Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Pháp luật quốc tế về bảo hộ ngư dân khi đánh cá trên biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.56 KB, 4 trang )

TẠP CHÍ CƠNG THIÍM

PHÁP LUẬT QUỐC TÊ VE BẢO HỘ NGƯ DÂN

KHI ĐÁNH CÃ TRÊN BIEN
• NGUYỄN THỊ HẠNH - NGUYEN HỬU KHÁNH LINH

TĨM TẮT:
Bài báo phân tích cơ sỡ pháp lý cho các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng để thực hiện
hoạt động bảo hộ ngư dân của mình.
Từ khóa: pháp luật quốc tế, bảo hộ ngư dân, đánh cá, ngư dân, Luật Biển.

1. Đặt vân đề
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 2,5 triệu ngư
dân và người làm các dịch vụ hậu cần tại Biển
Đông, cùng hơn 170.000 tàu cá tham gia đánh cá
trên biển1. Ngư dân Việt Nam hoạt động trải rộng
khắp các ngư trường ở Biển Đông. Với số lượng
lớn ngư dân Việt Nam hoạt động trên biển, họ
thường xuyên gặp những khó khăn như: bị tàu nước
ngoài xua đổi, đâm tàu, bắt giữ, phạt tù,... Nhất là
trong tình hình Biển Đơng ngày càng phức tạp do
nhiều qc gia cùng có u sách trên vùng biển
này; các quốc gia, lãnh thổ quanh Biển Đông cũng
áp dụng thi hành chính sách xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm pháp luật của ngư dân Việt
Nam. Điều này đặt ra những thức thách mới cho
hoạt động bảo hộ ngư dân khi đánh cá trên biển
của Việt Nam trong thời gian tới.
2. Bảo hộ công dân trong luật quốc tế
2.1. Thẩm quyền bảo hộ công dân


Theo quy định của pháp luật qc tê thì các
quốc gia có thẩm quyền bảo hộ cơng dân nước
mình. Tuy nhiên, thẩm quyền bảo hộ thuộc về
những cơ quan nào chủ yếu do pháp luật quốc gia
quy định và tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức, thể chế
chính trị mà quy định này của mỗi quốc gia là khác
nhau. Trong hệ thống pháp luật quốc gia, thẩm
quyền bảo hộ công dân thường được quy định trong
Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan.
Dựa trên cơ sở cơ cấu tổ chức, chức năng và phạm
vi hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bảo hộ cơng dân, có thể chia các cơ quan
34

SỐ 9 - Tháng 5/2022

này làm 2 loại: cơ quan có thẩm quyền trong nước
và cơ quan có thẩm quyền ở nước ngồi.
Đốì với các cơ quan có thẩm quyền bảo hộ trong
nước, hầu hết các quốc gia đều thực hiện việc bảo
hộ công dân thông qua Bộ Ngoại giao. Bộ Ngoại
giao chịu trách nhiệm trước chính phủ về các hoạt
động bảo hộ công dân. Đô'i với cơ quan có thẩm
quyền bảo hộ cơng dân ở nước ngồi thì hầu hết
các quốc gia đều quy định thuộc về cơ quan đại
diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước cử đại
diện tại nước nhận đại diện. Việc thực hiện bảo hộ
công dân của các cơ quan đại diện được quy định
trong pháp luật quốc tế, như: Công ước Viên năm
1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước Viên 1963

về quan hệ lãnh sự. các điều ươc quốc tế đa phương
và song phương giữa các quốc gia,... đồng thời được
quy định trong pháp luật các quốc gia.
2.2. Biện pháp bảo hộ công dân
Hoạt động bảo hộ công dân được thực hiện dựa
trên cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Theo đó quốc gia có thể thực hiện nhiều biện pháp,
như: ngoại giao, kinh tế,... nhưng tuyệt đôi không
được sử dụng các biện pháp vũ lực và đe dọa dùng
vũ lực. Các biện pháp được sử dụng như sau:
Thứ nhất, biện pháp ngoại giao. Bao gồm tất cả
các thủ tục hợp pháp mà quốc gia sử dụng để thông
báo cho quốc gia khác như: gửi điện báo, cơng
hàm,... để qua đó bày tỏ về quan điểm và quan ngại
của mình, bao gồm việc phản đối, yêu cầu điều
tra, đàm phán nhằm giải quyết tranh chấp hoặc đề
nghị hợp tác hỗ trợ trong hoạt động bảo hộ,... Đây


LUẬT

thường là biện pháp đầu tiên mà các quốc gia thực
hiện để bảo hộ cơng dân của mình. Trong thực tế,
biện pháp ngoại giao hay được sử dụng nhất, vì
biện pháp này dễ sử dụng và nhanh chóng.
Thứ hai, biện pháp kinh tế. Qc gia có thê hơ
trợ tài chính cho cá nhân cơng dân như hỗ trợ chi
phí ăn, ở, chăm sóc y tế cơ bản; hỗ trợ mua vé máy
bay về nước; hỗ trợ kinh phí để ổn định cuộc
sống,... khi cơng dân gặp khó khăn ở nước ngoài.

Trong một số trường hợp, nhằm đảm bảo quyền và
lợi ích của công dân và lợi ích của quốc gia thì
quốc gia có thể áp dụng biện pháp bao vây, câm
vận kinh tế để trừng phạt quốc gia có hành vi vi
phạm nghiêm trọng pháp luật quôc tế ảnh hưởng
đến quyền lợi của quốc gia, cũng như của cá nhân
công dân. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp
trừng phạt này phải tuân thủ các nguyên tắc chung
của pháp luật quốc tế.
Thứ ba, biện pháp hành chính. Đây cũng là một
trong các biện pháp thường được các quốc gia áp
dụng trên thực tế. Những biện pháp hành chính có
thể là: câp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, cấp đổi, cap
lại hộ chiếu, giây tờ đã mat; cung cấp thông tin,
thiết lập các đường dây nóng bảo hộ cơng dân;
cơng chứng, chứng thực tài liệu giấy tờ nhân thân,...
Thứ tư, biện pháp sử dụng dư luận. Quốc gia áp
dụng để bảo hộ công dân tùy thuộc vào mức độ vi
phạm cũng như mốì quan hệ với quốc gia sở tại.
Trong bối cảnh hiện nay biện pháp này được xem
rất hữu hiệu. Mục đích của việc áp dụng biện pháp
này là dùng sức ép của dư luận (cả trong và ngoài
nước) buộc quốc gia sở tại chấm dứt hành vi vi
phạm hoặc có sự điều chỉnh chính sách đảm bảo lợi
ích của cơng dân nước mình đang cư trú tại quốc
gia sở tại.
Thứ năm, biện pháp tài phán. Trong một sô
trường hợp, quốc gia có thể đưa vụ việc ra trước cơ
quan tài phán quốc tế để bảo hộ công dân của mình
trước vi phạm của quốc gia khác. Theo nghĩa rộng

về hoạt động bảo hộ công dân, trong trường hợp cá
nhân cơng dân cần sự trợ giúp qucíc gia, có thể thực
hiện nhiều các biện pháp khác nhau để hỗ trỢ cho
cơng dân của mình. Tuy nhiên, biện pháp này cũng
được xem như biện pháp cuối cùng khi các biện
pháp khác thực hiện khơng có hiệu quả.
Trong thực tiễn, tất cả những biện pháp trên
được thực thiện trong các trường hợp chủ yếu như:
trợ giúp trong trường hợp công dân qua đời ở nưóc
ngồi; trợ giúp trong trường hợp tai nạn nghiêm
trọng hoặc bệnh nặng; trợ giúp trong trường hợp bị

bắt hoặc tạm giam; trợ giúp trong trường hợp xảy
ra dịch bệnh hay thảm họa tự nhiên; hoặc trợ giúp
trong trường hợp có khủng bố hay xung đột quân sự
ở quốc gia nơi họ đang hiện diện,... Các biện pháp
bảo hộ mà quốc gia dành cho cơng dân của mình
khi ở nước ngồi có sự khác nhau nhất định tùy
thuộc vào chính sách và điều kiện của mỗi quốc
gia cũng như quan hệ cụ thể giữa các quốc gia hữu
quan. Nhưng nhìn chung lại, các quốc gia có thể
bảo hộ cơng dân của mình thơng qua các cách thức
khác nhau từ đơn giản cho đến phức tạp, từ các
biện pháp hành chính, kinh tế cho đến các biện
pháp chính trị, ngoại giao, hay tài phán. Việc lựa
chọn biện pháp, mức độ cũng như thời điểm bảo hộ
hoàn toàn do quốc gia quyết định trên cơ sở tuân
thủ pháp luật quốc tế và tôn trọng pháp luật quốc
gia sở tại.
3. Trách nhiệm bảo hộ của quốc gia đốì với

ngư dân mang quốc tịch quốc gia trong hoạt
động đánh cá trên biển
Ngư dân mang quốc tịch của một quốc gia là
công dân của qc gia đó, vì vậy khi xem xét vấn
đề trách nhiệm bảo hộ của quốc gia đối với ngư
dân mang quốc tịch trong hoạt động đánh cá trên
biển chính là xem xét trách nhiệm bảo hộ của quốc
gia đối với cơng dân của mình khi cơng dân thực
hiện đánh cá trên biển. Như đã phân tích ở trên,
bảo vệ quyền và lợi ích của cơng dân cả ở trong
nước và ngoài nước là những trách nhiệm đương
nhiên của nhà nước khi nhân dân bầu ra. Nhà nước
có trách nhiệm bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng của cơng dân nước mình. Tuy nhiên, xét dưới
góc độ bảo hộ cơng dân, trách nhiệm của quốc gia
chỉ đặt ra khi ngư dân thực hiện đánh bắt cá ở các
vùng biển không phải là lãnh thổ quốc gia hoặc
vùng biên đang có tranh châp về chủ quyền hoặc
quyền chủ quyền giữa các quốc gia.
Trong vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia và
không có tranh châp, quốc gia có quyền quy định
mọi vấn đề liên quan đến việc đánh cá và đảm bảo
thực thi các quy định đó nên khơng đặt ra vấn đề
trách nhiệm của quôc gia về bảo hộ ngư dân trong
trường hợp này. Mà vân đề trách nhiệm quốc gia
đốì với ngư dân mang quốc tịch trong hoạt động
đánh cá trên biển đặt ra trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, trách nhiệm của quốc gia trong trường
hợp ngư dân đánh cá trong vùng biển đang tranh
chấp. Theo quy định về các vùng biển thuộc chủ

quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của
quốc gia ven biển của Công ước Luật Biển 1982 thì

SỐ9-Tháng 5/2022

35


TẠP CHÍ CỒNG THƯƯNG

tồn tại rất nhiều vùng biển chồng lấn gây ra tranh
chấp giữa các quốc gia. Chính vì có sự tranh chấp
về chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán
giữa các quốc gia nên ngư dân đánh bắt cá trong
các vùng biển này có thể bị truy đuổi, bị va chạm,
đâm chìm, thậm chí bị bắt giữ,... khi đó đặt ra vấn
đề trách nhiệm bảo hộ ngư dân của quốc gia ngư
dân mang quốc tịch. Thông thường trong các vùng
biển đang tranh chấp, các quốc gia sẽ có những
thỏa thuận về hợp tác nghề cá. Các thỏa thuận này
sẽ quy định rõ ràng các trường hợp xử lý. Khi đó,
các quốc gia liên quan sẽ dựa vào pháp luật quốc
gia và các thỏa thuận này để xác định trách nhiệm
của mình. Hầu hết các thỏa thuận đều có quy định
về các trường hợp vi phạm những quy định của thỏa
thuận cũng như cách xử lý. Căn cứ vào pháp luật
quốc gia và các thoả thuận, quốc gia mà ngư dân
mang quô'c tịch sẽ xác định biện pháp cụ thể bảo hộ
ngư dân của mình, như: nhanh chóng bảo lãnh hoặc
thực hiện những biện pháp bảo đảm khác khi tàu cá

và ngư dân bị bắt giữ,... Trong trường hợp chưa có
các thỏa thuận về hợp tác nghề cá, hoạt động bảo
hộ ngư dân sẽ được thực hiện trên cơ sở các quy
định chung của pháp luật quốc tế.
Thứ hai, trách nhiệm của quốc gia trong trường
hợp ngư dân đánh cá trên vùng biển quốc tế. Biển
quốc tế không thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền
và quyền tài phán của bất kì quốc gia nào. Mọi
hoạt động liên quan đến nghề cá tại biển quôc tế
được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế, đặc biệt là
Công ước Luật Biển 1982. Khi đánh cá trên biển,
ngư dân có thể xảy ra các trường hợp cần đến sự
bảo hộ của quốc gia, như: có sự va chạm giữa các
tàu đánh cá, bị bất cóc,... Theo Cơng ước Luật
Biển 1982, trong vùng biển quốc tế thẩm quyền
tài phán đôi với tàu thuyền thuộc về quốc gia mà
tàu mang cờ2. Trong trường hợp xảy ra va chạm
tàu cá dẫn đến thiệt hại, như: hư hỏng hoặc chìm
tàu cá thì theo nguyên tắc thẩm quyền thuộc về
quốc gia tàu mang cờ, khi đó quốc gia tàu mang
cờ sẽ thực hiện các biện pháp xử lý, như: nhanh
chóng cứu hộ tàu cá cũng như ngư dân và nếu có
thiệt hại thì quốc gia ngư dân mang quốc tịch sẽ
thực hiện yêu cầu tàu gây thiệt hại bồi thường
thiệt hại cho ngư dân mình. Trong trường hợp gặp
cướp biển và bị tấn công hoặc bị bắt, quốc gia có
trách nhiệm thực hiện mọi hoạt động giải cứu
cũng như trừng phạt cướp biển, như: truy đuổi,
khám xét, bắt giữ cươp biển,...
36


Sô'9-Tháng 5/2022

Thứ ba, trách nhiệm quốc gia trong trường hợp
ngư dân đánh cá bất hợp pháp trong vùng biển của
quốc gia khác. Trong những năm gần đây, nạn
đánh bắt cá bất hợp pháp diễn ra ngày càng
nghiêm trọng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này
rất nhiều có cả chủ quan và khách quan, như: ngư
dân không hiểu biết các quy định về các vùng biển
dẫn đến đi nhầm vào vùng biển của quốc gia khác;
cố tình khai thác khơng có giấy phép; khai thác
vượt định mức cho phép. Trong trường hợp đánh
cá bất hợp pháp, thẩm quyền xử lý thuộc về quốc
gia ven biển. Tuy nhiên, khi quốc gia ven biển thực
thi thẩm quyền của mình để ngăn chặn và xử lý
hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp phải đảm bảo
những quyền cơ bản, đảm bảo tính nhân đạo đối
với ngư dân, thủy thủ đoàn bị nghi ngờ hoặc có
hành vi vi phạm Cụ thể: Khơng giam giữ, áp dụng
hình phạt thân thể và chống tra tấn trong xử lý hoạt
động đánh bắt cá bất hợp pháp; không sử dụng vũ
lực như là biện pháp chế tài để xử lý các hành vi
đánh cá bất hợp pháp; xử lý hoạt động đánh cá bất
hợp pháp phải thể hiện tính nhân đạo và có sự cân
nhắc, xem xét đến các quyền, lợi ích khác của ngư
dân3. Khi đó, quốc gia mà ngư dân mang quốc tịch
sẽ có trách nhiệm bảo hộ ngư dân mình. Quốc gia
ngư dân mang quốc tịch nỗ lực thực hiện biện pháp
ngoại giao để đảm bảo các quyền cho ngư dân

mình, thực hiện bảo lãnh để nhận ngư dân đưa về
nước xử lý trừ trường hợp quốc gia ven biển không
đồng ý và muôn thực hiện thẩm quyền tài phán
của mình. Trường hợp đánh cá bất hợp pháp trong
vùng biển quốc gia khác, công tác bảo hộ ngư dân
phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động ngoại giao của
quô'c gia ngư dân mang quốc tịch.
Thông qua nghiên cứu chúng ta thấy vấn đề bảo
hộ công dân cũng như bảo hộ ngư dân khi đánh cá
trên biển là một phần trách nhiệm nhà nước đốì
với cơng dân. Hoạt động bảo hộ ngư dân khi đánh
cá trên biển là một nội dung trong hoạt động bảo
hộ công dân nói chung. Hoạt động bảo hộ ngư dân
được thực hiện khi ngư dân cần sự giúp đỡ khi đánh
cá tại các vùng biển chống lấn, đang tranh chấp,
vùng biển quốc tế và trường hợp đánh cá bất hợp
pháp trong vùng biển của quốc gia khác. Cũng như
hoạt động bảo hộ cơng dân nói chung thì trong hoạt
động bảo hộ ngư dân, quốc gia ngư dân mang qucíc
tịch có thể thực hiện nhiều biện pháp bảo hộ, như:
biện pháp chính trị, biện pháp kinh tế, biện pháp
ngoại giao,... ■


LUẬT

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
'Bảo hộ cơng dân trong thế giới phẳng. Truy cập tại: />
phang-34821 .html.
2Công ước Luật Biển năm 1982, Khoản 2 điều 94.


3Nguyễn Thị Hồng Yến (2018). Đánh cá bất hợp pháp: Một số' phân tích từ góc độ luật nhân đạo quôc tế và thực
tiễn của các quốc gia tại Biển Đông. Hội thảo Quốc tế: Những phát triển mới của Luật Biển Quốc tế - Góc nhìn

quốc tế và Việt Nam, Đà Nang, 143.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Dương Chí Dũng (2010). Bảo hộ ngư dân và tàu đánh cá trên Biển Đông. Đề tài nghiên cứu khoa học, Bộ Ngoại
giao, Hà Nội.
2.

Nguyễn Trường Giang (2010). Luật quốc tê'về đánh cá trên biển. Nxb. Chính trị Qc gia, Hà Nội, 41-121.

3. Nguyễn Thị Kim Ngân (2018). Bảo hộ công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia - Kinh
nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11.

4.

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015). Giáo trình Luật Quốc tế. Nxb. Công An nhân dân, Hà Nội, Sô" 12.

5. United Nation. (2020). Oceans: The Source of Life - 20th Anniversary of the United Nations Convention on the
Law of the Sea (1982 - 2002).
6. Nguyễn Thị Hồng Yến (2018). Đánh cá bất hợp pháp: một số phân tích từ góc độ luật nhân đạo quốc tê' và
thực tiễn của các quốc gia tại Biển Đông. Hội thảo Quốc tế: Những phát triển mới của Luật Biển Quốc tế - Góc
nhìn quốc tế và Việt Nam, Đà Nẩng, 143.

Ngày nhận bài: 1/3/2022
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 1/4/2022
Ngày châp nhận đăng bài: 11/4/2022


Thông tin tác giả:
1. ThS. NGUYỄN THỊ HẠNH1

2. ThS. NGUYỄN HỮU KHÁNH LINH1
'Trường Đại học Luật, Đại học Huế

INTERNATIONAL LAWS ON PROTECTING FISHERMEN
• Master. NGUYEN THI HANH1

Master. NGUYEN HUU KHANH LINH’
'University of Law, Hue University

ABSTRACT:

This paper analyzes the legal basis for countries in general and Vietnam in particular to conduct

activities to protect fishermen.
Keywords: international law, fishermen protection, fishing, fishermen, Law of the Sea.

SỐ 9 - Tháng 5/2022

37



×