Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Một số giải pháp phát triển vốn nhân lực của trung tâm điều độ hệ thống điện miền Bắc trong nền kinh tế thi trường.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.05 KB, 72 trang )


MỤC LỤC
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Thứ tự Tên bảng biểu Trang
Bảng 2.1
Quy mô vốn nhân lực tại trung tâm điều độ hệ thống điện Miền
Bắc giai đoạn (2004 – 2008)
31
Bảng 2.2
Vốn nhân lực của trung tâm điều độ hệ thống điện Miền Bắc
theo giới tính giai đoạn (2004 – 2008)
33
Bảng 2.3
Vốn nhân lực của trung tâm điều độ hệ thống điện Miền Bắc
theo độ tuổi giai đoạn (2004 – 2008)
37
Bảng 2,4
Vốn nhân lực của trung tâm điều độ hệ thống điện Miền Bắc
theo vị trí công tác giai đoạn (2004 – 2008)
41
Bảng 2.5
Trình độ đào tạo của vốn nhân lực tại trung tâm điều độ hệ
thống điện Miền Bắc giai đoạn (2004 – 2008)
45
Bảng 2.6
Đội ngũ kỹ sư tại trung tâm điều độ hệ thống điện Miền Bắc giai
đoạn (2004 – 2008)
49


Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường để đạt được hiệu quả hoạt động, để tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi, để có được các ưu thế cạnh tranh của
sản phẩm đầu ra so với các đối thủ cạnh tranh kho đất nước hội nhập vào kinh tế
khu vực và thế giới, chúng ta phải thay đổi nhận thức, cách tiếp cận, thay đổi các
căn cứ của các quyết định, phải năng động, sáng tạo, linh hoạt… Để không
ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động nói chung, hoạt động kinh doanh nói riêng,
có sự tham gia của nhiều người trong khung giới hạn về các điều kiện nhân – tài
- vật lực, thời gian, không gian và cạnh tranh nhau ngày càng mạnh mẽ. Các nhà
quản trị không còn cách nào khác là phải đích thực hoá mọi vấn đề, thiết thực
hoá, hiện đại hoá các yếu tố đầu vào, trật tự hoá, hợp lý hoá, đồng bộ hoá các
hoạt động bộ phận, tức là phải đặc biệt coi trọng việc học tập nâng cao trình độ
quản lý hoạt động nói chung, trình độ hoạt động kinh doanh nói riêng.
Bất kỳ một tổ chức nào, dù có nguồn tài chính dồi dào, nguồn tài nguyên
vật lực phong phú, hệ thống máy móc công nghệ hiện đại, những công thức khoa
học thần kỳ cũng trở nên vô ích nếu không biết quản lý nguồn tài nguyên quý giá
của mình là nguồn nhân lực. Bởi vì nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá
và quan trọng nhất của mỗi doanh nghiệp, yếu tố con người luôn giữ vai trò quan
trọng trong việc quyết định đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy,
việc đảm bảo và phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh là vô cùng quan trọng trong việc cạnh tranh với các đối thủ hoạt
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

động sản xuất kinh doanh khác. Phát triển nguồn nhân lực là nhằm đảm bảo cả
về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình hoạt động sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp.
Trung tâm điều độ hệ thống điện miền Bắc là một đơn vị hạch toán phụ
thuộc vào trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc Gia. Trong quá trình xây dựng
và trưởng thành, trung tâm cần đến nguồn tài nguyên quý giá nhất để phát triển
hơn trong nền kinh tế thị trường đang ngày càng cạnh tranh khốc liệt. Nhu cầu cả
về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực như thế nào đang là vấn đề đáng quan
tâm của trung tâm. Chính vì lý do đó em chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển
vốn nhân lực của trung tâm điều độ hệ thống điện miền Bắc trong nền kinh tế thi
trường’’ để làm đề tài thực tập tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu phân tích và đánh giá thực trạng số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực của trung tâm điều độ hệ thống điện miền Bắc và tìm ra các nguyên
nhân tác động đến việc phát triển nguồn nhân lực của trung tâm.
Đề tài tập trung vài việc xác định những tồn tại, vướng mắc, cản trở và bất
hợp lý từ đó tính toán nhu cầu nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng từ
đó đưa ra phương hướng phát triển nguồn nhân lực.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là toàn bộ nguồn nhân lực của trung tâm, phạm vi
nghiên cứu là nội bộ trung tâm điều độ hệ thống điện miền Bắc.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng.
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, điều tra nghiên cứu trên cơ sở
kế thừa các kết quả nghiên cứu và các tài liệu nghiên cứu khoa học, sách báo về
nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
5. Dự kiến về những đóng góp của đề tài
- Hệ thống hoá lý luận tổng quan về việc phát triển nguồn nhân lực.
- Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống, có luận sứ khoa học về phát

triển nguồn nhân lực. Từ đó hoạch định những vấn đề cần giải quyết vấn đề phát
triển nguồn vốn nhân lực nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển của trung tâm điều
độ hệ thống điện miền Bắc trong nền kinh tế thị trường.
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

CHƯƠNG 1. VAI TRÒ CỦA VỐN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Vốn nhân lực của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn nhân lực của doanh nghiệp
Nguồn nhân lực của một quốc gia là bộ phận dân số trong độ tuổi quy định
có khả năng tham gia lao động. Như vậy số lượng nguồn nhân lực vừa phụ thuộc
vào khả năng tham gia lao động của từng cá nhân, vừa phụ thuộc quy định “độ
tuổi lao động” của từng quốc gia. Việc quy định “độ tuổi lao động” của mỗi quốc
gia phải xuất phát từ nhiều căn cứ, nhiều mối quan hệ. Độ tuổi lao động tối thiểu
được quy định nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng lao động trẻ em. Theo quy định
của ILO (Tổ chức lao động quốc tế) hiện nay độ tuổi lao động tối thiểu được quy
định là 15 tuổi. Độ tuổi lao động tối đa được quy định tuỳ theo từng quốc gia và
liên quan tới vấn đề nghỉ hưu của người lao động.
Nhân lực của doanh nghiệp là toàn bộ những khả năng lao động mà doanh
nghiệp cần và huy động được cho việc thực hiện, hoàn thành những nhiệm vụ
trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp. Nhân lực của doanh nghiệp còn gần
nghĩa với sức mạnh của lực lượng lao động, sức mạnh của đội ngũ người lao
động, sức mạnh của đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức của doanh nghiệp. Sức
mạnh đó là sức mạnh hợp thành từ sức mạnh của người lao động, sức mạnh hợp
thành từ khả năng lao động của từng người lao động. Khả năng lao động của một
con người là khả năng đảm nhiệm, thực hiện, hoàn thành công việc bao gồm
những nhóm yếu tố: sức khoẻ (sức dẻo dai, sức bền …), trình độ ( kiến thức và
kỹ năng, kinh nghiệm), tâm lý, mức độ cố gắng …. Trong nền kinh tế thị trường
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch

47B

không cần có biên chế, nhân lực của doanh nghiệp là sức mạnh hợp thành các
loại khả năng lao động, của những người giao kết, hợp đồng làm việc với doanh
nghiệp. Nhân lực của doanh nghiệp là đầu vào độc lập của bất kỳ quá trình nào
trong hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần và có nhiều loại nhân lực
(khả năng lao động) như: Lực lượng lãnh đạo, quản lý, lực lượng chuyên môn,
nghiệp vụ, lực lượng công nhân viên… Mỗi một nhóm nhân lực đó đáp ứng một
nhu cầu riêng như: Đảm bảo việc làm ổn định, lo đảm bảo tài chính cho doanh
nghiệp, đảm bảo công nghệ, lo đảm bảo vật tư cho quá trình sản xuất… các nhu
cầu và chất lượng nhân lực cùng đáp ứng đến đâu thì làm cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp thuận tiện và phát triển đến đó đáp ứng nhu cầu
phát triển mới của doanh nghiệp cho phù hợp với xu thế phát triển mới của xã
hội càng ngày càng phát triển như hiện nay.
Nhân lực được hiểu là toàn bộ khả năng về thể lực và trí lực của con người
được vận dụng ra trong quá trình lao động sản xuất. Nó cũng được xem là sức
lao động của con người – một nguồn lực quý giá nhất trong các yếu tố sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực hiện nay của doanh nghiệp còn
bao gồm tất cả phẩm chất tốt đẹp, kinh nghiệm sống, óc sáng tạo và nhiệt huyết
của mọi người lao động từ giám đốc đến các công nhân viên đang làm việc trong
doanh nghiệp. Thể lực chỉ sức khỏe của thân thể, nó phụ thuộc vào sức vóc, tình
trạng sức khỏe từng người, mức sống, thu nhập, chế độ ăn uống, chế độ làm việc
và nghỉ ngơi, chế độ y tế. Thể lực con người còn tùy thuộc vào tuổi tác, thời gian
công tác, giới tính… Trí lực chỉ suy nghĩ, sự hiểu biết, sự tiếp thu kiến thức, tài
năng, năng khiếu cũng như quan điểm, lòng tin, nhân cách,… của từng con
người.Trong sản xuất kinh doanh truyền thống, việc tận dụng các tiềm lực của
con người là không bao giờ thiếu hoặc lãng quên và có thể nói như đã được khai
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B


thác đến mức cạn kiệt. Sự khai thác các tiềm năng về trí lực của con người còn ở
mức mới mẻ, chưa bao giờ cạn kiệt, vì đây là kho tàng còn nhiều bí ẩn của mỗi
con người.
1.1.2. Đặc điểm vốn nhân lực
Vốn nhân lực tạo ra sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần cho doanh
nghiệp bằng cách kết hợp sức lao động với các hoạt động nhận thức, tình cảm, ý
chí và hành động… Các thành viên trong doanh nghiệp sử dụng công cụ lao
động và các yếu tố khác để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra các sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Điều này thể hiện sức mạnh vật chất của nguồn nhân
lực. Mặt khác, doanh nghiệp hoạt động như một cơ thể sống, phản ánh sức sống
tinh thần thông qua văn hóa doanh nghiệp, được tạo ra bởi triết lí và đạo đức
kinh doanh, truyền thống lễ nghi, văn hóa và nghệ thuật ứng xử trong tập thể lao
động và giữa các thành viên của nó. Như vậy, sức mạnh tinh thần của doanh
nghiệp cũng được hình thành từ nguồn nhân lực.
Vốn nhân lực được xem xét và đánh giá trên phương diện số lượng, chất
lượng, cơ cấu và tính năng lao động, phản ánh thông qua số lượng lao động,
trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức làm việc, kết quả công việc,
tuổi tác, giới tính, sự biến động, sự thay đổi về các phương diện trên sao cho phù
hợp với các yêu cầu của từng doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ.
Cũng như các nguồn lực khác, nguồn nhân lực trong doanh nghiệp cũng bị
hao phí và hao mòn trong quá trình khai thác và sử dụng. Sự khôi phục, củng cố
và phát triển nguồn lực này được coi là yếu tố sống còn của doanh nghiệp.
Sức mạnh vật chất và tinh thần của nguồn lực có nguồn gốc từ cá nhân
người lao động. Nó phát sinh từ động cơ, động lực thúc đẩy cá nhân. Nói cách
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

khác, chỉ có thể phát huy và sử dụng nguồn lực này trên cơ sở khai thác động cơ
cá nhân, kết hợp các động cơ này để tạo nên động lực thúc đẩy chính cho các
doanh nghiệp. Không giống như các nguồn lực khác, nguồn nhân lực bị chi phối

bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài doanh nghiệp
như quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất xã hội, các thể chế, các quan hệ
xã hội, trình độ tổ chức và quản lí nhân sự trong doanh nghiệp, đặc điểm tâm
sinh lí, nhu cầu và động cơ cá nhân, hoàn cảnh và môi trường làm việc… Việc
khai thác và sử dụng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp phải được xem xét trên
hai mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Nghĩa là việc sử dụng nguồn lực
này phải đem lại lợi ích kinh tế- xã hội cho doanh nghiệp. Vấn đề khai thác sử
dụng,đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không phải chỉ là vấn đề riêng của
mỗi doanh nghiệp mà còn là vấn đề của toàn xã hội.
Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp không phải tự nhiên mà có, cũng không
phải tự thân nó đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của hoạt động sản xuất mà phải trải
qua một quá trình tuyển chọn, đào tạo và phát triển.
1.1.3. Vai trò vốn nhân lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
Theo giai đoạn của quá trình hoạt động của doanh nghiệp được tách lập
phân định thành ba nhóm chính trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Nhóm nghiên cứu đưa ra các ý tưởng, nhóm thiết kế và nhóm thi công. Khả năng
lao động của doanh nghiệp theo cách phân loại này phải có chất lượng đáp ứng,
phù hợp với yêu cầu thực tế hiện tại, tương lai. Ba nhóm người này phải có quan
hệ tỷ lệ (cơ cấu) hợp lý, có sức mạnh hợp thành lớn nhất và trong đó nhóm người
nghiên cứu đưa ra các ý tưởng đóng vai trò hết sức quan trọng nhất trong hoạt
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

động của một doanh nghiệp. Một ý tưởng đúng sẽ giúp cho doanh nghiệp đi
đúng hướng và sẽ tồn tại và phát triển bền vững, ngược lại một ý tưởng không
đúng đắn doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn thậm chí dẫn đến phá sản. Nhưng
bên cạnh đó, nhóm người hoạt động trong các lĩnh vực khác của doanh nghiệp
cũng đóng một vai trò trong hoạt động của doanh nghiệp nhằm đáp ứng các yêu
cầu phương hướng kinh doanh mà doanh nghiệp đưa ra.

Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp,
không thể bỏ qua quan hệ đầu vào và đầu ra của quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh. Yếu tố đầu vào của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh bao
gồm các yếu tố và nguồn lực có vai trò trong việc tạo ra sản phẩm đầu ra phục vụ
cho nhu cầu của con người. Nhưng trong quá trình đó vai trò của vốn nhân lực
đóng vai trò quan trọng nhất, vì chính con người đã tác động vào các yếu tố khác
và phân bổ các nguồn lực khác một cách hiệu quả nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ
cho con người và sức lao động của con người được kết tinh trong sản phẩm đó.
Qua đó, ta thấy được rằng nguồn nhân lực là nhân tố đầu vào không thể thiếu
được của bất cứ quá trình kinh tế, xã hội nào. Dù trình độ khoa học công nghệ
thấp hay cao, nguồn nhân lực vẫn là yếu tố hết sức quan trọng. Ở trình độ thủ
công lạc hậu, sức cơ bắp của con người thay thế cho sức máy móc, do đó việc
huy động số lượng lớn các nguồn lực lao động có ý nghĩa cơ bản cho quá trình
phát triển. Khi khoa học và công nghệ phát triển, sức cơ bắp của con người được
thay thế dần bằng máy móc, thì vai trò hay tầm quan trọng của nguồn lao động
không vì thế mà giảm đi, mà lại đòi hỏi cao hơn về chất lượng, đặc biệt là về
trình độ kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, tính năng động, sáng tạo
của lao động.
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

Nguồn vốn nhân lực bên cạnh là yếu tố đầu vào sản xuất ra sản phẩm tạo
doanh thu cho doanh nghiệp, nguồn nhân lực còn là những người tiêu thụ sản
phẩm phục vụ nhu cầu của mình thông qua thu nhập của mình. Đối với nguồn
nhân lực có thu nhập cao thì khả năng mua sắm cao hơn các nguồn lực khác với
thu nhập thấp hơn. Vì vậy ta thấy được rằng nguồn nhân lực thông qua quá trình
tiêu thụ sản phẩm của mình sẽ kích thích quá trình sản xuất của doanh nghiệp và
tăng thêm nguồn thu cho doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế hiện đại, các nhân tố công nghệ phát triển mạnh mẽ, con
người không trực tiếp tham gia các quá trình sản xuất nhưng với sự gia tăng của

hàm lượng chất xám trong từng sản phẩm, dịch vụ, vai trò của nhân tố con người
ngày càng tăng lên. Trước đây, hàm lượng chất xám của lao động trong các sản
phẩm thấp, sản xuất không đòi hỏi lao động phải có trình độ cao, kỹ năng tốt, do
vậy mà lực lượng lao động không cần thiết phải qua các chương trình đào tạo
chuyên sâu mà đơn giản chỉ là các khoá học ngắn hạn trang bị kiến thức cư bản.
Trình độ của lực lượng lao động thấp chỉ thích hợp với trình độ phát triển thấp
của công nghệ, thiết bị và tất yếu là với sản xuất như vậy không thể có sản xuất
với năng suất cao, chất lượng tốt. Vì vậy, ta thấy được rằng nhằm đáp ứng được
các yêu cầu của doanh nghiệp không chỉ đáp ứng về số lượng mà còn phải đảm
bảo về chất lượng của lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
Nhân lực là yếu tố cơ bản không thể thiếu quyết định tới thành công trong
kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu thiếu đi
yếu tố nguồn nhân lực thì việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể
thực hiện được. Nguồn nhân lực tạo ra của cải vật chất cho doanh nghiệp, cũng
như cho toàn bộ xã hội. Nếu như không có yếu tố nguồn nhân lực thì không có
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Dù cho các nguồn lực khác như đất đai,
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

tài nuyên, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ sẽ không được sử
dụng và khai thác có mục đích vì con người là yếu tố quyết định tới các yếu tố
khác do con người có thể sử dụng các yếu tố khoa học vào hoạt động sản xuất
kinh doanh, chính con người sẽ sử dụng nguồn tào nguyên, nguồn vốn một cách
có hiệu quả nhất phục vụ cho nhu cầu con người và tạo ra của cải vật chất cho
doanh nghiệp và xã hội. Khi đó một doanh nghiệp có nguồn nhân lực dồi dào,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển
mạnh.
Nguồn nhân lực so với các yếu tố đầu vào khác không phải là yếu tố thụ
động mà là nhân tố quyết định việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực khác, chính vì vậy nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đối với quá trình

phát triển của doanh nghiệp. Không dựa trên nền tảng phát triển cao nguồn nhân
lực về thể chất, trình độ văn hóa, tri thức và kĩ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm
quản lý, lòng nhiệt tình… thì chẳng những việc sử dụng những nguồn lực trở nên
lãng phí mà còn có thể làm lãng phí, cạn kiệt, hủy hoại các nguồn lực khác.
1.2. Phát triển vốn nhân lực và các nhân tố ảnh hưởng
1.2.1. Phát triển vốn nhân lực của doanh nghiệp
Phát triển nguồn vốn nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm: Phát triển
nguồn vốn nhân lực về mặt số lượng và chất lượng (hay nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong doanh nghiệp), hoặc chỉ phát triển nguồn vốn nhân lực của
doanh nghiệp về mặt số lượng của doanh nghiệp, hoặc chỉ nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Phát triển nguồn vốn nhân lực tùy thuộc vào
yêu cầu riêng của doanh nghiệp mà chọn phương pháp phát triển riêng của mình
cho phù hợp.
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

Trong mỗi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và sản xuất thì số lượng lao động
trong doan nghiệp đó có ảnh hưởng mật thiết tới quá trình hoạt động của doanh
nghiệp. Ví dụ như đối với doanh nghiệp đang trong thời kỳ suy thoái như hiện
nay, các doanh nghiệp cần phải có biện pháp cải tổ lại đội ngũ lao động cho phù
hợp với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong giai đoạn
hưng thịnh và phát trển của mỗi doanh nghiệp thì số lượng lao động trong mỗi
doanh nghiệp càng có số lượng lớn với chất lượng nguồn lao động tốt thì đem lại
ngồn thu lớn cho doanh nghiệp.
Việc phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng là sử dụng một số biện pháp
và chính sách riêng của mỗi doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu về mặt số
lượng phù hợp với nhu cầu lao động của doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng nhân lực của một doanh nghiệp là việc thực hiện các biện
pháp, chính sách nhằm nâng cao về mặt thể lực (sức khoẻ, điều kiện chăm sóc
sức khoẻ), trí lực (trình độ, văn hoá, chuyên môn - kỹ thuật) và phẩm chất, tư

tưởng, tác phong làm việc và sinh hoạt của người lao động cùng với việc tạo ra
cơ cấu hợp lý cần thiết cho yêu cầu của sự phát triển doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng nhân lực là một lĩnh vực của sự phát triển nguồn nhân
lực. Ngày nay, khi nói đến phát triển nhân lực người ra thường quan tâm nhiều
đến việc phát triển về mặt chất lượng hơn là số lượng nhân lực vì chất lượng
nhân lực mới chính là nguồn gốc tạo ra giá trị của sức lao động, cũng chính là
nguồn gốc tạo ra hiệu quả kinh doanh, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp, đặc biệt khi khoa học và công nghệ đã trở thành phương tiện chủ
chốt cho sự phát triển.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển vốn nhân lực của doanh nghiệp
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

1.2.2.1. Các yếu tố xã hội
Nguồn vốn nhân lực bao gồm số lượng nguồn nhân lực và chất lượng nguồn
nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực là khả năng lao động của người lao động.
Nguồn lao động chịu ảnh hưởng tổng hợp của nhiều nhân tố. Có thể phân loại
ảnh hưởng đến nguồn lao động theo các điều kiện cấu thành nguồn lao động,
hoặc kéo theo quá trình như quá trình tác động trước độ tuổi lao động trong thời
gian của độ tuổi lao động ,có thể phân nhóm nhân tố ảnh hưởng đến một số mặt
của nguồn lao động như sau:
- Nhóm nhân tố liên quan đến thể chất nguồn lao động như: di truyền, chất
lượng cuộc sống của phụ nữ, chăm sóc y tế, mức sống vật chất và cơ cấu dinh
dưỡng các điều kiện về môi trường sống, nhà ở, môi trường công tác thể dục thể
thao, ...
- Nhóm nhân tố liên quan đến nâng cao trình độ nghề nghiệp như: giáo dục ,
đào tạo… nhiều quốc gia đạt được những thành tựu khả quan trong phát triển
kinh tế chủ yếu bằng phát triển giáo dục đào tạo được ưu tiên và trở thành quốc
sách.
-Nhóm nhân tố liên quan đến các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã

hội. Nếu vẫn áp dụng chế độ phân phối bao cấp, trả lương bình quân mà thiếu
chế độ tuyển dụng và đánh giá đúng đắn trình độ tay nghề, mức độ cống hiến sẽ
làm giảm ý thức tự nâng cao khả năng làm việc của người lao động. Ngược lại
nếu chế độ tuyển dụng đánh giá người lao động chính xác và trả lương khoa học
sẽ khuyến khích bắt buộc người lao động phải cố gẳng để nâng cao chất lượng
lao động của bản thân.
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

- Nhóm nhân tố liên quan đến tập quán truyền thống văn hoá…kinh nghiệm
của nhiều quốc gia, nhất là ở Châu Á cho thấy các nhân tố này có tác động rất
lớn đến nâng cao chất lượng nguồn lao động.
- Nhóm nhân tố về nhu cầu việc làm của xã hội, đầu ra của nguồn lao
động…
Chất lượng thấp của nguồn lao động nước ta thể hiện rất đa dạng. Trước hết
là sự thấp kém về sức khoẻ, thể chất. Số lao động được đào tạo ít, nhiều ngành
nghề chuyên môn được đào tạo chưa phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, cả về
cơ cấu ngành nghề và chất lượng chuyên môn.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường thực hiện hội nhập quốc tế, tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nguồn lao động nước ta càng bộc lộ nhiều
nhược điểm. Điểm đáng quan tâm nhất là nguồn lực lao động nước ta không chỉ
yếu kém về kỹ thuật, công nghệ, mà còn yếu kém cả về trình độ tổ chức, quản lý
các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Những nhược điểm trên là những nguyên nhân quan trọng làm cho hiệu quả
sử dụng nguồn lao động kém, dẫn đến thu nhập của người lao động thấp. Từ đó
nhiều người lao động không có điều kiện thường xuyên học tập bồi dưỡng
chuyên môn. Bản thân họ cũng thiếu khả năng để nuôi dưỡng, đào tạo con cháu -
nguồn lao động tương lai của đất nước.
1.2.2.2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
Các yếu tố bên trong doanh nghiệp có tác động mạnh tới những thay đổi về

chất lượng nhân lực trong doanh nghiệp. Đó bao gồm các nhân tố sau:
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

Thứ nhất, yếu tố công nghệ: Ngày nay với trình độ khoa học kỹ thuật ngày
càng hiện đại thì việc đổi mới công nghệ của doanh nghiệp cũng ngày càng thay
đổi nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu hiện nay của doanh nghiệp. Khi áp dụng
khoa học kỹ thuật vào công việc làm tăng năng suất lao động do đó tăng doanh
thu của doanh nghiệp, bên cạnh đó nó còn giải phóng sức lao động của con
người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại... Vì vậy ngày nay
khi chúng ta nghiên cứu về hiệu quả sử dụng lao động thì chúng ta phải chú ý tới
các yếu tố về mức trang bị khoa học công nghệ cho người lao động, mức cơ giới
hoá, tự động hoá của doanh nghiệp.
Đồng thời cùng với việc đưa công nghệ mới vào sản xuất thì trình độ tay
nghề và trình độ quản lý của lao động trong doanh nghiệp nhờ đó cũng được
nâng cao hơn. Bởi vì để tiếp thu công nghệ mới đòi hỏi người lao động phải
được đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ mới đáp ứng được yêu cầu của đổi
mới công nghệ, điều đó làm cho chất lượng lao động của doanh nghiệp được
nâng lên, nhờ đó hiệu qủa sử dụng lao động cũng được tăng lên.
Thứ hai, trình độ quản lý và tổ chức lao động: Bên cạnh yếu tố công nghệ
khoa học kỹ thuật thì trình độ quản lý và tổ chức lao động khoa học cho phép
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất nhờ tiết kiệm lao động và sử
dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất hiện có. Trình độ quản lý và tổ chức lao động
khoa học là điều kiện không thể thiếu để nâng cao năng suất lao động và phân bổ
nguồn lực cho hiệu quả nhất với yêu cầu công việc của doanh nhiệp. Nếu thiếu
trình độ quản lý và tổ chức lao động không phù hợp với trình độ phát triển của
kỹ thuật và công nghệ sản xuất trong mỗi doanh nghiệp, thì chậm chí có công
nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến hiện đại cũng không thể đem lại hiệu quả cao.
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B


Việc áp dụng trình độ quản lý và tổ chức lao động khoa học lại có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển, hoàn thiện kỹ thuật và công nghệ sản xuất, nâng cao trình
độ kỹ thuật hoá quá trình lao động và đó chính là điều kiện tiếp thu để nâng cao
năng suất lao động. Mặt khác, nó còn có tác dụng giảm nhẹ lao động và an toàn
lao động, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động và phát triển con người toàn
diện, thu hút con người tự giác tham gia vào lao động.
Thứ ba, công tác tuyển chọn nhân lực (lao động) và chính sách lao động
việc làm của doanh nghiệp: Công tác tuyển chọn trong doanh nghiệp có ảnh
hưởng đến chất lượng lao động. Việc tuyển chọn này phải đảm bảo các yêu cầu:
Tuyển chọn được người có chuyên môn cần thiết có thể làm việc đạt tới năng
suất lao động cao, hiệu suất công tác tốt, tuyển những người có kỷ luật, trung
thực, gắn bó với công việc, với doanh nghiệp, có sức khoẻ làm việc lâu dài trong
doanh nghiệp với nhiệm vụ được giao. Nếu công tác tuyển chọn làm tốt tạo cho
doanh nghiệp một lực lượng lao động có chất lượng tốt, có kỷ luật phù hợp với
trình độ công nghệ cũng như cách thức tổ chức và mục tiêu của doanh nghiệp.
Trong quá trình tuyển chọn thì chính sách tuyển dụng của doanh nghiệp cần
có một chính sách hấp dẫn tức là cần phải co mức độ đáp ứng, phù hợp về cả mặt
giá trị, cả về cách thức của những cam kết trong chính sách thu hút với những
yêu cầu thoả mãn các mục tiêu của những ứng viên đề ra. Mức độ đáp ứng, phù
hợp càng cao tức là mức độ hấp dẫn càng cao. Tổ chức tuyển dụng hợp lý là tổ
chức tuyển dụng chặt chẽ theo qui trình và các tiêu chuẩn. Doanh nghiệp nào có
chính sách truyển dụng hấp dẫn hơn và tổ chức tuyển dụng khoa học, chặt chẽ
hơn doanh nghiệp đó thu hút được nhiều người đảm bảo chất lượng hơn, tức là
nhân lực trong doanh nghiệp đó vừa đảm bảo cả về số lượng và chất lượng ban
đầu cao hơn.
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

Bên cạnh quá trình tuyển chọn mới thì việc đào tạo nâng cao chất lượng vốn

nhân lực, phân công lao động và chính sách đãi ngộ của doanh nghiệp cũng tác
động tới nguồn vốn nhân lực của doanh nghiệp. Trong giai đoạn đầu chuyển
sang kinh tế thị trường doanh nghiệp, nhà nước cần hỗ trợ đào tạo chuyển đổi
vốn nhân lực. Đáp ứng nhu cầu mở hoạt động mới của doanh nghiệp. Suất chi
cho hỗ trợ đào tạo, đào tạo chuyển đổi hơn trước và hơn của các đối thủ cạnh
tranh trong cùng thời gian thì mức độ hấp dẫn mới cao phải đủ lớn thì mức độ
hấp dẫn mới cao. Đào tạo chuyển đổi phải được tổ chức quy củ, khoa học. Đào
tạo nâng cao nguồn vốn nhân lực là nhu cầu, đòi hỏi thường xuyên. Khi chính
sách đào tạo nâng cao trình độ của doanh nghiệp hướng theo từng nhóm vốn
nhân lực theo mục tiêu đề ra thì suất chi toàn bộ phải hơn trước và hơn của các
đối thủ cạnh tranh trong cùng thời gian cho từng hình thức đào tạo trong nước
hoặc nước ngoài…là chính sách có mức độ hấp dẫn cao. Khi đó vốn nhân lực
của doanh nghiệp sẽ thực sự hứng khởi, có động cơ học tập đúng đắn và đủ
mạnh, tìm cách học khoa học nhất để thực sự nâng cao trình độ. Trong kinh tế thị
trường hoạt động của doanh nghiệp thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi đối với sự
tham gia của vốn nhân lực luôn mới về nội dung và phức tạp về tính chất. Cần tổ
chức đào tạo cho vốn nhân lực của doanh nghiệp một cách bài bản khoa học.
Phải tổ chức đào tạo cho những người nguồn vốn nhân lực của doanh nghiệp có
nội dung và cách thức phù hợp với công việc được phân công đảm nhận, ngược
lại nếu theo kiểu áng chừng, kinh nghiệm, hình thức, đối phó là có trình độ thấp.
Như vậy, chỉ khi đào tạo nguồn vốn nhân lực có nội dung, cách thức, bài bản thì
mới đảm bảo chất lượng cao, góp phần nâng cao thêm chất lượng nguồn nhân
lực của doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo đủ số lượng nguồn lao động phù hợp cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

Ngoài việc đào tạo vốn nhân lực ra cần có chính sách phân công lao động
hợp lý, đánh giá vốn lao động và chính sách đãi ngộ. Nếu chính sách sử dụng có
trọng tâm là được việc, là năng suất và chất lượng lao động của từng thành viên

thì chính sách đó có mức độ hấp dẫn cao. Phân công đúng người đúng việc đánh
giá đúng tính chất của mức độ tham gia, đóng góp một cách khích lệ, đãi ngộ về
mặt giá trị tuỳ thuộc vào tỉ lệ tham gia đóng góp và mức độ sinh lợi của hoạt
động chung, và tập trung đáp ứng nhu cầu cần ưu tiên thoả mãn của từng nhóm
người lao động. Đó là cách làm có mức độ hấp dẫn và mức độ hợp lý cao. Khi
nào ở đâu có cách sử dụng nhân lực như vậy khi đó ở người lao động không chỉ
thể hiện, cống hiến tối đa những phẩm chất lao động sẵn có mà còn tự đầu tư, tự
tổ chức không ngừng nâng cao trình độ (kiến thức và kỹ năng) của mình. Điều
đó sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng lực lượng lao động
trong doanh nghiệp, vì chất lượng lao động là một tác nhân tác động tích cực
nhất vào sự phát triển của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp, việc bố trí lao động đúng người, đúng việc cũng tạo
nên những hiệu quả cao về sử dụng lao động mà tiết kiệm được nguồn lao động
do đó sẽ tiết kiệm được chi phí hoạt đông sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để phân công công việc, hiệp tác lao động tốt trong doanh nghiệp cần phải làm
tốt công tác phân tích công việc.
Trình độ của vốn nhân lực có tác động trực tiếp tới quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Lao động có trình độ phù hợp với yêu
cầu công việc thì việc phát huy tiến bộ khoa học kỹ thuật có công nghệ tiên tiến,
đồng thời mới đạt được hiệu quả trong quá trình sản xuất. Đặc biệt, với tiến bộ
khoa học kỹ thuật ngày càng được ứng dụng nhiều trong sản xuất thì doanh
nghiệp ngày càng cần vốn nhân lực có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, kỹ
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

năng nghề nghiệp, kinh nghiệm sản xuất và tác phong làm việc cao, có kỹ thuật
và sức khoẻ. Nhưng bên cạnh đó vẫn đáp ứng được yêu cầu về mặt số lượng
nguồn nhân lực cho phù hợp với yêu cầu hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Để có được nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao và đảm bảo các yêu
cầu về số mặt số lượng và một số kỹ năng khác, đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến

hành tuyển chọn cẩn thận, sau đó là làm tốt công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn kỹ thuật cho nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
Bên cạnh các yếu tố về đào tạo, phân bổ, tuyển chọn ngồn nhân lực, trình độ
nguồn nhân lực thì chính sách tiền lương, giá cả, và khuyến khích vật chất có
mối quan hệ đặc biệt tới nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Vì việc thực hiện
chính sách trả lương đúng nguyên tắc lao động, hợp lý, thoả đáng và có các
chính sách lương thưởng đối với những người có thành tích cao trong hoạt động
của doanh nghiệp sẽ có tác dụng tốt tới việc tăng năng suất lao động, khuyến
khích nguồn nhân lực của doanh nghiệp làm hết khả năng để lao động tạo ra của
cải vật chất cho doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo về số lượng lao động cần thiết
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.3. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp tác động đến việc phát triển nguồn vốn
nhân lực trong doanh nghiệp chính là cơ chế chính sách quản lý kinh tế và các
chính sách quản lý nhà nước về kinh tế, về lao động tác động đến chất lượng lao
động trong doanh nghiệp thông qua Bộ luật lao động.
Bộ luật lao động bảo vệ quyền lợi làm việc, lợi ích và các quyền khác của
nguời lao động, đồng thời bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hoà, ổn định,
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động nhằm đạt năng
suất, chất lượng và tiến bộ trong lao động, sản xuất dịch vụ, hiệu quả trong sử
dụng và quản lý lao động góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Thị trường
lao động cũng là một trong những nhân tố bên ngoài tác động vào nâng cao chất
lượng lao động. Thị trường lao động là nơi cung cấp một lực lượng lao động dồi
dào cho doanh nghiệp. Nếu thị trường này định hướng được chất lượng lao động
tốt đáp ứng được những yêu cầu của doanh nghiệp, sẽ cho doanh nghiệp một lực

lượng lao động chất lượng cao, góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng
nhân lực và đảm bảo yêu cầu về số lượn nguồn lao động hợp lý cho doanh
nghiệp. Đồng thời nếu thị trường lao động phát huy được khả năng định giá sức
lao động và có khuôn khổ pháp lý tốt sẽ đảm bảo lợi ích hợp lý cho cả người sử
dụng lao động và người lao động. Do đó việc định giá trị sức lao động sẽ phát
huy tác dụng tích cực của nó, làm cho người lao động gắn bó với việc hoàn thiện
quá trình lao động nhằm đạt hiệu quả lao động cao hơn, vì thế mà chất lượng
nhân lực được nâng cao theo. Mức độ cạnh tranh và lôi kéo nhân lực của các đối
thủ cạnh tranh với những cơ chế tiền lương, thưởng, chế độ đãi ngộ hấp dẫn sẽ
làm cho việc đảm bảo nguồn nhân lực của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến các
chiến lược phát triển trong dài hạn và ngắn hạn của doanh nghiệp.
1.2.2.4. Nhu cầu vốn nhân lực trong doanh nghiệp
Xác định nhu cầu nguồn vốn nhân lực trong một doanh nghiệp là một trong
những yếu tố quan trọng, nhằm bảm bảo cho quá trình hoạt động của doanh
nghiệp diễn ra thuận lợi. Do vậy doanh nghiệp cần xem xét và xác định rõ các
yếu tố tạo nên nhu cầu nhân sự trong tương lai. Các nhân tố tạo nên nhu cầu
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

nhân sự rất đa dạng, thông thường ta phân các nhân tố này thành hai nhóm
chính: Yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong của doanh nghiệp.
Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Có nhiều yếu tố thuộc môi trường bên ngoài có thể tác động đến nhu cầu
nguồn nhân lực cuẩ doanh nghiệp, tuy nhiên đôi khi những yếu tố này khó dự
đoán trước được. Việc phân tích các yếu tố này rất quan trọng nhằm giúp doanh
nghiệp dự báo trước được nhu cầu nguồn nhân lực của doanh nghiệp trong tương
lai. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài gồm: Các nhân tố knh tế; chính trị
và pháp luật; văn hoá – xã hôi; công nghệ; cạnh tranh…
Các yếu tố kinh tế vĩ mô thường có nhiều ảnh hưởng đến sự hoạt động của
doanh nghiệp nhưng lại rất khó ước lượng, chẳng hạn như: Chu kỳ kinh doanh,

xu hướng tăng trưởng nền kinh tế, lãi suất, lạm phát…
Chẳng han, khi chu kỳ nền kinh tế đi lên, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội
mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này làm cho nhu cầu các yếu tố
đầu vào tăng, trong đó bao gồm các yếu tố về nhu cầu nguồn nhân lực của doanh
nghiệp. Ngược lại trong thời kỳ suy thoái hoạt động sản xuất kinh doanh đình
trệ, các doanh nghiệp một mặt vẫn phải duy trì lực lượng lao động có tay nghề,
mặt khác phải giảm chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh trong đó có chi phí
lao động. Nhìn chung, trong giai đoạn suy thoái kinh tế nhu cầu nguồn nhân lực
giảm, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp không có nhu cầu tuyển dụng
thêm nguồn lao động mới, thậm chí còn sa thải lao động.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phải tuân thủ pháp luật
của nhà nước về thuế, lao động, cạnh tranh, giá, bảo hiểm. Những thay đổi của
các yếu tố này có thể tạo ra nhu cầu về nguồn nhân lực đối với doanh nghiệp
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

này, nhưng có thể làm cho nhu cầu nguồn nhân lực của doanh nghiệp khác giảm.
Việc phân tích các nhân tố thuộc môi trường chính trị và pháp luật có vai trò rất
quan trọng đối với quá trình dự báo nhu cầu nguồn nhân lực của các doanh
nghiệp.
Các yếu tố chính trị và pháp luật ngày càng đóng vai trò to lớn tới hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tác động của các yếu tố này dễ dự đoán
hơn, nhưng mức độ ảnh hưởng của chúng lại ít khi thật rõ ràng. Chẳng hạn như
một sự thay đổi nào đó trong bộ luật hình sự có thể không có tác động trực tiếp
tới hoạt động của doanh nghiệp, tuy vậy một sự thay đổi trong bộ luật lao động
(độ tuổi lao động) hoặc trong chính sách xã hội (chế độ thai sản, chế độ trợ cấp)
chắc chán sẽ có tác động rất nhiều đến nhu cầu nguồn nhân lực của doanh
nghiệp.
Các nhân tố về văn hoá xã hội cũng là một trong các yếu tố tác động đến
nhu cầu nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Các yếu tố văn hoá - xã hội có tác

động đến nhu cầu nguồn nhân sự như phong cách sống, các giá trị xã hội, thái
độ, lối sống, những xu hướng nhân chủng học hay những sở thích vui chơi giải
trí, chuẩn mực đạo đức. Ví dụ: Sự thay đổi thái độ làm việc và nghỉ ngơi có thể
tác động đến nhu cầu nguồn nhân lực. Khi nền kinh tế càng phát triển, người lao
động đòi hỏi được làm việc năm ngày trong tuần, được nghỉ hè lâu hơn… làm
cho nhu cầu nguồn nhân lực trong doanh nghiệp tăng lên.
Sự thay đổi của công nghệ rất khó dự đoán và đánh giá, thế nhưng nó lại có
tác động rất lớn đến chiến lược của doanh nghiệp và đến nhu cầu nguồn nhân lực
của doanh nghiệp. Ví dụ, sự ra đời của máy tính đã làm cho hang loạt lao đông
thất nghiệp, thế nhưng cũng chính sự phát triển công nghệ này lại tạo ra hàng
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

triệu chỗ làm cho mỗi quốc gia. Thậm chí ngay trong doanh nghiệp, công nghệ
làm giảm nhu cầu lao động ở bộ phận này nhưng lại làm tăng nhu cầu ở bộ khác.
Việc lựa chọn công nghệ sản xuất tác động rất lớn đến nhu cầu nguồn nhân lực.
Nếu như doanh nghiệp lựa chọn công nghệ hiện đại sẽ làm cho nhu cầu lao động
phổ thông giảm, nhưng có thể làm tăng nhu cầu lao động có trình độ, kỹ năng,
tay nghề và chuyên môn cao. Ngược lại, nếu doanh nghiệp lựa chọn công nghệ
lao động thay thế cho vốn thì nhu cầu lao động phổ thông tăng lên.
Sự tiến bộ khoa học công nghệ là yếu tố khách quan ảnh hưởng mạnh mẽ
tới nguồn nhân lực, cho phép các doanh nghiệp lựa chọn chính sách sử dụng
nhiều hay ít lao động, từ đó ảnh hưởng tới quy mô, chất lượng và cơ cấu lao
động, ảnh hưởng tới những đòi hỏi về mặt vật chất nguồn nhân lực trong một
doanh nghiệp.
Việc tìm kiếm lợi thế cạnh tranh (nhất là về chi phí) đã buộc nhiều doanh
nghiệp phải tìm cách giảm thiểu tối đa nhân sự trong doanh nghiệp của mình
trong các công đoạn nhằm giảm chi phí nhân công.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đã tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp
mở rộng thị trường, từ đó mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Việc mở rộng

quy mô sản xuất kinh doanh làm cho nhu cầu nhân sự tăng cao. Tuy nhiên, trong
môi trường cạnh tranh toàn cầu, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải
có một đội ngũ nhân lực với tay nghề, trình độ chuyên môn cao, có khả năng
thích ứng được với môi trường cạnh tranh luôn biến đổi và khắc nghiệt như hiện
nay.
Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

Chiến lược kinh doanh xác định mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp (tăng
trưởng, thị phần, sản phẩm mới…) và các mục tiêu này ảnh hưởng trực tiếp tới
số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực cần thiết trong tương lai. Các mục tiêu của
doanh nghiệp là các yếu tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp có tác
động rất lớn đến nhu cầu vốn nhân lực. Để xác định nguồn vốn nhân lực trong
doanh nghiệp chúng ta cần dựa vào các kế hoạch về nguồn nhân lực của doanh
nghiệp và các kế hoạch khác của doanh nghiệp có tác động gián tiếp tới nguồn
nhân lực của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp lập kế hoạch chiến lược cần phải
xem xét tất cả các nguồn lực, bao gồm cả nguồn nhân lực. Người phụ trách quản
lý nguồn nhân lực cộng tác chặt chẽ với các nhà quản lý khác, đưa ra các ưu tiên
chiến lược đối với các vấn đề về lực lượng lao động, thông báo và thảo luận với
họ về những phương pháp quản lý và nhu cầu về nhân sự của họ. Để thực hiện
các kế hoạch đó doanh nghệp cần phân bổ nguồn nhân lực một cách phù hợp, để
phân bổ được tốt nguồn nhân lực thì doanh nghiệp phải đảm bảo nguồn nhân lực
cho phù hợp. Chính vì lý do đó, các chiến lược và kế hoạch của doanh nghiệp là
nguyên nhân và yếu tố tác động tạo ra nhu cầu sử dụng vốn nhân lực trong doanh
nghiệp.
Để có thể thực hiện được các chính sách và các kế hoạch của doanh nghiệp
đề ra thì doanh nghiêp cần phải có ngân sách đó là nguồn cung cấp tài chính cho
mọi hoạt động của doanh nghiệp. Trong ngắn hạn, các nhà lập kế hoạch phải tìm
cách sao cho kế hoạch chiến lược hoạt động của doanh nghiệp hoạt động trong

khuôn khổ cho phép của ngân sách. Bên cạnh đó, dự báo bán hàng và dự báo sản
xuất cũng có tác động lớn tới đến nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực của doanh
nghiệp. Tuy các dự báo này ít chính xác hơn ngân sách nhưng chúng lại có thể
cho doanh nghiệp biến đổi một cách nhanh chóng về nhu cầu nguồn nhân lực
Hoàng Trọng Nhân Lớp Kế hoạch
47B

×