Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Chủ nghĩa xã hội Giai cấp công nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.62 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
-------------------------

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: Có quan điểm cho rằng, trước sự phát triển của kinh tế
tri thức và kinh tế số, giai cấp công nhân bị giảm sút nhiều mặt, nên
khơng cịn vai trị lãnh đạo xã hội, vai trị ấy đã thuộc về trí thức. Quan
điểm của nhóm 3 về vấn đề này?

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
LỚP HP:
NHĨM:

Hà Nội - Năm 2022.


Danh sách thành viên:

STT

Họ và tên

Ghi chú

Điểm

23
24


25
26

Nhóm trưởng

27

Thư kí

28
29
30
31
32
33

2


MỤC LỤC
A. Phần mở đầu

2

B. Nội dung

3

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức3
1. Khái niệm, đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của GCCN theo quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin
3
1.1. Khái niệm

3

1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân:

3

1.3. Sứ mệnh lịch sử của GCCN:

3

2. Khái niệm, đặc điểm, vai trị của tầng lớp trí thức

4

2.1. Khái niệm

4

2.2. Đặc điểm

4

2.3. Vai trò

5


Chương 2: Bác bỏ quan điểm cho rằng hiện nay GCCN khơng cịn vai trị lãnh đạo
xã hội, vai trị ấy đã thuộc về trí thức
6
2.1. Trí thức khơng thể trở thành tầng lớp lãnh đạo xã hội

6

2.1.1. Trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà chỉ là một đội ngũ
xã hội đặc biệt.
6
2.1.2. Trí thức khơng đại diện cho 1 phương thức sản xuất nào trong lịch sử.

6

2.1.3. Trí thức khơng có hệ tư tưởng độc lập.

8

2.1.4. Trí thức khơng thể đại diện cho lợi ích của các giai tầng trong xã hội.

9

2.1.5. Trí thức khơng có tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp công nhân.
2.2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân:

10
11

2.2.1 Địa vị kinh tế


11

2.2.2 Đặc điểm chính trị - xã hội

12

C. Phần kết

15

Tài liệu tham khảo

16
1


A.

Phần mở đầu

Hiện nay, thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), Kinh
tế tri thức và kinh tế số giúp cho nhiều quốc gia phát triển vượt bậc. Các thế lực thù địch lợi
dụng những biến đổi này để tuyên truyền, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Chính vì vậy, có quan điểm sai trái cho rằng, trước sự phát triển của kinh tế tri thức và kinh
tế số, giai cấp công nhân bị giảm sút nhiều mặt, nên không còn vai trò lãnh đạo xã hội, vai
trò ấy đã thuộc về trí thức.
Đây là quan điểm sai trái, lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ và những
biến đổi lớn của xã hội để diễn dịch cho rằng giai cấp công nhân bị giảm sút nhiều mặt, nên
không thể lãnh đạo xã hội và rồi quy nạp vai trị lãnh đạo xã hội về cho trí thức. Những luận

điệu sai trái này cho rằng trong nền kinh tế tri thức, chỉ có trí thức mới quyết định được
trình độ phát triển của đất nước. Trong bối cảnh nâng cao năng lực cạnh tranh với các nước
phát triển và khi kinh tế tri thức càng phát triển thì số lượng trí thức càng tăng, từ đó trí thức
giữ vị trí trung tâm của xã hội, lãnh đạo xã hội. Quan điểm này được đưa ra một cách chủ
quan mà không dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn.

B.

Nội dung

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về giai cấp cơng nhân và tầng lớp trí thức
1. Khái niệm, đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của GCCN theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin
1.1. Khái niệm
Giai cấp cơng nhân (GCCN) là một tập đồn xã hội, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại; họ lao động bằng phương thức công
nghiệp ngày càng hiện đại và gắn liền với q trình sản xuất vật chất mang tính hiện đại, là
đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người làm
th do khơng có tư liệu sản xuất, buộc bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc
lột giá trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản. Đó là

2


giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân:
- Lao động bằng phương thức công nghiệp.
- Đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến.
- Có tinh thần cách mạng triệt để.

- Có tổ chức, kỷ luật có tinh thần hợp tác tâm lý lao động.
1.3. Sứ mệnh lịch sử của GCCN:
1.3.1. Sứ mệnh lịch sử tổng quát của giai cấp cơng nhân: thơng qua chính đảng tiền
phong, GCCN tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc
lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
1.3.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên các lĩnh vực cụ thể:
- Kinh tế:
+ Xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
+ Thiết lập quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ công hữu tư liệu sản xuất.
+ Ở các nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động”.
- Chính trị - xã hội:
+ Lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, thiết lập nhà nước kiểu mới.
+ Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội kiểu mới, thực hiện dân chủ, cơng bằng, bình
đẳng và tiến bộ xã hội.
- Văn hóa, tư tưởng:
+ Đấu tranh khắc phục ý thức hệ tư sản, các tàn dư của hệ tư tưởng cũ.
+ Củng cố ý thức hệ tiên tiến của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mác – Lênin.
+ Phát triển xã hội, xây dựng con người mới, đạo đức và lối sống mới xã hội chủ
nghĩa.
2. Khái niệm, đặc điểm, vai trị của tầng lớp trí thức
2.1. Khái niệm
Trí thức là một tầng lớp xã hội bao gồm những người lao động trí óc phức tạp, có
trình độ học vấn và chun mơn cao, có khả năng sáng tạo tri thức khoa học mới, đồng thời

3


truyền bá và ứng dụng tri thức này vào thực tiễn, góp phần to lớn vào sự phát triển và trình
độ văn minh của nhân loại.

2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, trí thức là một tầng lớp xã hội.
Trí thức ra đời khi xã hội có sự phân cơng lao động thành lao động trí óc và lao động
chân tay. Tầng lớp lao động trí tuệ này chỉ xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến một mức
độ nhất định, khi có đủ điều kiện để tách lao động thành lao động nhận thức trở thành một
dạng lao động độc lập ở một tầng lớp xã hội. Sự xuất hiện trí thức không gắn liền với sở hữu
mà gắn với phân cơng lao động. Chính vì vậy, đặc trưng đầu tiên của trí thức là một tầng lớp
xã hội.
Thứ hai, trí thức là những người lao động trí tuệ, sáng tạo, dựa trên nền tảng học
vấn và kiến thức chuyên môn cao, có tính chun nghiệp.
Với trí thức, nhất là trí thức trong thời đại cách mạng KHCN, lao động trí óc của họ
là lao động trí óc chuyên nghiệp, gắn với sáng tạo, tích lũy, truyền bá tri thức. Do vậy,
khơng thể xếp vào tầng lớp trí thức tất cả các quan lại có bằng cấp cao. Cũng khơng thể xem
tồn bộ những người có bằng cấp cao là trí thức. Họ lao động ở các lĩnh vực khác, không
tạo ra sản phẩm trí tuệ, tri thức mà là các sản phẩm dưới các dạng thức khác (chỉ đạo, điều
hành, quản lý, sản phẩm tiêu dùng cụ thể…). Vấn đề là lao động trí óc tạo ra sản phẩm trí
tuệ, bằng trí tuệ và lao động ấy là lao động chuyên nghiệp.
Thứ ba, trí thức là những người mang trí tuệ xã hội, có tư duy độc lập và sáng tạo.
Họ là tầng lớp trí tuệ của xã hội, lao động trí tuệ, nên phải có trách nhiệm xã hội,
phải có sáng tạo như là điều kiện tất yếu. Sáng tạo có trong nhiều hình thái lao động, nhưng
ở tầng lớp trí thức thì sáng tạo là sáng tạo trí tuệ, tạo ra tri thức, giá trị cho xã hội.
Thứ tư, trí thức chủ yếu là những người có trình độ học vấn và trình độ chun mơn
cao.
Cần lưu ý thêm: có trình độ học vấn và chun mơn cao trong xã hội, nhưng khơng
phải cứ có bằng cấp cao thì là trí thức. Bằng cấp cao chỉ là một trong những biểu hiện, dù là
biểu hiện đầu tiên. Trình độ học vấn và trình độ chun mơn cao phải gắn liền với tính sáng
tạo, tính chuyên nghiệp trong lao động. Tính chun nghiệp càng làm cho trình độ học vấn
và chuyên môn không ngừng được nâng cao.

4



Thứ năm, trí thức là những người sáng tạo, truyền bá và áp dụng tri thức vào thực
tiễn.
Đây là một đặc trưng rất quan trọng, thể hiện lao động chuyên mơn, trí tuệ sáng tạo,
chun nghiệp. Thiếu nó, xã hội sẽ không phát triển nhanh được, thế hệ sau không thể tiếp
thu các thành tựu trí tuệ của các thế hệ trước, không thể đứng trên vai thế hệ trước để phát
triển.
2.3. Vai trò
- Vai trò đặc biệt to lớn trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Vai trò quyết định trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao KHCN, giúp đẩy nhanh
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, góp phần quyết định thành công sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
- Vai trị khơng thể thay thế trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam khoa
học, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Vai trị to lớn trong việc nâng cao dân trí, định hướng giá trị, giải đáp nhiều vấn đề
của xã hội đang phát triển đặt ra một cách khoa học, đúng đắn, góp phần ổn định xã hội,
thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của xã hội.
Chương 2: Bác bỏ quan điểm cho rằng hiện nay GCCN khơng cịn vai trị lãnh đạo
xã hội, vai trị ấy đã thuộc về trí thức
2.1. Trí thức khơng thể trở thành tầng lớp lãnh đạo xã hội
2.1.1. Trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà chỉ là một đội ngũ
xã hội đặc biệt.
Trong cả hai cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ và XHCN, Đảng ta đều thấy cần thiết
phải lơi kéo cho được những người trí thức tham gia, không thể thiếu họ trong lực lượng
cách mạng. Trong cách mạng XHCN vai trị của trí thức ngày càng được đề cao, được ghi
nhận đậm nét trong các văn bản của Đảng. Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất
lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Thế nhưng, dù đánh giá cao vai trò của trí thức như thế nào đi nữa thì theo quan niệm
truyền thống ở các nước XHCN, cho tới nay, trí thức vẫn không bao giờ được coi là một giai

5


cấp. Theo nhận thức chung, phổ biến của đảng cộng sản thì trong các chế độ cũ (phong kiến
địa chủ, tư sản) hầu hết trí thức xuất thân từ giai cấp bóc lột, tuyệt đại bộ phận trong số họ
đều phục vụ cho chính quyền của giai cấp thống trị. Khi cách mạng do giai cấp vô sản phát
động, trong số họ có một bộ phận đi theo cách mạng nhưng dễ hoang mang, dao động, ngả
nghiêng, vì vậy khi cách mạng thành cơng thì cần cải tạo họ để họ phục vụ cho giai cấp vô
sản. Dưới chế độ XHCN, nhà nước cần phải đào tạo ra một lớp trí thức mới xuất thân từ
cơng nơng, tuy họ xuất thân từ những thành phần “cốt cán” ấy nhưng khi đã là trí thức thì
họ khơng cịn là cơng nơng nữa, mà chỉ là một tầng lớp (hay đội ngũ) cần liên minh để xây
dựng CNXH.
Từ vị trí của mình trong phân cơng lao động xã hội, trí thức khơng có quan hệ riêng
và trực tiếp với sở hữu tư liệu sản xuất, khơng giữ vị trí độc lập trong hệ thống sản xuất, các
dấu hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp; do đó, họ khơng có khả năng đại biểu cho
phương thức sản xuất nào, cho nên họ khơng phải là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập
trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. V.I.Lênin chỉ rõ “nếu không nhập cục với một
giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số khơng mà thơi”.
2.1.2. Trí thức khơng đại diện cho 1 phương thức sản xuất nào trong lịch sử.
Quan niệm của V.I.Lênin về người trí thức cũng rất rõ ràng: “Người trí thức đấu
tranh, tuyệt nhiên khơng phải là bằng cách dùng thực lực theo lối này hay lối khác, mà là
bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng
lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của
họ, cho nên mới có thể đóng được một vai trị nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền được hoàn
toàn tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để cơng tác được kết
quả. Với tư cách là một bộ phận trong tồn thể, họ chỉ phục tùng tồn thể đó một cách miễn
cưỡng, phục tùng vì bắt buộc, chứ khơng phải tự nguyện. Họ chỉ thừa nhận kỷ luật là cần

thiết đối với quần chúng, chứ không phải đối với những nhân vật được lựa chọn. Dĩ nhiên là
họ xếp mình vào những hàng ngũ những nhân vật được lựa chọn...”.
Sau thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, V.I.Lênin bắt tay
ngay vào việc xây dựng đất nước và bảo vệ nhà nước Xô Viết non trẻ, đòi hỏi nhân dân phải
tiến hành hàng loạt lao động sáng tạo lịch sử. Trong sự nghiệp vĩ đại đó khơng thể khơng có
sự tham gia của tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến

6


cao về ý thức và có tính quần chúng, để tạo ra một năng suất lao động cao hơn hẳn năng
suất lao động của phương thức sản xuất xã hội tư bản chủ nghĩa; dựa trên cơ sở những kết
quả mà chủ nghĩa tư bản đã được.
Trong tư tưởng của V.I.Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa nếu giai cấp cơng nhân và chính đảng của nó, lơi kéo lãnh đạo được trí thức, phát huy
tài năng trí tuệ của họ vào mọi cơng việc cách mạng thì cách mạng mới có thể phát triển
nhanh chóng để đạt được thắng lợi cuối cùng là xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Ở những nước tư bản phát triển giai cấp cơng nhân và chính đảng của nó chỉ
có thể giành được thắng lợi từng bước nếu không ngừng nâng cao nhận thức của mình
tương xứng với yêu cầu của xã hội hiện đại, đồng thời lôi kéo được tầng lớp trí thức theo
mình. Thực tế cũng cho thấy những kiến thức khoa học, nếu bị những kẻ có đặc quyền,
những lực lượng thống trị phản động kiềm chế và sử dụng, thì sẽ trở thành vũ khí để nơ dịch
quần chúng nhân dân, hủy hoại nhân loại, cho nên cách mạng vơ sản phải có nhiệm vụ
giành lại vũ khí đó, vì sự nghiệp giải phóng con người và bảo vệ con người.
Trí thức có vai trị to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. V.I.Lênin đã chủ trương giai cấp vô sản phải tạo ra tầng lớp trí thức riêng của mình,
thu nạp cả những người ủng hộ mình và mọi người có học thức; trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, việc tạo ra một tầng lớp trí thức mới là một nhiệm vụ
hết sức cấp thiết đáp ứng sự nghiệp đổi mới xây dựng, quản lý đất nước và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin đã chỉ ra, nhiệm vụ của đồn thanh niên nói chung và các tổ

chức khác nói riêng, có thể tóm gọn bằng một từ đó là học tập. Vận dụng quan điểm này,
ngay từ đầu những năm 1920, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử những thanh niên ưu tú sang
Trung Quốc, Liên Xô để học tập, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng, phát động phong trào
bình dân học vụ “diệt giặc rốt”. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự
nghiệp đào tạo đội ngũ trí thức cho sự nghiệp xây dựng, cải tạo xã hội và nhiệm vụ đấu
tranh giải phóng dân tộc cũng như nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sau khi kháng
chiến kết thúc thành công.
V.I.Lênin cho rằng khi giai cấp cơng nhân đã giành được chính quyền, thì một nhiệm
vụ cơ bản khác được đặt lên hàng đầu, đó là thiết lập một chế độ mới cao hơn chế độ chủ

7


nghĩa tư bản, nghĩa là năng suất lao động, trước hết là nâng cao trình độ học vấn và văn hóa
của quần chúng nhân dân lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền đại cơng nghiệp.
2.1.3. Trí thức khơng có hệ tư tưởng độc lập.
Vai trị của trí thức đối với sự phát triển xã hội là quan trọng, cấp thiết, thể hiện rõ nét
trong kinh tế tri thức, kinh tế số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhưng trí thức khơng
thể lãnh đạo xã hội vì trí thức khơng có hệ tư tưởng riêng, tư tưởng của trí thức phụ thuộc hệ
tư tưởng của các giai cấp thống trị xã hội. V.I.Lênin chỉ rõ: “Nếu khơng nhập cục với một
giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số khơng mà thơi”.
Trí thức khơng có hệ tư tưởng độc lập, trí thức ln gắn với những giai cấp nhất định,
với tư cách là một đội ngũ và ở trong một thể chế chính trị cụ thể, trí thức nói chung là của
giai cấp thống trị do hệ thống giáo dục và đường lối đào tạo của Nhà nước của giai cấp
thống trị ấy tạo ra. Đội ngũ này tự giác hoặc không tự giác phục vụ cho chế độ và giai cấp
thống trị. Trong lịch sử, một giai cấp chỉ khẳng định được vai trị lãnh đạo của mình nếu có
hệ tư tưởng. Nếu khơng có hệ tư tưởng thì các phong trào cách mạng chỉ có tính chất tự
phát, tạm thời, kiểu “lửa rơm chóng tắt”, chứ khơng thể “lay chuyển những khối quần chúng
đông đảo, những dân tộc trọn vẹn; rồi đến những giai cấp trọn vẹn trong mỗi dân tộc”, “đến
chỗ tiến hành những hành động lâu dài đưa đến những biến đổi lịch sử vĩ đại”.

Nếu trí thức khơng có hệ tư tưởng độc lập - điều kiện tất yếu để khẳng định được vai
trị lãnh đạo của mình, thì cơng nhân là giai cấp có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình, đó
là chủ nghĩa Mác - Lênin phản ánh đúng đắn quy luật chính trị - xã hội, là học thuyết soi
đường, dẫn lối cho cuộc đấu tranh của GCCN và nhân dân lao động đi đến thắng lợi cuối
cùng là xóa bỏ sự thống trị của CNTB, xây dựng thành công CNXH, chủ nghĩa cộng sản.
GCCN cịn có đội tiên phong của giai cấp mình là Đảng cộng sản - tổ chức của những con
người ưu tú từ phong trào cách mạng, nơi hội tụ mọi ước nguyện của sự giải phóng và giá
trị tốt đẹp. Với sứ mệnh đó, Đảng cộng sản - đội tiên phong của GCCN là nhân tố quan
trọng lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng.
Thực tế hiện nay trí thức đang chiếm một tỷ lệ cao trong tổng số đảng viên của Đảng
và nhiều trí thức là đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng và
Nhà nước. Bởi vì, là đảng viên của Đảng cộng sản, không nhất thiết đảng viên đó phải là

8


cơng nhân mà có thể là nơng dân, trí thức, doanh nhân,… nhưng điều nhất thiết là họ phải
giác ngộ được SMLS của GCCN và đứng trên lập trường, quan điểm, lợi ích của giai cấp
cơng nhân, tức là mang trong mình bản chất của giai cấp cách mạng, nếu phấn đấu, rèn
luyện tốt thì họ đều có thể trở thành lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Đặc biệt, những đảng viên của Đảng khi trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy,
thì càng phải có tầm trí tuệ cao, địi hỏi phải có tri thức, có tầm nhìn sâu rộng. Như
V.I.Lênin đòi hỏi: “Người lãnh đạo cơ quan nhà nước cần phải có ở mức độ cao, khả năng
lơi cuốn mọi người và có đủ trình độ kiến thức khoa học kỹ thuật, vững vàng để kiểm tra
công tác của họ. Đó là điều cơ bản khơng thể thiếu, khơng như thế thì cơng tác khơng thể
đúng đắn được”7. Do đó, vội vàng cho rằng, trí thức là đội ngũ lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng, lãnh đạo xã hội, đó là một kết luận máy móc, siêu hình, không hiểu đúng nội hàm
bản chất giai cấp công nhân của đảng.
2.1.4. Trí thức khơng thể đại diện cho lợi ích của các giai tầng trong xã hội.
Bên cạnh giai cấp công nhân, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là

V.I.Lênin đã nhìn thấy vai trị to lớn của nơng dân và trí thức trong sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân. Họ là đồng minh, là lực lượng cách mạng, là lực lượng vật chất của giai
cấp công nhân. Tuy nhiên, với những hạn chế từ chính bản thân các giai tầng này, do
phương thức lao động quy định, do vai trò trong hệ thống sản xuất xã hội và khơng có hệ tư
tưởng, các giai tầng này khơng thể giữ vai trị lãnh đạo xã hội và khơng thể đại diện cho lợi
ích của các giai tầng trong xã hội.
Trí thức khơng đại diện cho lợi ích nhiều giai - tầng xã hội do họ khơng có lợi ích đối
kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Mặt khác, quá trình đấu tranh giai cấp và tác động nhiều
mặt về lợi ích đã làm cho trí thức phân hóa thành những bộ phận khác nhau; những bộ phận
khác nhau đó sẽ ngã theo lực lượng này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác.
V.I.Lênin cho rằng: “so với giai cấp cơng nhân thì giới trí thức bao giờ cũng có nhiều tính
chất cá nhân chủ nghĩa hơn, ấy là do những điều kiện cơ bản của đời sống và công tác của
họ không cho phép họ thống nhất lực lượng một cách trực tiếp và rộng rãi, không cho họ
được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ chức”.

9


Ngược lại, nếu trí thức khơng đại diện cho lợi ích nhiều giai - tầng xã hội, thì cơng
nhân là giai cấp đại diện cho lợi ích của đơng đảo nhân dân lao động. Vì về cơ bản, lợi ích
của GCCN là thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Bởi việc xóa
bỏ ách áp bức, bóc lột lao động làm thuê, xóa bỏ mọi bất công của xã hội, xây dựng một xã
hội mới cơng bằng, bình đẳng, tiến bộ là ước mơ, nguyện vọng chung của tất cả các tầng lớp
nhân dân lao động. Tính kỷ luật chặt chẽ làm cho giai cấp công nhân thống nhất được hành
động, thống nhất được lợi ích, qua đó thống nhất được nhận thức, tư tưởng. Nói cách khác,
khi nhận thức được vai trị, sứ mệnh lịch sử của mình, hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân
được hình thành.
2.1.5. Trí thức khơng có tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp công nhân.
Trí thức khơng có được tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp công nhân trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. V.I. Lênin cho rằng: “so với giai cấp cơng nhân thì

giới trí thức bao giờ cũng có nhiều tính chất cá nhân chủ nghĩa hơn, ấy là do những điều
kiện cơ bản của đời sống và công tác của họ không cho phép họ thống nhất lực lượng một
cách trực tiếp và rộng rãi, không cho họ được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể có tổ
chức”5.
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong thời
kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính quyền thì
họ quay trở lại bóc lột giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, những giai cấp đã từng kề vai
sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với
giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thật sự cách mạng... Các tầng lớp trung
đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh
chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống cịn của họ với tính cách là những tầng lớp trung
đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ".
V.I. Lênin luôn luôn cảnh báo về thái độ thờ ơ chính trị của đội ngũ trí thức. Nhìn lại,
lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, trong giai đoạn đầu của cách
mạng vô sản, phần lớn những người trí thức đứng về phía giai cấp tư sản. Tuy nhiên, cùng
với thực tiễn đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, đội ngũ trí thức ngày càng

10


nhận rõ vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCN và tìm thấy lợi ích của mình trong cuộc đấu
tranh chung đó. Vì thế, ngày càng nhiều trí thức đi theo giai cấp công nhân (GCCN), ủng hộ
phong trào đấu tranh của GCCN và nhân dân lao động.
2.2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân:
Theo Mác và Ăngghen, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải do ý
muốn chủ quan của giai cấp công nhân hoặc do sự áp đặt của các nhà tư tưởng mà do những
điều kiện khách quan quy định. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân bao gồm:

2.2.1 Địa vị kinh tế
Chủ nghĩa tư bản ra đời đánh dấu một bước tiến vĩ đại và phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự ra đời của nền đại công nghiệp, một mặt tạo ra cơ sở vật chất, nhờ đó có thể xóa bỏ
được chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng, mặt khác sản sinh ra giai cấp công
nhân, lực lượng xã hội đại diện cho lực lượng sản xuất mới. Giai cấp cơng nhân xét về
nguồn gốc ra đời chính là con đẻ của nền đại công nghiệp, sinh ra và phát triển theo đà phát
triển của kỹ thuật và công nghiệp; có tính xã hội hóa ngày càng cao và là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất hiện đại. Vì thế, giai cấp cơng nhân đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại. Do lao động bằng phương thức công nghiệp
ngày càng hiện đại, giai cấp công nhân là người sàn xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã
hội, làm giàu cho xã hội, có vai trị quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại.
Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế, quy định giai cấp công nhân là lực
lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình, chuyển từ
giai cấp “tự nó” thành giai cấp ‘vì nó”. Giai cấp công nhân trở thành đại biểu cho sự tiến
hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội,
xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng
vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới, khơng
cịn chế độ người áp bức, bóc lột người.
2.2.2 Đặc điểm chính trị - xã hội
Địa vị kinh tế đã tạo cho giai cấp cơng nhân có những đặc điểm chính trị - xã hội mà
những giai cấp khác khơng thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau đây:

11


+ Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Sở dĩ như vậy vì họ đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Đó là giai cấp được trang bị bởi một lý luận khoa
học, cách mạng và luôn luôn đi đầu trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ
xã hội cũ lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đơng đảo các

giai cấp, tầng lớp khác vào phong trào cách mạng.
+ Thứ hai, giai cấp cơng nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời đại
ngày nay.
- Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất đại cơng nghiệp, lại bị giai cấp tư sản
bóc lột nặng nề, có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện
sống, điều kiện lao động trong chế độ TBCN đã chỉ cho họ thấy, họ chỉ có thể được giải
phóng bằng cách giải phóng tồn xã hội khỏi chế độ TBCN. Bởi đấu tranh nếu mất công
nhân chỉ mất đi chiếc áo rách còn nếu được sẽ được cả giang san.
- Trong q trình xây dựng CNXH, giai cấp cơng nhân không gắn với tư hữu, do vậy,
họ cũng kiên định trong công cuộc cải tạo XHCN, kiên quyết đấu tranh chống chế độ áp
bức, bóc lột, xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
- Họ bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật
chất lẫn đời sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp tư sản là
mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, khơng thể điều hịa trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Xét về mặt
bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất chống lại chế
độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Trong chế độ TBCN, GCCN có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích cơ bản của
GCTS, bị bóc lột nặng nề => là giai cấp tiên phong, có tinh thần CM triệt để nhất (ý thức
được địa vị của mình), những giai cấp khác cịn lo việc ảnh hưởng đến lợi ích nhỏ các nhân
của họ nên dẫn đến khơng có tinh thần CM triệt để.
+ Thứ ba, giai cấp cơng nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.

12


Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại cơng nghiệp với hệ thống sản
xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp này phải
tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đô thị tập trung đã tạo nên tính
tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp cơng nhân.
Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi nó phát triển thành

một lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức: được sự giác ngộ bởi một lý luận khoa học,
cách mạng và tổ chức ra được chính đảng có nó - Đảng Cộng sản. Giai cấp cơng nhân
khơng có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì khơng thể giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội mới.
+ Thứ tư, giai cấp cơng nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế. Giai cấp
tư sản khơng chỉ bóc lột giai cấp cơng nhân ở chính nước họ mà cịn bóc lột giai cấp cơng
nhân ở các nước thuộc địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sản
xuất mang tính tồn cầu hóa, tư bản của nước này có thể đầu tư sang nước khác là một xu
hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải do một nước sản xuất ra mà là kết quả lao
động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân không chỉ
diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa
phong trào cơng nhân các nước, có như vậy, phong trào cơng nhân mới có thể giành được
thắng lợi. V.I.Lênin chỉ rõ: "... khơng có sự ủng hộ của cách mạng quốc tế của thế giới thì
thắng lợi của cách mạng vơ sản là khơng thể có được", "Tư bản là một lực lượng quốc tế.
Muốn thắng nó, cần phải có sự liên minh quốc tế".
Tóm lại, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sở dĩ được thực hiện bởi nó là một
giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên
tiến thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập phương thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là giai cấp đại
biểu cho tương lai, cho xu thế đi lên của tiến trình phát triển lịch sử - đây là đặc tính quan
trọng, quyết định bản chất cách mạng của giai cấp cơng nhân. Hồn tồn khơng phải vì
nghèo khổ mà giai cấp công nhân là một giai cấp cách mạng. Tình trạng nghèo khổ của giai

13


cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư bản là hậu quả của sự bóc lột, áp bức mà giai cấp tư sản và
chủ nghĩa tư bản tạo ra đối với cơng nhân. Đó là trạng thái mà cách mạng sẽ xóa bỏ để giải
phóng giai cấp cơng nhân và giải phóng xã hội.


C.

Phần kết

Qua hơn 35 năm đổi mới, sự biến đổi của giai cấp công nhân là do tác động từ nhiều
yếu tố, nhất là các cuộc cách mạng cơng nghiệp có chu kỳ ngày càng ngắn, u cầu phát
triển ngày càng cao. Cơng nghiệp hóa diễn ra theo kiểu rút ngắn, nhảy vọt, dựa trên cơ sở
tận dụng lợi thế so sánh của quốc gia gắn với việc ứng dụng công nghệ, đổi mới, sáng tạo,
phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững
về: xã hội, môi trường, nguồn nhân lực, hội nhập quốc tế nhanh hơn. Cho dù sự biến đổi
kinh tế, xã hội đến đâu, khoa học, cơng nghệ có phát triển tới mức nào, thì một thực tế
khơng thể phủ nhận đó là: giai cấp công nhân Việt Nam vẫn giữ nguyên sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo xã hội, lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị thơng qua Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Do vậy, quan điểm cho rằng, trước sự phát triển của kinh tế tri thức và kinh tế số giai
cấp cơng nhân đã bị phân hóa, bị suy giảm về nhiều mặt khơng cịn vai trị lãnh đạo xã hội,
vai trị lãnh đạo ấy đã chuyển sang trí thức, là quan điểm sai trái, thiếu cơ sở lý luận và thực
tiễn, đó là chủ ý thổi phồng vai trị của trí thức, kích động đội ngũ trí thức, khơi dậy tham
vọng quyền lực, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo xã hội của giai cấp công nhân thông qua
Đảng Cộng sản Việt Nam.
-Hết-

Tài liệu tham khảo
[1]Văn kiện Đại hội XI, tr.241-142
[2] />1dmy&page=ct.chitiet&urile=wcm%3Apath

14



%3A/truongchinhchilibrary/truongchinhtrisite/trangchu/nghiencuukhoahoc/hoithaokhoahoc/
htkh2nmmnmnghhbvbmcmnbmmbcmn
[3] />[4] />1dmy&page=ct.chitiet&urile=wcm%3Apath
%3A/truongchinhchilibrary/truongchinhtrisite/trangchu/nghiencuukhoahoc/hoithaokhoahoc/
htkh2nmmnmnghhbvbmcmnbmmbcmn
[5] />CateID=0&ItemID=11329
[6] />1dmy&page=ct.chitiet&urile=wcm%3Apath
%3A/truongchinhchilibrary/truongchinhtrisite/trangchu/nghiencuukhoahoc/hoithaokhoahoc/
htkh2nmmnmnghhbvbmcmnbmmbcmn
[7] />[8] />1dmy&page=ct.chitiet&urile=wcm%3Apath
%3A/truongchinhchilibrary/truongchinhtrisite/trangchu/nghiencuukhoahoc/hoithaokhoahoc/
htkh2nmmnmnghhbvbmcmnbmmbcmn
[9] />
15



×