Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY– MỘT SỐ VẤ ĐỀ LY LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.94 KB, 61 trang )

lOMoARcPSD|15547689

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

TRIỆU THỊ NHUNG
LKT 12-02

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY– MỘT SỐ VẤ ĐỀ LY LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 52380107

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN THỊ THU HIỀN

Hà Nội, 6/2020


lOMoARcPSD|15547689

LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận với đề tài “Vai trị của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương
mại ở Việt Nam hiện nay – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Em xin cam đoan
khóa luận này là do tự bản thân thực hiện cùng với sự hướng dẫn của TS. Nguyễn
Thị Thu Hiền thuộc Trường Đại học Luật Hà Nội và không sao chép các cơng trình
nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình. Các thơng tin sử dụng


trong tồn bộ khóa luận là có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng. Tác giả hoàn
toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và ngun bản của khóa luận.
Hà Nội, ngày 28 tháng 5 năm 2020
Sinh viên thực hiện

Xác nhận của Giáo viên hướng dẫn

Triệu Thị Nhung

TS. Nguyễn Thị Thu Hiền


lOMoARcPSD|15547689

LỜI CẢM ƠN
Qua khóa luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thu
Hiền – Trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận
lợi cho em hoàn thành tốt đề tài này. Trong quá trình thực hiện khóa luận, em học
hỏi được rất nhiều điều từ cơ.
Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy giáo, cô giáo giảng
dạy ở Khoa Luật – Viện Đại học mở Hà Nội, những người đã cung cấp cho em
những kiến thức quý báu trong thời gian học tập, rèn luyện tại khoa.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ trong
suốt thời gian qua.
Mặc dù đã cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, tuy nhiên do thời
gian và kiến thức còn hạn chế, chắc chắn khóa luận sẽ khơng tránh khỏi những thiếu
sót về mặt nội dung và hình thức. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn
của q thầy cơ để đề tài được hồn thiện hơn.
Sinh viên thực hiện


Triệu Thị Nhung


lOMoARcPSD|15547689

MỤC LỤC
BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT........................................................................7
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ
VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
...............................................................................................................................5
1.1 Khái quát về trọng tài thương mại

5

1.1.1.

Khái niệm trọng tài thương mại..............................................................5

1.1.2.

Đặc điểm trọng tài thương mại...............................................................8

1.1.3.

Phân loại trọng tài thương mại.............................................................12

1.2 Tổng quan về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài


15

1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài..........................................................................15
1.2.2.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài...............19

1.2.3.

Tố tụng trọng tài thương mại................................................................21

1.2.4. Ưu điểm và nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài...................................................................................23
1.3 Khái quát về tòa án và vai trò của tòa án trong tố tụng trọng tài
thương mại

25

1.3.1.

Khái quát về tòa án............................................................................... 25

1.3.2.

Vai trò của tòa án trong tố tụng trọng tài thương mại..........................26

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VAI
TRÒ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI..................................................................................................29

2.1. Chỉ định thay đổi trọng tài viên đối với trọng tài vụ việc

29

2.2. Xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
trọng tài
31
2.3. Sự hỗ trợ của tòa án trong việc thu thập chứng cứ, triệu tập người
làm chứng
33
2.3.1.

Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ...........................................................34


lOMoARcPSD|15547689

2.3.2.

MỤC LỤC
Tòa án hỗ trợ triệu tập người làm chứng..............................................35

2.4. Sự hỗ trợ của tòa án trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 36
2.5. Giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

38

2.6. Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc

39


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA
TÒA ÁN ĐỐI VỚI TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.................................................40
3.1. Thực trạng thực hiện vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng

trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay
3.1.1.

40

Về quy định Tòa án có thẩm quyền chỉ định, thay đổi Trọng tài viên . 42

3.1.2. Về xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp
của Hội đồng trọng tài......................................... Error! Bookmark not
defined.
3.1.3.......................................................................................................Về
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời........................................... 43
3.1.4.......................................................................................................Về
quy định hủy phán quyết Trọng tài........................................................44
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện vai trò của

tòa án đối với tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam

45

3.2.1. Cần có cơ chế hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà nước đối với các tổ chức
phi Chính phủ, trong đó có trọng tài thương mại............................................... 45
3.2.3. Nâng cao năng lực của Thẩm phán trong q trình thực hiện vai trị của


tịa án đối với tố tụng trọng tài

47

3.2.4.

Lựa chọn Trung tâm trọng tài phù hợp.................................................47

3.2.5.

Về chỉ định, thay đổi Trọng tài viên......................................................48

3.2.6.

Về quy định hủy phán quyết của trọng tài............................................ 49


lOMoARcPSD|15547689

BẢNG DANH MỤC VIẾT TẮT

Hội đồng trọng tài

HĐTT

Tòa án nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân tối cao


TANDTC

Trọng tài thương mại

TTTM

Trọng tài viên

TTV

Viện kiểm sát nhân dân

VKSND

Ủy ban nhân dân

UBND


lOMoARcPSD|15547689

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế đã đem lại những thành quả to lớn
về kinh tế xã hội. Nền kinh tế nước ta sau gần ba mươi năm đổi mới đã có những
chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Cũng
trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp.

Vì vậy, tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại là điều khơng
thể tránh khỏi. Do tính chất cũng như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham
gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng
đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này, cũng như các phương thức
giải quyết nó thể hiện thơng qua các quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.
Pháp luật Việt Nam đã quy định nhiều phương thức giải quyết tranh chấp như:
thương lượng, hòa giải, tòa án hay trọng tài thương mại. Đối với từng phương thức
đều có những ưu điểm, hạn chế, khơng có phương thức nào chiếm vị thế tuyệt đôi.
Tuy nhiên, căn cứ vào những ưu điểm vượt trội của trọng tài thì phương thức này
đang được các doanh nghiệp lựa chọn. Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết
tranh chấp khá phổ biến trên thế giới, nhất là tại những nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. Có thể nói, từ khi Việt Nam nỗ lực hoàn chỉnh khung pháp lý cho
hoạt động của trọng tài bằng việc ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại năm
2003 và Luật trọng tài thương mại 2010, việc giải quyết các tranh chấp thương mại
bằng trọng tài đã thực sự chuyển biến và mang lại những dấu hiệu tích cực. Cùng
với hoạt động của trọng tài thì sự hỗ trợ của tịa án cũng có những tác động nhất
định tới hiệu quả giải quyết các tranh chấp đó. Tịa án có vai trị hết sức quan trọng
trong hoạt động tố tụng trọng tài thương mại. Với tư cách là một cơ quan tài phán
nhân danh Nhà nước, tịa án góp phần làm cho hoạt động tố tụng của trọng tài
thương mại thực hiện được một cách nhanh chóng, chính xác, cơng bằng hơn. Tuy
nhiên, với những quy định của pháp luật hiện hành về vai trò của tòa án đối với hoạt
động tố tụng trọng tài đã có một số những bất cập. Nhận thấy được điều đó, em
chọn đề tài “Vai trị của Tịa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại
ở Việt Nam hiện nay – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.


lOMoARcPSD|15547689

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, vấn đề “Vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng

tài” được quan tâm nghiên cứu nhằm tăng cường hiệu quả giải quyết các tranh chấp
thương mại, đồng thời nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện vai trò của tòa án đối
với việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. Đã có những cơng trình
nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau. Trước khi Luật trọng tài
thương mại năm 2010 được thông qua, ở Việt Nam đã một số công trình nghiên cứu
liên quan đến trọng tài thương mại. Sau khi Luật trọng tài thương mại 2010 ra đời,
vấn đề nghiên cứu pháp luật về trọng tài thương mại đã nhận được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học và đã có một số đề tài nghiên cứu về vai trò của tòa án đối với
hoạt động tố tụng trọng tài.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, Luật trọng tài thương mại năm 2010 thay
thế cho pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 bị đánh giá là còn nhiều điểm
chưa hợp lý, chưa hấp dẫn các doanh nghiệp tìm đến con đường giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại, một phương thức tỏ ra có ưu thế hơn hẳn tòa án
được thừa nhận ở hầu hết các nước trên thế giới. Trong đó, vai trị của tịa án đối với
hoạt động của trọng tài thương mại là một trong những vấn đề cần phải bàn tới
nhiều nhất. Vì vậy, em chọn đề tài này cũng là để tìm hiểu sâu sắc hơn về các quy
định pháp luật về vấn đề này để có thể đưa ra được nhận xét chính xác nhất, qua đó
nêu lên một số đề xuất để việc thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài thương mại được thuận lợi hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu, làm sáng tỏ những quy định pháp luật về
TTTM, giải quyết tranh chấp thương mại bằng TTTM và những quy định pháp luật
về sự hỗ trợ của tòa án trong giải quyết tranh chấp thương mại để làm rõ các vấn đề
về vai trò của tòa án trong tố tụng TTTM. Qua đó, phân tích làm rõ thực trạng pháp
luật về vai trò của tòa án đối với tố tụng trọng tài ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn
áp dụng pháp luật của vấn đề này. Từ thực tiễn áp dụng, khóa luận đưa ra một số
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện vai trò của tòa án đối với hoạt động tố


lOMoARcPSD|15547689


tụng trọng tài ở Việt Nam hiện nay. Đề tài nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề
lý luận, các khía cạnh pháp lý về vai trị của tịa án trong tố tụng trọng tài nhằm tiếp
cận vấn đề sâu hơn và có cái nhìn tồn diện hơn.
Để đạt được những mục đích đã nêu ra ở trên, đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau:
-

Một là, nghiên cứu và phân tích làm rõ cơ sở lý luận về TTTM và vai trò

của tòa án đối với hoạt động tố tụng TTTM.
-

Hai là, nghiên cứu và phân tích nội dung quy định pháp luật hiện hành về vai

trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng TTTM ở Việt Nam.
-

Ba là, phân tích và đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về vai trò của tòa

án đối với hoạt động tố tụng trọng tài ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện vai trò của tòa án đối với hoạt động tố
tụng TTTM.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê Nin.
Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, đề tài đã áp dụng một số phương pháp cụ
thể như: phương pháp phân tích để làm sáng tỏ nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu;
phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ mức độ tương quan giữa các quy
định, các quan điểm để từ đó có những đánh giá, nhận định khách quan về nội dụng
nghiên cứu; phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa nội dung nghiên

cứu một cách có hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc tích, dễ
hiểu; phương pháp thống kê đem đến một cách nhìn cụ thể hơn thơng qua những
con số.
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương, cụ thể như sau:
Chương I: Lý luận chung về trọng tài thương mại và vai trò của tòa án trong tố
tụng trọng tài thương mại.


lOMoARcPSD|15547689

Chương II: Nội dung quy định pháp luật Việt Nam về vai trò của tòa án đối
với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại.
Chương III: Thực trạng thi hành pháp luật về vai trò của tòa án đối với tố tụng
trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị.


lOMoARcPSD|15547689

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ
VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái quát về trọng tài thương mại

1.1.1.

Khái niệm trọng tài thương mại


Trong cơ chế nền kinh tế thị trường, các chủ thể có quyền tự chủ rất cao và họ
có tồn quyền quyết định việc thiết lập các quan hệ kinh tế - thương mại của mình
miễn là khơng trái với các quy định của pháp luật. Chính vì vậy, các quan hệ thương
mại trong nền kinh tế rất đa dạng và phức tạp. Tính phức tạp và chồng chéo đan xen
của các quan hệ thương mại ẩn chứa một nguy cơ phát sinh tranh chấp rất cao. Các
chủ thể kinh tế khi tham gia vào những quan hệ thương mại mà họ cho là có lợi, có
thể là vật chất hoặc phi vật chất và khi mục đích có nguy cơ khơng đạt được cũng sẽ
phát sinh tranh chấp. Trong quan hệ thương mại, quyền lợi của bên này cũng tương
ứng với nghĩa vụ của bên kia, điều đó khiến cho xung đột lợi ích sẽ phát sinh nếu
các bên không đi đến một thỏa thuận thống nhất dung hòa được quyền lợi và nghĩa
vụ của họ. Khi tranh chấp xảy ra phải có phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp
là đòi hỏi khách quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh
tế, đảm bảo nguyên tắc pháp chế, thông qua đó góp phần tạo lập mơi trường pháp lý
lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phải
đáp ứng các yêu cầu:
-

Nhanh chóng, thuận lợi, khơng làm hạn chế, cản trở các hoạt động kinh
doanh.

-

Khơi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh

doanh.
-

Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường.


-

Kinh tế nhất.
Căn cứ vào nhu cầu điều chỉnh pháp luật có sự phân hóa đối với các hoạt động

kinh doanh thì cho tới thời điểm hiện tại, các phương thức giải quyết tranh chấp chủ
yếu được áp dụng rộng rãi bao gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại


lOMoARcPSD|15547689

và giải quyết thơng qua tịa án. Cùng với sự phát triển kinh tế, TTTM đã trở thành
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại phổ biến nhất và được các chủ thể
kinh tế ưu tiên lựa chọn.
Trọng tài là một trong những phương thức cổ xưa nhất để giải quyết bất hòa
giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia. Người Hy Lạp và La Mã cổ đại
đã biết sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp. Quy định sơ khai về
trọng tài trong luật mua bán hàng hóa cho phép các lái bn được tự phân xử bất
hịa của mình khơng cần có sự can thiệp của Nhà nước. Về sau, Luật La Mã cho
phép mở rộng phạm vi tranh chấp, không chỉ trong biên giới lãnh thổ, mà cịn ở
những nước La Mã có trao đổi hàng hóa, trải rộng trên khắp lục địa Châu Âu.
Trong hệ thống pháp luật của Anh, văn bản đầu tiên về trọng tài phải kể đến
Luật trọng tài năm 1697, nhưng vào thời điểm luật được thông qua thì nó đã trở
thành một phương thức rất phổ biến vì phán quyết đầu tiên của trọng tài ở Anh đã
được đưa ra năm 1610. Tuy nhiên, quy định sơ khai về trọng tài trong hệ thống luật
pháp Common law thể hiện một hạn chế cơ bản là bất cứ bên tham gia tranh chấp
nào cũng có thể từ chối thực hiện phán quyết của trọng tài nếu thấy phán quyết đó
bất lợi cho mình. Hạn chế này đã được khắc phục trong Luật trọng tài năm 1697.
Trong hiệp ước Jay năm 1974, Anh và Mỹ đã thống nhất đưa các vấn đề còn tranh
chấp liên quan đến các khoản nợ và biên giới ra giải quyết ở trọng tài. Việc giải

quyết tranh chấp kéo dài 7 năm và được coi là kết thục thành công. Từ đầu thế kỷ
XX, các nước trên thế giới (trong đó có Pháp và Mỹ) bắt đầu thông qua các đạo luật
quy định và khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thay cho tòa án.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài cũng phát triển, dẫn tới việc hình thành những tổ chức
trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong các hợp đồng thương
mại quốc tế. Tầm quan trọng của trọng tài ngày càng được thừa nhận rộng rãi.
Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập và ngày càng được sử dụng
rộng rãi trong thực tiễn xét xử quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực quan hệ kinh tế
quốc tế. Cuối thế kỷ XIX, người ta đã cố gắng hợp thức hóa tư cách pháp lý cho
hình thức trọng tài qua hai Hội nghị Quốc tế. Đó là hội nghị Hịa Bình được tổ chức


lOMoARcPSD|15547689

tại La – Hay, Hà Lan năm 1899 và năm 1907. Hai hội nghị này đã đi đến việc soạn
thảo quy chế và thủ tục và nỗ lực hướng dẫn các quốc gia áp dụng triệt để các hiệp
ước trọng tài. Cũng như các thuật ngữ khoa học pháp lý khác, khái niệm “trọng tài”
đã được đề cập nhiều trong luật quốc tế. Định nghĩa sớm nhất về trọng tài được nêu
trong công ước La – Hay năm 1899, theo đó: “Trọng tài là nhằm để giải quyết
những bất đồng của các bên, thông qua một người thứ ba do chính các bên lựa
chọn và đặt trên cơ sở tơn trọng luật pháp”. Công ước La-Hay năm 1907 qui định:
“Trọng tài quốc tế có đối tượng giải quyết là những tranh chấp giữa các quốc gia
qua sự can thiệp của những trọng tài viên do các quốc gia tranh chấp lựa chọn và
đặt trên cơ sở của sự tôn trọng luật pháp”. (Theo: Trần Thị Tường Vân, Hội nghị
khoa học trẻ Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh lần 1 “Pháp luật hiện hành về trọng tài
thương mại trên hành trình hội nhập và phát triển”).
Trong khoa học pháp lý, TTTM được nghiên cứu dưới nhiều bình diện khác
nhau và do đó, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về trọng tài. Tuy nhiên, có
hai cách tiếp cận phổ biến nhất, đó là:

Thứ nhất, TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại. Theo cuốn đại từ điển kinh tế thị trường, Trọng tài được hiểu là
phương pháp giải quyết hịa bình các vụ tranh chấp. Ở đó, chỉ đơi bên đương sự tự
nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư
cách cơng bằng, chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực
ràng buộc với hai bên tranh chấp (Theo: đại từ điển kinh tế thị trường (1998), Nhà
xuất bản bách khoa, Hà Nội). Bên cạnh đó, theo Hội đồng trọng tài Mỹ AAA
(American Arbitration Association) thì: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh
chấp bằng cách đệ trình tranh chấp đó cho một số người khách quan xem xét giải
quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên phải thi
hành”.
Ở Việt Nam, chế định về TTTM được du nhập vào hệ thống pháp luật từ cuối
thế kỷ XIX. Tuy nhiên trong giai đoạn sơ khai (giai đoạn trước năm 2003), khơng
có một luật về trọng tài thống nhất điều chỉnh hệ thống trọng tài trong nước và trọng
tài quốc tế. Thêm vào đó, quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài không được


lOMoARcPSD|15547689

bảo đảm thi hành. Vì thế, mơ hình trọng tài thương mại chưa thực sự đạt được
những thành tựu đáng kể trên hành trình tiếp cận những chuẩn mực của trọng tài
thương mại hiện đại. Ngày 25/02/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp
lệnh TTTM 2003, thể hiện nỗ lực hội nhập to lớn của Việt Nam cũng như đánh dấu
giai đoạn chuyển tiếp trong quá trình phát triển của pháp luật trọng tài ở nước ta.
Tại khoản 1, Điều 2 Pháp lệnh TTTM năm 2003 quy định: “Trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các
bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh này quy định”.
Qua hơn sáu năm áp dụng và cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội, một số quy
định của Pháp lệnh đã bộc lộ bất cập và khơng cịn phù hợp. Do vậy, Pháp lệnh
TTTM năm 2003 đã được thay thế bằng Luật TTTM năm 2010 được Quốc Hội

thông qua ngày 17/06/2010 và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2011. Theo quy
định tại khoản 1, Điều 3 của Luật TTTM năm 2010 thì “Trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo
quy định của Luật này”.
Thứ hai, TTTM là một cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại, được thành lập tự nguyện bởi các TTV để giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại theo yêu cầu của các bên
tranh chấp. Dưới góc độ này, trọng tài bao gồm những cá nhân được các bên lựa
chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ hay là một
cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh chấp cho để xét xử.
Dù được tiếp cận dưới góc độ nào, xét về mặt bản chất, TTTM là một phương
thức giải quyết tranh chấp do các bên tự thỏa thuận lập ra nhằm giải quyết dứt điểm
các vụ tranh chấp. Nói cách khác, trọng tài là cơ quan xét xử mang tính chất “tư” do
các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại của chính họ.
1.1.2.

Đặc điểm trọng tài thương mại

Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại, TTTM có
những đặc điểm sau:


lOMoARcPSD|15547689

Thứ nhất, Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia
của bên thứ ba – một TTV duy nhất hoặc HĐTT. Trọng tài do các bên tranh chấp
thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp sẽ hoàn toàn độc lập với
các bên, đưa ra phán quyết có tính chất bắt buộc để bảo vệ quyền lợi của các bên.
Thứ hai, Trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp thơng qua một thủ

tục tố tụng chặt chẽ. Tuy các quy tắc tố tụng trọng tài ở các quốc gia rất khác nhau
nhưng nhìn chung quy tắc lựa chọn TTV và thủ tục của hầu hết các Trung tâm trọng
tài trên thế giới đều dựa theo khuôn mẫu của Quy tắc trọng tài mẫu UNCITRAL.
Khi giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, các TTV và các đương sự phải tuân thủ
đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức
trọng tài đó quy định.
Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa yếu tố
thỏa thuận và tài phán. Trọng tài khơng có thẩm quyền đương nhiên mà xuất phát từ
sự thỏa thuận từ các chủ thể tranh chấp đối với trọng tài. Nếu muốn một tranh chấp
được đưa ra trọng tài giải quyết thì các bên phải có thỏa thuận lựa chọn trọng tài
giải quyết vào thời điểm trước hoặc kể cả sau khi tranh chấp xảy ra. Nếu khơng có
thỏa thuận trọng tài hoặc có nhưng thỏa thuận trọng tài vơ hiệu thì trọng tài cũng
khơng có thẩm quyền giải quyết. Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và khơng
thể có phán quyết thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận. Bởi vậy, về nguyên tắc
thẩm quyền của trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật. Các đương sự có thể lựa
chọn bất cứ một trọng tài vụ việc (Trọng tài ad-hoc) hoặc một tổ chức trọng tài nào
trên thế giới. Tuy nhiên, do trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước
như tòa án nên phán quyết của trọng tài khơng mang tính quyền lực Nhà nước. Phán
quyết của trọng tài có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp nhưng khơng có
giá trị ràng buộc đối với bên thứ ba. Ngay cả khi một bên tranh chấp không tôn
trọng phán quyết trọng tài và khơng tự nguyện thi hành phán quyết thì trọng tài
cũng khơng có cơ chế cưỡng chế thi hành. Phán quyết trọng tài do các bên tự
nguyện thi hành hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan Nhà nước cụ thể là tòa án để
cưỡng chế thi hành.


lOMoARcPSD|15547689

Thứ tư, hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã đảm bảo quyền tự do
định đoạt của các đương sự cao hơn so với quyết định giải quyết tranh chấp bằng

tịa án như:
Các đương sự có quyền lựa chọn TTV, lựa chọn địa điểm tranh chấp, quy tắc
tố tụng và được chọn luật áp dụng cho tranh chấp. Điều 14, Luật TTTM năm 2010
quy định:
“1. Đối với tranh chấp khơng có yếu tố nước ngồi, Hội đồng trọng tài áp dụng
pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
2. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngồi, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật
do các bên lựa chọn; nếu các bên khơng có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng
trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.
3. Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn khơng có quy
định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng
tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc
áp dụng đó khơng trái với các ngun tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Ngoài ra, một trong những nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp thương mại
bằng TTTM đó là phiên họp giải quyết tranh chấp thương mại bằng TTTM không
diễn ra công khai trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Nguyên tắc này đã thể
hiện được sự tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt do đó ngồi ngun đơn và bị đơn,
Trọng tài chỉ triệu tập các đương sự khác khi cần thiết.
Với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp, TTTM có những đặc điểm
như sau:
Thứ nhất, TTTM là một loại hình tổ chức phi Chính phủ (khơng hưởng ngân
sách nhà nước), hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng tài. Thuật ngữ “Trọng tài
phi Chính phủ” khơng có nghĩa là cơ quan này sẽ khơng chịu sự quản lý, giám sát
của Nhà nước. Phi Chính phủ là để phân biệt với một cơ quan tài phán Nhà nước,
có quyền lực Nhà nước. Nhà nước khơng can thiệp sâu vào các hoạt động của cơ
quan trọng tài, nhưng sẽ thực hiện vai trị quản lý của mình thơng qua hệ thống các
quy định pháp luật, cũng như những tác động khác như tham gia điều ước quốc tế,


lOMoARcPSD|15547689


đào tạo, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất…TTTM hoạt động theo pháp luật và quy
chế trọng tài. Nó có quyền ban hành phán quyết như Tịa án và có giá trị ràng buộc
với các bên tranh chấp. Tính Phi Chính phủ được thể hiện:
-

Tổ chức Trọng tài không phải được thành lập bởi Nhà nước mà được thành

lập theo sáng kiến của TTV sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho
phép;
-

HĐTT, các tổ chức Trọng tài và các TTV không nằm trong hệ thống cơ quan

quản lý Nhà nước, cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước.
-

Các tổ chức Trọng tài hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải mà không được

cấp kinh phí hoạt động trong ngân sách Nhà nước.
-

TTV hoặc HĐTT không nhân danh quyền lực Nhà nước mà nhân danh người

thứ ba để ra phán quyết.
-

HĐTT vẫn luôn đặt dưới sự hỗ trợ và quản lý của Nhà nước, Nhà nước ban

hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động như

cấp, thay đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các
Trung tâm trọng tài. Nhà nước hỗ trợ các hoạt động tố tụng của trọng tài như: hỗ trợ
chỉ định, thay đổi TTV, cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài.
Thứ hai, phán quyết của TTTM có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước
bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào. Trong khi tòa án xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm, rồi
còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi cịn khiếu nại, khiếu kiện và cịn có sự
tham gia của nhiều cơ quan khác (như Viện kiểm sát...). Còn cách thức giải quyết
bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và linh động. Tính chung thẩm của quyết định
trọng tài khơng chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự mà nó cịn khiến
các bên không thể chống án hay kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét
xử. Khi tuyên phán quyết xong, HĐTT hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại
của mình. Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương
mại. Chính những ưu điểm đó bảo đảm rằng nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi quyết
định tham gia đầu tư thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước ngồi
và cả bên Việt Nam thơng qua việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Phán quyết


lOMoARcPSD|15547689

trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về
tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Phán quyết trọng tài là quyết định cuối
cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của tòa án. Tuy là chung thẩm, nhưng tố
tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi hành, nên bên đương sự nào không
chấp nhận phán quyết của trọng tài thì có thể kiện ra Tịa kinh tế theo thủ tục giải
quyết các vụ án.
1.1.3. Phân loại trọng tài thương mại
Trọng tài vụ việc (Ad-hoc) là loại hình xuất hiện sớm nhất và rất phổ biến trên thế
giới. Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tại được lập ra để giải quyết những tranh
chấp cụ thể khi có yêu cầu và tự giải thể khi giải quyết xong những tranh chấp đó.

Theo khái niệm tại trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn do
Trung tâm Thương mại Quốc tế UNCTAD/WTO – Geneva: ITC thì: “Trọng tài vụ
việc có nghĩa là trọng tài khơng được tiến hành theo quy tắc của một tổ chức Trọng
tài thường trực. Do các bên không bắt buộc phải tiến hành Trọng tài theo quy tắc
của một tổ chức Trọng tài thường trực nên họ có thể tự do quy định quy tắc tố tụng
riêng. Nói cách khác, Trọng tài vụ việc là trọng tài tự tiến hành (do it yourself
arbitration).”
Trọng tài vụ việc là loại hình trọng tài chỉ có tính chất lâm thời, khơng có trụ sở và
bộ máy cố định và không lệ thuộc vào bất cứ một quy tắc xét xử nào. Về nguyên
tắc, các bên đương sự khi yêu cầu trọng tài Ad-hoc xét xử có quyền lựa chọn thủ
tục, các phương thức tiến hành tố tụng. Tính chất của trọng tài vụ việc là hồn tồn
phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự, do vậy, trọng tài vụ việc có một số đặc
điểm sau:
Một là, các bên có quyền lựa chọn TTV khơng bị giới hạn vào một danh sách trọng
tài có sẵn như ở hình thức trọng tài quy chế. TTV có thể là bất cứ ai mà các bên tín
nhiệm. Thơng thường đó là các luật gia, luật sư, giáo sư các trường đại học, các
thương gia có uy tín, chuyên gia hàng đầu trong nhiều lĩnh vực như ngoại thương,
đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, công nghệ thông tin, sở hữu công


lOMoARcPSD|15547689

nghiệp. Họ là những người vừa có kiến thức về pháp lý lại vừa có kinh nghiệm
trong hoạt động thương mại.
Hai là, các bên cũng có tồn quyền trong việc xác lập quy chế tố tụng như cách
thiết lập HĐTT và thủ tục giải quyết thích hợp với từng vụ tranh chấp. Các bên sẽ
tự tổ chức HĐTT, tự thỏa thuận q trình tố tụng. Hoạt động trọng tài khơng lệ
thuộc vào bất cứ quy tắc xét xử nào miễn là bảo đảm được nguyên tắc xét xử khách
quan, vô tư và đúng pháp luật.
Trọng tài vụ việc là hình thức tổ chức đơn giản, khá linh hoạt và mềm dẻo về

phương thức hoạt động nên nói chung phù hợp với những tranh chấp ít tình tiết
phức tạp, có nhu cầu giải quyết nhanh chóng và nhất là các bên tranh chấp có kiến
thức và hiểu biết pháp luật cũng như kinh nghiệm tranh tụng. Nhưng, trên thực tế,
đây là một quá trình tốn thời gian nhằm thảo ra những quy định đặc biệt dành riêng
cho trọng tài vụ việc. Thơng thường hình thức này được áp dụng với TTTM quốc
tế, phù hợp với những trường hợp mà thiệt hại lớn, đặc biệt trong những vụ việc có
liên quan tới chủ thể là một quốc gia hay một tổ chức quốc gia có liên quan và các
vấn đề thuộc chính sách và quyền lực cơng có thể phát sinh. Thơng qua trọng tài vụ
việc, có thể tạo ra thủ tục về tố tụng có lợi cho cả hai bên, mà vẫn đạt được những
yêu cầu đặt ra trong những vụ việc nhạy cảm có liên quan đến một bên chủ thể là
quốc gia. Trước khi Pháp lệnh TTTM 2003 ra đời, ở Việt Nam, trọng tài vụ việc chỉ
được thừa nhận để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Điều này được quy định trong
nhiều văn bản pháp lý khác nhau như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật
hàng không dân dụng, Pháp lệnh chuyển giao công nghệ…Pháp lệnh TTTM 2003
lần đầu tiên quy định tương đối cụ thể về Trọng tài vụ việc, cho phép Trọng tài vụ
việc giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh kể cả tranh chấp quốc tế và trong
nước miễn là các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn. Pháp lệnh quy định về việc
chọn TTV để thành lập HĐTT, thủ tục tố tụng, việc hủy quyết định trọng tài, việc
thi hành quyết định của trọng tài vụ việc tương tự như trọng tài quy chế. Hiện nay,
Luật TTTM 2010 được ban hành trên cơ sở kế thừa những quy định của Pháp lệnh
TTTM 2003 và bổ sung thêm một số quy định mới về trọng tài vụ việc như việc


lOMoARcPSD|15547689

đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc. Những quy định này là cơ sở vững chắc để
Trọng tài vụ việc hoạt động song song với trọng tài quy chế và tòa án.
Trọng tài quy chế là những trọng tài có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có trụ sở cố định,
có danh sách TTV và hoạt động theo điều lệ riêng, được thành lập để giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Phần lớn các tổ chức

trọng tài lớn, có uy tín riêng trên thế giới đều được thành lập theo mơ hình này dưới
các tên gọi như: Trung tâm trọng tài (như Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapo
(SIAC), Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế của Australia, Trung tâm Trọng
tài Quốc tế Hồng Kông…), các Hiệp hội trọng tài (Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ
(AAA), Hiệp hội Trọng tài Thương mại Nhật Bản) hay các Viện trọng tài (Viện
Trọng tài Stockhom của Thụy Điển, Viện Trọng tài Singapo, Viện trọng tài Luân
Đôn). Các tổ chức này tồn tại độc lập, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước
và hoạt động một cách thường xuyên, sẵn sàng giải quyết các tranh chấp khi các
đương sự yêu cầu. Tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ tồn tại trong pháp luật trọng
tài ở một số nước Châu Á như Trung Quốc và Thái Lan. Ở Trung Quốc, các Ủy ban
Trọng tài Kinh tế là cơ quan nhà nước thuộc Cục Quản lý Hành chính Cơng thương
các cấp. Ở Thái Lan, Viện trọng tài trực thuộc Bộ Tư pháp, có quy tắc tố tụng riêng
nhằm hỗ trợ, phát triển các hoạt động hòa giải và trọng tài.
Ở Việt Nam, trọng tài thường trực hay trọng tài quy chế là hình thức được pháp luật
ghi nhận trước. Ngay từ năm 1963, trọng tài thường trực đã ra đời. Đó là Hội đồng
trọng tài ngoại thương được tổ chức theo Nghị định số 59/NĐ-CP ngày 30/04/1963
và Hội đồng trọng tài hàng hải được tổ chức theo NĐ 153 ngày 05/10/1964 của Hội
đồng chính phủ. Đến năm 1993, theo Quyết định số 204/QĐ-TTg ngày 28/04/1993
của thủ tướng chính phủ, cho phép thành lập Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam
bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội
đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải. Đồng thời với việc
ban hành nghị định
116/NĐ-CP ngày 05/09/1994 về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế cũng
cho ra đời các trung tâm trọng tài là những tổ chức trọng tài thường trực. Các Trung
tâm trọng tài kinh tế đã mang dáng dấp của một tổ chức phi chính phủ, có Điều lệ


lOMoARcPSD|15547689

và con dấu nhưng vẫn chưa có tư cách pháp nhân. Điều lệ của các Trung tâm trọng

tài kinh tế cần được sự chuẩn y của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, các TTV trong danh
sách TTV phải do Hội đồng xét chọn TTV do Bộ Tư pháp thành lập, xét duyệt và
được Bộ trưởng Bộ tư pháp công nhận và cấp thẻ TTV có thời hạn hai năm. Đến
Pháp lệnh TTTM 2003, TTTM được chính thức thừa nhận là tổ chức phi Chính phủ,
có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, danh sách TTV do tổ chức
trọng tài tự lựa chọn. Quy định này tiếp tục được ghi nhận trong Luật TTTM năm
2010.
Như vậy, Luật TTTM năm 2010 cũng phân loại TTTM thành hai hình thức, đó là
trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế. Đây cũng là một điểm mới của Luật TTTM
năm 2010 khi không gọi trọng tài thường trực như trong Pháp lệnh TTTM năm
2003 mà thay bằng trọng tài quy chế. Nhìn chung, sự thay đổi này chủ yếu là thay
đổi về tên, cịn về bản chất thì loại hình trọng tài này không khác biệt đáng kể.
1.2. Tổng quan về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài
1.2.1.

Lịch sử hình thành và phát triển của phương thức giải quyết tranh

chấp thương mại bằng trọng tài
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, TTTM, với tư cách là một cơ chế giải quyết
tranh chấp ngoài toà án, đã và đang góp phần khơng nhỏ vào sự ổn định của hoạt
động thương mại trên thế giới. Chế định trọng tài du nhập vào hệ thống pháp luật
nước ta từ cuối thế kỷ XIX. Trong một tranh chấp đất đai năm 1897, Tòa thượng
thẩm Sài Gòn xét rằng “trọng tài được thừa nhận trong pháp luật An Nam”. Trong
thời gian này, các bộ luật dân sự rồi toà án thương mại lần lượt ra đời. Như vậy, cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chế định trọng tài đã là một phần trong pháp luật tố
tụng dân sự. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội đương thời không thuận lợi cho sự phát
triển của mơ hình trên. Do đó, về cơ bản, trọng tài khơng có tác động đáng kể đến
xã hội Việt Nam trong giai đoạn này.
Những sự kiện lịch sử diễn ra vào giữa thế kỷ XX đã làm thay đổi vận mệnh

quốc gia, trong đó có hệ thống pháp luật. Cùng với chế độ hợp đồng kinh tế, các tổ


lOMoARcPSD|15547689

chức trọng tài kinh tế được hình thành tuy mang nét khác biệt cơ bản so với TTTM
hiện đại. Bên cạnh đó, cịn tồn tại trọng tài phi chính phủ, đó là Hội đồng trọng tài
ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải Việt Nam. Tuy nhiên, hai tổ chức trên
chỉ thực sự hoạt động từ năm 1989 khi quan hệ ngoại thương bắt đầu phát triển. Sau
đó chúng được sáp nhập thành Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam theo Quyết định số 204/TTg ngày
28/03/1993 của Thủ tướng Chính phủ.
Bước vào thời kỳ hội nhập, diện mạo pháp luật nước ta có sự thay đổi. Lúc
này tồn tại song song hai hệ thống cùng có chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế
là trung tâm trọng tài kinh tế và tịa án kinh tế. Ngồi ra, tồn tại hai mơ hình trọng
tài phi Chính phủ khác nhau. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hoạt động theo Điều lệ và Quy tắc tố
tụng riêng. Trong khi đó, có 5 trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định
116/CP ngày 05/09/1994 với hoạt động thực tiễn rất hạn chế. Do đó, thành cơng của
Nghị định 116/CP khá khiêm tốn do yếu tố quản lý nhà nước được đề cao mà chưa
chú ý đúng mức yếu tố thực tiễn. Hơn nữa, các văn bản pháp luật trên đều có hiệu
lực pháp lý thấp. Do vậy, yêu cầu phải sớm ban hành văn bản thống nhất, có hiệu
lực pháp lý cao nhằm ổn định mặt bằng pháp lý cho mô hình trọng tài trở nên bức
thiết. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động tích cực đến việc xây dựng
hành lang pháp lý, đặc biệt thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1988 và
các văn bản luật sửa đổi, bổ sung sau đó. Năm 1995, Việt Nam gia nhập Công ước
New York, đánh dấu sự cải thiện đáng kể môi trường pháp lý nhằm tạo thuận lợi
trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trong thời kỳ này, khơng có một luật về trọng
tài thống nhất điều chỉnh hệ thống trọng tài trong nước và trọng tài quốc tế. Thêm
vào đó, quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài không được bảo đảm thi hành.

Vì thế, mơ hình TTTM trong giai đoạn này chưa thực sự đạt được những thành tựu
đáng kể trên hành trình tiếp cận những chuẩn mực của TTTM hiện đại.
Nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật thời kỳ trước, sau sáu năm
chuẩn bị, ngày 25/02/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh
TTTM gồm 8 chương và 37 điều, thể hiện nỗ lực to lớn của Việt Nam hoà cùng xu


lOMoARcPSD|15547689

thế hội nhập. Pháp lệnh TTTM năm 2003 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng mang
tính chuyển tiếp trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về TTTM. Về cơ
bản, Pháp lệnh đã khắc phục được những hạn chế trong các quy định về TTTM mà
chính những hạn chế đó là nguyên nhân chủ yếu làm giảm sút đáng kể sự hấp dẫn
của chế định trọng tài trong thực tiễn giải quyết tranh chấp nảy sinh trong quá trình
kinh doanh, thương mại. Trong bối cảnh Pháp lệnh TTTM 2003 được ban hành vào
thời điểm Luật Thương mại 1997 vẫn đang còn hiệu lực nhưng các nhà lập pháp đã
mạnh dãn đưa ra khái niệm thương mại theo hướng mở, tương thích với Luật mẫu
về TTTM UNICITRAL mà khơng bị bó buộc trong 14 hành vi quy định trong Luật
thương mại năm 1997. Đây được coi là một bước đột phá trong công tác lập pháp
thời điểm này. Bên cạnh đó, về mơ hình và cơ cấu tổ chức, Pháp lệnh TTTM 2003
thừa nhận hai hình thức trọng tài gồm Trung tâm trọng tài (Trọng tài thường trực
hoặc tổ chức trọng tài) và trọng tài vụ việc (Trọng tài Ad hoc). Hình thức trọng tài
vụ việc lần đầu tiên được thừa nhận, tạo điều kiện cho các bên tự do lựa chọn hình
thức trọng tài. Trong một tranh chấp về việc giao nhận thầu xây dựng diễn ra vào
cuối năm 2009, các bên đã tiến hành giải quyết tranh chấp thông qua một HĐTT vụ
việc. Đây được xem là vụ kiện bằng phương thức trọng tài vụ việc đầu tiên tại Việt
Nam. Hơn nữa, Pháp lệnh TTTM 2003 xác định phạm vi cụ thể hơn thẩm quyền
của trọng tài bằng cách liệt kê các loại việc trọng tài được giải quyết (Điều 2). Pháp
lệnh đưa ra cơ chế xác định hiệu lực pháp lý của thoả thuận trọng tài, làm cơ sở
phân định thẩm quyền giữa trọng tài và tịa án. Có thể nói, Pháp lệnh TTTM năm

2003 đã khắc phục được hầu hết những bất cập trong các quy định trước đây đặc
biệt là quy định về sự hỗ trợ, giám sát của tòa án, cơ quan thi hành án trong quá
trình giải quyết tranh chấp và thi hành quyết định trọng tài, khắc phục tình trạng
phán quyết trọng tài được tun nhưng khơng có bất kỳ cơ chế thi hành nào khiến
doanh nghiệp mất lòng tin khi lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Mặc dù Pháp lệnh TTTM 2003 đã thể hiện sự thành công đáng kể trong việc
điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của trọng tài. Tuy nhiên, qua sáu năm thực hiện, Pháp
lệnh TTTM 2003 cũng bộc lộ khơng ít bất cập và cần được khắc phục kịp thời như:
thỏa thuận trọng tài vô hiệu, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, việc triệu
tập nhân chứng, vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của HĐTT,


lOMoARcPSD|15547689

việc hủy quyết định trọng tài mà đặc biệt là cơ chế hỗ trợ của tòa án, cơ quan thi
hành án đối với quyết định trọng tài. Do đó, thực hiện chiến lược cải cách tư pháp
nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật TTTM 2010
được hội thơng qua ngày 17/06/2010 và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2011 với
mục tiêu ghi nhận chủ trương mở rộng các hình thức giải quyết tranh chấp trong
hoạt động thương mại và một số quan hệ dân sự khác, đáp ứng nhu cầu và khuyến
khích các bên tranh chấp sử dụng hình thức trọng tài, góp phần giảm tải hoạt động
xét xử của hệ thống toà án hiện nay.
Luật TTTM năm 2010 đã khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi
thẩm quyền của trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó bảo đảm
sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành thông qua việc mở rộng phạm
vi thẩm quyền của trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích
của các bên (Điều 2). Đồng thời, Luật đã giới hạn lại các tình huống làm thoả thuận
trọng tài vô hiệu (Điều 18) và quy định hướng giải quyết khi thỏa thuận trọng tài
không rõ ràng nhằm nâng cao khả năng tính khả thi trong thực tế. Luật TTTM 2010
đã kế thừa Pháp lệnh TTTM 2003 trong quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với

TTV nhằm hình thành đội ngũ TTV có năng lực, chuyên nghiệp và uy tín xã hội.
Tuy nhiên, Luật TTTM 2010 khơng u cầu TTV phải có quốc tịch Việt Nam như
Pháp lệnh TTTM 2003, quy định mới của Luật đã đáp ứng nhu cầu thực tế trong
giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, Luật TTTM
năm 2010 đã phân biệt rõ khái niệm “quyết định trọng tài” và “phán quyết trọng tài”
(Khoản 9 và 10, Điều 3). Trong quá trình giải quyết tranh chấp, HĐTT có quyền ra
nhiều loại quyết định khác nhau, trong đó, phán quyết trọng tài là loại quyết định
đặc biệt, giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài. Việc
phân biệt trên phù hợp với thực tiễn cũng như pháp luật và thông lệ quốc tế. Luật
cũng đã xác định rõ nét mối quan hệ giữa trọng tài với toà án trong tồn bộ q
trình giải quyết tranh chấp bằng việc cụ thể hố thẩm quyền của tồ án đối với hoạt
động trọng tài. Thêm vào đó, Luật cũng nâng cao vị thế của trọng tài thông qua việc
mở rộng thẩm quyền của HĐTT như cho phép TTTM được thu thập chứng cứ, triệu
tập nhân chứng, áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời


lOMoARcPSD|15547689

(Điều 47, 48, 49, 50 và 51). Quy định của Luật đã tiếp thu Luật mẫu UNCITRAL
được sửa đổi năm 2006 nhằm nâng cao tính hiệu quả của hoạt động tố tụng trọng tài
1.2.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài
TTTM được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương mại. Nhưng
những tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của
TTTM nếu các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận này có hiệu lực.
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài, họ trao
cho HĐTT thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định thẩm quyền xét xử đó của
tịa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vơ hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
Theo Luật TTTM năm 2010, để TTTM có thẩm quyền giải quyết thì cần các điều
kiện sau:
a. Điều kiện về loại tranh chấp:

Thứ nhất, tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Loại
tranh chấp này đòi hỏi các bên trong tranh chấp đều phải là các chủ thể tiến hành
hoạt động thương mại, mà theo quy định tại khoản 1, Điều 3 Luật thương mại năm
2005 thì “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác”. Chủ thể tiến hành hoạt động thương mại trước hết là
thương nhân, bao gồm thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài. Bên
cạnh hoạt động của thương nhân, hoạt động của các cá nhân dưới hình thức tự mình
hằng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho
phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định về
pháp luật đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân” cũng được xem là
hoạt động thương mại.
Thứ hai, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thương mại. Quy định này mở rộng phạm vị thẩm quyền của trọng tài. Trước
đây, theo quy định của Pháp lệnh TTTM năm 2003, TTTM chỉ có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại giữa các tổ chức, cá nhân


×