TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHÂN SINH ĐẾN LŨ LỤT TRÊN
SÔNG TRÀ KHÚC, TỈNH QUẢNG NGÃI
Lê Cảnh Tuân, Lê Trung Kiên,
Nguyễn Thị Phương Thanh, Nguyễn Khắc Hoàng Giang
Trường Đại học Tài ngun và Mơi trường Hà Nội
Tóm tắt
Hàng năm lũ lụt thường xảy ra trên các con sông của miền Trung, Việt Nam. Hầu hết các
con sông ở miền Trung đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn ở phía Tây, rồi chảy ra Biển Đông. Đặc
điểm chung, sông ở miền Trung Việt Nam thường ngắn, độ dốc thay đổi đột ngột, mỗi khi có mưa
thường xảy ra lũ. Một trong những nguyên nhân gây cản trở khả năng tiêu thoát lũ đó là các hoạt
động của con người, như xây dựng các cơng trình cắt ngang qua sơng, quy hoạch sử dụng đất tại
các vùng cửa sông ven biển. Bài báo viết về những bất cập trong xây dựng công trình và quy hoạch
sử dụng đất vùng hạ lưu, sơng Trà Khúc tỉnh Quảng Ngãi.
Từ khóa: Lũ lụt; Sơng Trà Khúc; Sử dụng đất.
Abstract
Impact of human activities on flooding on Tra Khuc river, Quang Ngai province
Every year floods often happening on the rivers of Central Vietnam. Most rivers in the Central
region originate from the Truong Son Mountains in the West and flow into the East Sea. General
characteristics, rivers in central Vietnam are often short, the slope changes abruptly, when the rain
comes up, the flood usually happening. One of the reasons that hinder flood drainage is human
activities. Such as the construction of cross-river. land-use planning in coastal estuaries. The
article writes about inadequacies in construction works and land use planning in the downstream
area, Tra Khuc River in Quang Ngai province.
Keywords: Flooding; Tra Khuc River; Land-use.
1. Giới thiệu
Hình 1: Phần hạ lưu sơng Trà Khúc chảy từ Tây sang Đông, ra biển với chiều dài khoảng 12 km
Hàng năm, cứ vào mùa mưa chúng ta lại phải gồng mình lên chống chọi với thiên nhiên.
Vùng miền Trung Việt Nam, trong đó có tỉnh Quảng Ngãi lại đối mặt với lũ lụt. Sông Trà Khúc là
con sông quan trọng của tỉnh Quảng Ngãi. Đoạn cuối, chảy theo hướng từ Tây sang Đông, tới biển
198
Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
có chiều dài khoảng 12 km (Hình 1). Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về sơng Trà Khúc, nhưng
khơng đề cập đến sự ảnh hưởng của các cơng trình xây dựng đến khả năng thốt nước khi có lũ [1,
2, 3, 4, 5, 6, 7]. Về nguyên nhân thì có nhiều, nhưng một ngun nhân khơng đáng có lại xuất phát
từ vấn đề quy hoạch sử dụng đất. Bài viết sẽ phân tích chi tiết sự biến động địa hình tại vùng cửa
sơng Trà Khúc, tỉnh Quảng Ngãi. Đồng thời cảnh báo về việc quy hoạch đảo Ngọc trên dịng sơng
Trà Khúc đã làm cản trở khả năng tiêu thoát nước lũ.
2. Phương pháp nghiên cứu
Tài liệu sử dụng trong bài báo bao gồm: Các bản đồ địa hình từ năm 1965 đến nay, các báo
cáo, dự án liên quan đến chính trị, thốt lũ của sơng Trà Khúc. Các phương pháp nghiên cứu sử
dụng trong bài báo là:
- Phân tích và lựa chọn tài liệu: Nhóm tác giả lựa chọn các loại bản đồ UTM của Mỹ, xuất
bản năm 1965; bản đồ Gauss xuất bản năm 1993, bản đồ Việt Nam 2000 xuất bản năm 2003, ảnh
vệ tinh của Mỹ, năm 2009. Sự liên kết, so sánh các bản đồ cùng với khảo sát thực địa năm 2015,
2019 để luận giải kết quả.
- Phân tích cơ sở lý thuyết: Sự hình thành và phát triển của sơng xảy ra 4 giai đoạn, các vùng cửa
sông liên quan đến giai đoạn cuối cùng. Do tính chất đặc biệt, vùng hạ lưu trên các con sơng thường
hình thành các dạng địa hình như bãi bồi, bậc thềm, các cồn nổi giữa dịng,… Các dạng địa hình đó
thường bị biến đổi theo mùa trong năm và được xếp vào dạng địa hình khơng ổn định.
- Khảo sát thực địa: Nghiên cứu, khảo sát thực tế sự phân bố dân cư, nhà cửa, sử dụng đất
của các dạng địa hình vùng hạ lưu sông Trà Khúc. Điều tra các thông tin về lũ lụt, sự tương tác của
dòng chảy với các dạng địa hình.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Khái qt về tình hình lũ lụt trên sơng Trà Khúc
Trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu mà tác giả lựa chọn tại mục 2 cho thấy, lũ thường
tập trung vào thời gian từ tháng 9 đến tháng 12, và xuất hiện nhiều nhất vào tháng 10 và 11. Bảng
1, thể hiện trung bình các trận lũ lớn xuất hiện trong năm của sông Trà Khúc.
Bảng 1. Số trận lũ lớn trung bình xuất hiện trong năm [3]
Đặc trưng
Số trận lũ trung bình
%
9
0,04
2
10
0,88
39
11
1,09
48
12
0,24
11
Số trận lũ trung bình năm
2,25
100
Hàng năm, lũ lụt đã liên tiếp xảy ra làm ngập lụt đồng bằng hạ lưu sông Trà Khúc. Lũ lụt là
nguyên nhân gây thiệt hại lớn cho mùa màng, ách tắc giao thông, làm hư hỏng nhà cửa, các công
trình xây dựng. Dưới đây là một số trận lũ lịch sử đã xảy ra trên sông Trà Khúc:
Năm 1924: Lưu lượng lũ xấp xỉ 10.000 m3/s; năm 1964 có Q = 14.500 m3/s, gây thiệt hại
80 % mùa màng toàn vùng đồng bằng Quảng Ngãi; năm 1998 mực nước cao nhất lên tới 7,72 m,
vượt báo động III là 2,02 m, ước tính gây thiệt hại tới 158 tỷ đồng; năm 1999 mực nước tại cầu Trà
Khúc đã lên tới Hmax = 8,36 m, vượt báo động III là 2,66 m, tổng thiệt hại lên tới 490 tỷ đồng. Năm
2010, lũ gây ngập nhiều nhà, giao thơng bị đình trệ, đe dọa sự an toàn của các đập thủy điện, nhân
dân phải sơ tán. Liên tục lũ lớn xảy ra các năm 2013, 2017. Đỉnh lũ năm 2017 đo tại cầu Trà Khúc là
7,56 m, trên báo động 3 là 1,06 m. Tháng 10, năm 2019 khi có mưa, lũ lại xuất hiện. Mực nước tại
trạm Trà Khúc đo được ngày 31/10/2019 là: 5,89 m, dưới mức báo động 3: 0,61 m [4]. Năm 2020,
2021 lũ lại xuất hiện. Có lẽ câu chuyện lũ ở sơng Trà Khúc nó sẽ đồng hành với các mùa mưa.
Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
199
3.2. Dịng chảy bị ách tắc bởi có q nhiều cơng trình xây dựng cắt ngang sơng Trà Khúc
Rất nhiều cầu cắt ngang sông Trà Khúc, các mố cầu đã tạo thành hàng rào chắn nước cắt
ngang qua sông, tạo nên những “bức tường” chắn nước giữa lịng sơng (Hình 2, Hình 3). Việc quy
hoạch Đảo Ngọc làm khu đơ thị ở giữa sông Trà Khúc tạo nên khối vật cản khổng lồ giữa lịng sơng
(Hình 3). Quy hoạch như vậy đã vi phạm Luật Đê điều (Luật Đê điều 2006; Nghị định 104/2007/
NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2017), làm gia tăng khả năng gây lũ lụt trên sông Trà Khúc.
Đối với xây dựng cầu cắt ngang sông, người ta thường lựa chọn tại các vị trí lịng sơng bé
nhất để tiết kiệm chi phí. Khảo sát của chúng tôi đã xác định, trong khoảng 3 km, dọc theo sơng
Trà khúc đã có tới 4 cây cầu (cầu đường Sắt, cầu Thạch Bích, Cầu Trà Khúc và cầu Trà Khúc 2).
Các cầu được xây quá nhiều, mỗi cây cầu tạo nên một bức “tường chắn” chắn nước trên sông (Hình
2, Hình 3).
Hình 2: Khoảng 3 km dọc theo sơng Trà Khúc
có 4 cây cầu: Cầu Đường sắt, Cầu Thạch
Bích, Cầu Trà Khúc và Cầu Trà Khúc 2
Hình 3: Hàng loạt trụ cầu là vật cản nước,
giảm khả năng tiêu thốt nước trên
sơng Trà Khúc
Hình 4: Phối cảnh quy hoạch Khu đơ thị sinh thái Đảo Ngọc do nhóm Thái Lan đề xuất
(Nguồn: quangngai.gov)
Như chúng ta đã biết, quá trình hình thành và phát triển của sơng trải qua 4 giai đoạn. Theo
thời gian, dịng chảy ln ln biến động. Khu vực hạ lưu, độ dốc của lịng sơng giảm xuống, hình
thành nên bãi bồi, cồn nổi trên sơng hoặc bậc thềm. Đây là các dạng địa hình thường xuyên bị biến
động. Đặc biệt là các bãi cát ở giữa sông kiểu như đảo Ngọc trên sông Trà Khúc, tỉnh Quảng Ngãi.
Phân tích bản đồ địa hình UTM cho thấy, vào những năm 1963 đến 1969 chưa có Đảo Ngọc.
Khi đó dịng chảy của sơng Trà Khúc chảy vịng xuống phía Nam, tao thành vịng cung có bán kính
200
Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
khoảng 1 km, tâm là đỉnh núi Thiên Ân. Làng Ân Phú cũng có từ giai đoạn này và cao hơn xung
quanh, kiểu như “gị đất” nổi cao (Hình 5).
Hình 5: Bản đồ UTM vẽ năm 1963 - 1969, không có Đảo Ngọc, làng Ân Phú nằm ở tả ngạn
sơng Trà Khúc, các doi cát cắt ngang sông Trà Khúc, Cửa Đại rất nhỏ
Dọc theo sông Trà Khúc, từ làng Ân Phú ra tới cửa Đại có một số cồn cát được hình thành,
có những cồn cát rộng chừng 1 km2. Sự tương tác của dịng chảy trong sơng cùng với sóng và thủy
triều đã hình thành bãi cát chắn ngang Cửa Đại. Thế nên, cửa sơng Trà Khúc cịn rất nhỏ, làm giảm
khả năng thoát nước ra biển của Sơng Trà Khúc (Hình 1, Hình 5, Hình 6).
Đến năm 1993 - 1994, địa hình dọc theo sơng Trà Khúc lại bị thay đổi. Đó là sự xuất hiện
dịng chảy phía Bắc làng Ân Phú. Các cồn cát phát triển dọc theo dòng chảy từ làng Ân Phú ra Cửa
Đại, bờ Bắc sông Trà Khúc thẳng và trơn chu hơn (Hình 6).
Hình 6: Bản đồ Gaus vẽ từ năm 1993 đến năm 1994, cho thấy sơng Trà Khúc có nhiều dịng
chảy hơn ở phía Bắc. Đảo Ngọc bắt đầu hình thành, làng Ân Phú bị chia cắt
Như vậy, dòng chảy của sông Trà Khúc đã bị thay đổi theo thời gian. Quá trình định cư của
nhân dân trên Đảo Ngọc có chiều hướng gia tăng. Kết quả khảo sát thực địa của chúng tôi đã xác
nhận, hiện nay trên Đảo Ngọc có khoảng gần 400 hộ dân tương ứng khoảng 1.500 nhân khẩu ở
thôn Ân Phú và thôn Ngọc Thạch. Nhưng chỉ có một con đường để đến Đảo Ngọc. Mỗi năm, khi
mùa mưa đến, con đường lại bị ngập (Hình 7, 8)
Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
201
Hình 7: Làng Ân Phú nằm giữa sơng Trà Khúc,
chỉ có một đường vào
Hình 8: Khi lũ về, đường ngập
Nghiên cứu năm 2019 của Phạm Bá Trung, Lê Đình Mầu khẳng định: lịng dẫn tại cửa sơng Trà
Khúc ln thay đổi do sự dịch chuyển các dải cát bồi ở hai bờ lịng dẫn chính [1]. Kết quả nghiên cứu
này hồn tồn phù hợp với quy luật, diễn biến dịng chảy của sông. Nghiên cứu thực tế, kết hợp với
phân tích các loại bản đồ, ảnh vệ tinh cho thấy, khả năng thốt lũ của sơng Trà Khúc gặp rất nhiều khó
khăn, vì đường đi của nước ra biển bị chặn lại bởi nhiều vật cản. Đó là, hệ thống cầu, đường bộ, đường
sắt cắt ngang và các bãi bồi ở trên lịng sơng. Đặc biệt, việc xây dựng cầu Cửa Đại cuối năm 2017, càng
gây cản trở sự tiêu thốt nước của sơng Trà Khúc. Năm 2019, tỉnh Quảng Ngãi đã đồng ý với phương
án quy hoạch và đề xuất đầu tư dự án Khu đô thị sinh thái Đảo Ngọc do Thaigroup Quảng Ngãi đề xuất.
Đảo Ngọc được hình thành từ bãi bồi của sơng Trà Khúc, đây là dạng địa hình khơng ổn định, thường
bị biến động theo thời gian. Hiện nay Đảo Ngọc đang án ngữ, gây ách tắc dịng chảy. Quy hoạch Đảo
Ngọc như hình vẽ phối cảnh (Hình 5) sẽ làm gia tăng tai biến lũ lụt trên sông Trà khúc.
3.3. Cửa Đại bị bồi đắp mạnh, do tác động của sóng và thủy triều.
Hình 9: Nhiều cồn trên sơng Trà Khúc. Thêm cầu Cửa Đại cắt ngang, ngăn nước chảy ra biển
Nghiên cứu và phân tích bản đồ địa hình trong vịng 54 năm (từ 1965 đến 2019) cho thấy,
Cửa Đại luôn luôn bị thay đổi do tác động của sóng và triều. Vào mùa lũ Cửa Đại được mở rộng,
vào mùa khô, Cửa Đại bị bồi lấp. Hiện nay, tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục xây dựng cầu Cửa Đại, chắc
chắn rằng cầu Cửa Đại sẽ gây tác động bất lợi cho việc thốt lũ của sơng Trà Khúc (Hình 9).
202
Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Hình 10: Cồn cát chắn ngang Cửa Đại ln ln bị biến động và sự thay đổi đường bờ biển
khu vực cửa sông Trà Khúc [1]
Dọc theo sông Trà Khúc, có rất nhiều bãi cát, lại thêm cầu Cửa Đại, các bãi cát chắn ngang,
là những vật cản đường đi của nước ra Biển Đông.
4. Kết luận
Lũ thường xảy ra trên sông Trà Khúc, gây ra nhiều thiệt hại cho nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Việc xây dựng quá nhiều các cơng trình cắt ngang sơng, gây cản trở khả năng tiêu thoát nước là
một trong nhiều nguyên nhân gia tăng mức độ ngập lụt của sông Trà Khúc. Đặc biệt, Đảo Ngọc và
nhiều cồn cát nằm ở giữa sông Trà Khúc, đã làm cản trở sự thốt nước của sơng Trà Khúc ra biển.
Việc quy hoạch Đảo Ngọc thành khu đô thị sinh thái là không hợp lý. Đây cũng là lời cảnh báo
cho các tỉnh miền Trung về vấn đề quy hoạch xây dựng các cơng trình liên quan với các hệ thống
sông. Để Quảng Ngãi phát triển bền vững, rất cần thiết có sự phối hợp chặt chẽ của các nhà khoa
học và các nhà quản lý. Các vùng đất nằm trên dịng chảy của sơng, kiểu như Đảo Ngọc nằm trên
sông Trà Khúc tuyệt đối không được quy hoạch thành đất ở. Tại sao có các dự án quy hoạch bất
hợp lý kiểu như Đảo Ngọc?. Câu trả lời dành cho các cấp quản lý!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phạm Bá Trung, Lê Đình Mầu (2019). Nghiên cứu q trình xói lở - bồi tụ tại cửa Cổ Lũy - Cửa Lở tỉnh
Quảng Ngãi. Tuyển tập báo cáo khoa học Hội nghị Khoa học Địa chất biển Toàn quốc lần thứ 3. Nhà xuất
bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
[2]. />[3]. />[4]. />[5]. Lê Cảnh Tn (2015). Tính tốn khối lượng trầm tích tại các vùng cửa sông ven biển miền trung Việt
Nam, phục vụ cơng tác nạo vét lịng sơng, giảm thiểu tai biến lũ lụt (lấy thí điểm vùng Cửa Đại, sơng Trà
Khúc, tỉnh Quảng Ngãi). Hội thảo Khoa học “Gắn kết nghiên cứu khoa học cơ bản với các lĩnh vực Mỏ Địa chất - Dầu khí - Mơi trường”. Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.
[6]. Trần Thanh Tùng (2006). Phân tích diễn biến hình thái cửa sơng Trà Khúc, tỉnh Quảng Ngãi. Tạp chí
KHKT Thuỷ lợi và Môi trường, số 14.
[7]. Phan Thị Tường Vi (2012). Nghiên cứu giải pháp ổn định lịng dẫn sơng Trà Khúc đoạn từ hạ lưu đập
Thạch Nham đến Cửa Đại. Luận văn thạc sỹ, Đại học Đà Nẵng.
Ngày chấp nhận đăng: 10/11/2021. Người phản biện: TS. Hoàng Thị Nguyệt Minh
Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
203