc phải có nếu
muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao năng
lực cạnh tranh.
- Điều kiện cơ sở vật chất bao gồm hệ thống máy móc, nhà xưởng,
trang thiết bị, điều kiện làm việc,…Những nhân tố này ảnh hưởng đến
quá trình sản xuất hàng hoá và cung cấp các dịch vụ bán hàng và sau
bán hàng của các doanh nghiệp. Một điều kiện cơ sở vật chất thuận
lợi chắc chắn sẽ giúp công ty rút ngắn được thời gian sản xuất, giảm
mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng
cao chất lượng sản phẩm, nhanh chóng phát triển và nâng cao được
năng lực cạnh tranh.
• Năng lực quản lý kinh doanh
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố có tính
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng. Năng lực của cán bộ quản
lý tác động trực tiếp và toàn diện tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
thể hiện qua việc hoạch định và thực hiện chiến lược, lựa chọn phương
pháp quản lý, tạo động lực trong doanh nghiệp…Tất cả những việc đó
không chỉ tạo ra không gian sinh tồn của sản phẩm, mà còn tác động đến
năng suất, chất lượng, giá thành, sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp…
Năng lực quản lý còn thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy
quản lý và phân định rõ chức năng nhiệm vụ của các bộ phận. Việc hình thành
tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng tinh, gọn, nhẹ và hiệu lực
cao có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm hiệu quả quản lý cao, ra quyết
định nhanh chóng, chính xác mà còn làm giảm tương đối chi phí quản lý của
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
16

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
doanh nghiệp. Nhờ đó mà nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
• .Khả năng nghiên cứu đổi mới và ứng dụng
Khả năng nghiên cứu đổi mới có vai trò quan trọng trong cải tiến công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất,
hợp lý hoá sản xuất. Bất kì một cái gì mới của sản phẩm hay phương thức
hoạt động …đều được coi là đổi mới. Tuy không phải bất kì đổi mới nào cũng
thành công nhưng việc tiến hành đổi mới công nghệ được coi là một trong
những nguồn tạo sức cạnh tranh chủ yếu cho doanh nghiệp. Đổi mới thành
công sẽ đưa lại cho doanh nghiệp một thế mạnh nào đó mà đối thủ cạnh tranh
không có được. Các doanh nghiệp đổi mới thành công sẽ trở thành nhà cung
cấp độc quyền về sản phẩm mới, vì vậy có thể tính giá cao hơn đối với những
sản phẩm mới này. Đến thời điểm mà các đối thủ cạnh tranh bắt chước đổi
mới theo thì doanh nghiệp đã xây dựng được uy tín và sự trung thành với sản
phẩm đó.
Như vậy khả năng nghiên cứu, đổi mới và ứng dụng là yếu tố rất quan
trọng ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Yếu tố này càng
trở nên quan trọng hơn trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ diễn ra
mạnh mẽ trên toàn thế giới như hiện nay.
• Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp
Thương hiệu và uy tín của sản phẩm chính là sự tổng hợp các thuộc tính
của sản phẩm như chất lượng sản phẩm, lợi ích, mẫu mã và dịch vụ của sản
phẩm. Thương hiệu không những là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt sản
phẩm của doanh nghiệp này với sản phẩm của doanh nghiệp khác, mà nó còn
là tài sản rất có giá trị của doanh nghiệp, là uy tín và thể hiện niềm tin của
người tiêu dùng đối với sản phẩm. Một thương hiệu mạnh là một thương hiệu
có uy tín cao và uy tín thương hiệu càng cao thì niềm tin và sự trung thành
của người tiêu dùng đối với sản phẩm càng lớn. Điều đó có nghĩa là nếu một
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
17

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh
sản phẩm nào đó có được uy tín và hình ảnh tốt đối với người tiêu dùng thì
sản phẩm đó có một lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với sản phẩm của các đối
thủ cạnh tranh.
• Văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng nên
trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, trở thành các
giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của
doanh nghiệp ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành
viên của doanh nghiệp trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích.
Xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp có tác dụng rất quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Văn hóa
doanh nghiệp điều chỉnh hành vi của nhân viên trong doanh nghiệp. Những
doanh nghiệp có nền văn hoá tích cực sẽ tạo ra bầu không khí làm vệc hăng
say hào hứng vì mục tiêu chung khiến cho các cá nhân thường xuyên phấn
đấu để đạt nhiều lợi ích cho bản thân và doanh nghiệp, do đó mà nâng cao
được năng lực cạnh tranh. Ngược lại, nếu văn hoá doanh nghiệp đề cao cách
làm việc mang tính “rập khuôn” máy móc, thụ động sẽ làm hạn chế khả năng
đổi mới của doanh nghiệp.
1.2.3. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một phạm trù tổng hợp thể hiện
thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả
mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn
đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi
thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Những điểm mạnh và điểm yếu
bên trong một doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Anh Minh

chủ yếu của doanh nghiệp như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công
nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được các yếu tố phản ánh năng
lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc
đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá
năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các
yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm: giá cả
sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm và bao gói; kênh phân phối sản
phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến thương mại; năng lực nghiên
cứu và phát triển; thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp; trình độ lao động;
thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần; vị thế tài
chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay, thông qua phương pháp so sánh trực tiếp
các yếu tố nêu trên để đánh giá năng lực cạnh tranh của mình so với đối tác
cạnh tranh. Đây là phương pháp truyền thống và phần nào phản ánh được
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp
này là không cho phép doanh nghiệp đánh giá tổng quát năng lực cạnh tranh
của mình với đối tác cạnh tranh mà chỉ đánh giá được từng mặt, từng yếu tố
cụ thể. Để khắc phục nhược điểm trên, việc nghiên cứu vận dụng ma trận
đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ, qua đó giúp doanh nghiệp so sánh
năng lực cạnh tranh tổng thể của mình với các đối thủ trong ngành là một giải
pháp mang tính khả thi cao. Đây là một phương pháp được PGS.TS. Lê Công
Hoa và Cử nhân Lê Chí Công đề xuất trong Tạp chí công nghiệp số ra tháng
11 năm 2006.
Quá trình xây dựng công cụ ma trận này không khó khăn lắm đối với
SV: Nguyễn Thị Toàn Lớp: KDQT 47B
19

×