Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.53 KB, 14 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội. Mỗi gia đình được xây dựng dựa trên những
sợi dây liên kết của hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng trong đó quan hệ hôn
nhân có thể xem là quan hệ nền tảng của mỗi gia đình. Trong quan hệ vợ chồng,
bên cạnh đời sống tình cảm, tình yêu thương lẫn nhau không thể không quan
tâm tới đời sống vật chất. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng là một vấn đề hết sức
quan trọng, nó là một trong những tiền đề giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc
sống hạnh phúc, đáp ứng những nhu cầu về vật chất tinh thần cho gia đình.
Xuất phát từ bản chất của quan hệ hôn nhân và gia đình là các yếu tố nhân
thân và tài sản gắn liền với các chủ thể nhất định, không thể tách rời và không
có tính đền bù ngang giá. Chính sự ràng buộc này làm nảy sinh các quyền và
nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau mà chia tài sản chung của vợ chồng, đặc biệt
là chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là một vấn đề quan
trọng trong chế độ tài sản của vợ chông. Quy định này đã từng bước đi vào cuộc
sống, phát huy được hiệu quả điều chỉnh, góp phần xây dựng củng cố chế độ
hôn nhân và gia đình Việt Nam .
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì việc áp dụng quy định
trên vào thực tiễn không tránh khỏi những vướng mắc, khó khăn trong việc giải
quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản ở các cấp Tòa án. Do vậy, việc nghiên
cứu vấn đề “ chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân” có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc nhằm đảm bảo cho các quy định của pháp luật
đi vào cuộc sống.
Trong phạm vi một bài tiểu luận nhỏ, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận của các quy định pháp luật về chia tài sản tài sản
chung trong thời kì hôn nhân và hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của
vợ chồng theo Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành. Đồng thời
qua thực tiễn áp dụng Luật, phát hiện những bất cập và đưa ra những kiến nghị
nhằm bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này. Với
kiến thức còn hạn chế, chắc hẳn còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô đóng góp ý
kiến để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.


XIN CHÂN THÀNH CÁM ƠN!

1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I/ KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG VÀ
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN
NHÂN TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM:
1/ Khái niệm chung về chế độ tài sản chung của vợ chồng:
1.1/ Khái niệm về chế độ tài sản chung của vợ chồng:
Chế độ tài sản của vợ chồng có thể được hiểu như sau:
“ Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng thể các quy phạm pháp luật diều chỉnh
về ( sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài
sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các
trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật”(Theo: “chế độ
tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam”- TS. Nguyễn Văn
Cừ)
1.2/ Căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng:
Theo khoản 1 điều 27 luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy
định về tài sản chung của vợ chồng. Theo đó tài sản chung của vợ chồng phải
dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể là:“Tài sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài
sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được
thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”
Đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và dịnh đoạt ( khoản 2 Điều 219

BLDS 2005 và khoản 1 Điều 28 luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy
về nguyên tắc vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau trong việc
xây dựng, phát triển và duy trì khối tài sản cũng như trong việc chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2/ Khái lược vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân
trong pháp luật Việt Nam
2.1/ Cơ sở quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân:
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân xuất phát từ
những lí do sau:
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong cuộc sống gia đình nhiều khi không tránh khỏi những căng thẳng, bất
hòa dẫn đến tình trạng không muôn chung sống cùng nhau, nhưng vì nhiều lí do
không muốn ly hôn mà chỉ muốn ra ở riêng và có yêu cầu chia tài sản chung
( như vợ chồng đã già, dù có mâu thuẫn sâu sắc ngưng ly hôn sợ ảnh hưởng đên
hòa khí trong gia đình, con, cháu lo buồn, hang xóm chê cười, họ chỉ yêu cầu
chia tài sản chung…)
Trên cơ sở Điều 57 hiến pháp , bộ luật dân sự 1995 và luật doanh nghiệp
năm 1999 về việc mở rộng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, quy định tại
Điều 29 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn nhằm bảo đảm quyền tự chủ
của vợ chồng khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, xã hội nhất định. Với tư
cách là công dân, vợ hoặc chồng đều có quyền thực hiện các quyền năng hợp
pháp của mình ( quyền tự do kinh doanh, quyền tham gia các giao dịch dân sự).
để tránh những hậu quả không tốt có thể xảy ra ảnh hưởng đến kinh tế chung gia
đình, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng được tự do thực hiện các
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình thì pháp luật quy đinh vợ chồng có quyền
yêu cầu Tòa án cho chia tài sản chung của vợ chồng ngay trong thời kì hôn nhân
còn tồn tại.
Trên thực tế cũng có một số trường hợp vì công việc kinh doanh buôn bán
mà vợ, chồng cần phải “ chớp thời cơ” để đạt được hiệu quả nhất. Tuy nhiên,

phía người vợ hoặc chồng kia lại không đồng ý sử dụng vào công việc kinh
doanh, buôn bán do không nhận thức được “ công việc làm ăn” của người chồng
hoặc người vợ mình hay vì lí do khác. Người chồng(vợ ) đã yêu cầu chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân với mục đích lấy phần tài sản của
mình trong khối tài sản chung để làm vốn đầu tư kinh doanh.
Cũng có trường hợp vợ, chồng trước khi kết hôn hoặc trong thời kì hôn nhân
đã vay một khoản tiền hay tài sản sử dụng vào nhu cầu riêng…nhưng
tài sản riêng không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thỏa thuận được lấy
tài sản chung để trả nợ riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài
sản chung trong thời kì hôn nhân để người vợ, chồng lấy phần tài sản của mình
trong khối tài sản chung của vợ chồng nhằm thanh toán món nợ mà mình đã vay
của người khác.
Từ những lí do trên Điều 29 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã tạo cơ sở
pháp lý cho việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân :
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
“ Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có
thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn
bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về
tài sản không được pháp luật công nhận”.
2.2/ Khái lược các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân trong pháp luật Việt Nam:
Trong pháp luật phong kiến, tiêu biêu là Quốc triều hình luật và Hoàng Việt
luật lệ đều không có một điều khoản nào đề cập đến vấn đề tài sản của vợ chồng
trong thời kì hôn nhân, trong Quốc triều hình luật có dự liệu một số trường hợp
chia tài sản của vợ chồng khi một bên vợ chồng chết trước( điều 374, điều 375,
điều 376). Do đó vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng không được đặt ra. Bởi
lẽ theo quan niêm truyền thống của người phương đông thì hôn nhân được tác

thành xuất phát từ lợi ích của gia đình, để xây dựng gia đình, “sinh con đẻ cái”,
yếu tố tình cảm với những lợi ích về tinh thần được coi trọng hơn các yếu tố tài
sản. suốt trong thời kì hôn nhân, toàn bộ của cải của vợ chồng tạo thành khối
cộng đồng, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản.
Cũng theo quan niêm này 3 bộ dân luật thời kì pháp thuộc cũng không quy
định về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
Khi luật hôn nhân và gia đình đầu tiên của nhà nước Việt Nam ra đời năm
1959 cũng không đặt ra vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân mà tất cả tài sản chung của vợ chồng đều thuộc sở hữu chung của cả hai
người, không phân biệt tài sản chung và tài sản riêng. Bởi thời kì này, lợi ích cá
nhân luôn gắn liền với lợi ích tập thể, không tồn tại nhiều hình thức sở hữu và đa
dạng về thành phần kinh tế như hiện nay.
Tuy nhiên, khi luật hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời trên cơ sở kế thừa
và phát huy các quy đinh của hiến pháp năm 1980 về quyền sở hữu riêng của
công dân đã công nhận quyền có tài sản của vợ chồng cũng như quyền được yêu
cầu chia tào sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân còn tồn tại khi có lý
do chính đáng và được tòa án chấp thuận. Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng
quy định này đã gặp nhiều khó khăn khi xác đinh thế nào là “lý do chính đáng”
và quy đinh Tòa án chấp nhận là sự can thiệp khá sâu vào tính tự nguyện, thỏa
thuận.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kế thừa và sửa đổi luật hôn nhân và gia dình năm 1986, luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 đã quy đinh cụ thể các lý do cần thiết để Tòa án giải quyết
việc chia tài sản chung và việc chia tài sản do vợ chồng tự thỏa thuận mà không
cần phải có sự cho phép của Tòa án.
II/ NỘI DUNG CỦA QUY ĐỊNH CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI
KỲ HÔN NHÂN:
1/ Mục đích quy định chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân:
Việc quy định vợ chồng có thể chia tài sản chung trong thời kì hôn nhận,

giúp ổn đinh quan hệ gia đình khi chưa cần thiết phải ly hôn, đảm bảo quyền lợi
chính đáng về tài sản của vợ chồng, của các thành viên trong gia đình và người
khác.
Với quy định này, sẽ giúp vợ (chồng) có thể mạnh dạn tham gia vào các quan
hệ kinh tế, thương mại…nhằm duy trì và phát triển đời sống gia đình mà không
sợ ảnh hưởng đến tài sản của người kia một khi “rủi ro” xảy ra từ đó thúc đẩy
nền kinh tế của cả xã hội phát triển.
Quy định này cùng nhằm bảo đảm quyền lợi của người thứ ba khi tham gia
giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình người thứ ba cần phải biết quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài
sản để xác định phạm vi giao dịch, mức độ tài sản của vợ chồng trong việc thực
hiện nghĩa vụ. quy định này nhằm tạo sự công bằng, hợp lý, bảo đảm sự an toàn
về tài sản không những cho cgười thứ ba mà còn cho cả gia đình.
2/ Điều kiện chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân:
2.1/ Chia tài sản chung khi vợ chồng đầu tư kinh doanh:
Như đã nói ở trên chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ
chồng đầu tư kinh doanh riêng xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh
doanh của cá nhân, nếu một trong hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng
thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ chồng có tài sản
riêng làm vốn kinh doanh. Mặt khác quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích gia
đình, bảo đảm cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi
những ảnh hưởng tiêu cực do hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra.
2.2/ Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên thực hiện nghĩa vụ dân sự
riêng:
Nếu vợ ( chồng) phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng như: cấp dưỡng, nuôi
dưỡng người khác, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại… mà họ không có tài sản riêng
5

×