Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình cải cách giáo dục tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.03 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



BÀI TẬP NHĨM

MƠN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: VẬN D ỤNG Q UAN ĐIỂM LỊCH SỬ - CỤ THỂ
VÀO QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH GIÁO DỤC TẠI VIỆT NA
M

Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Lớp: Cao Học QTKD – K20V
Nhóm 4: Lê Anh Tuấn
Phạm Việt Tùng
Nguyễn Xuân Lan
Hoàng Thị Lệ Thủy
Lê Thị Hoài Thương
Đỗ Thanh Nga
Phan Thị Thanh Hương
Hà Nội, năm 2012


LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan
trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục
ngày càng có vai trị và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ
người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Điều này đòi hỏi
giáo dục phải có chiến lược phát triển đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng


tầm thời đại. Trong nhiều năm qua Đảng ta đã luôn luôn nhấn mạnh quan điểm
“Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực của quá trình phát triển”. .
Tuy nhiên trong thực tiễn, quan điểm này chưa được hiểu một cách đầy đủ
để triển khai một cách thực sự hiệu quả ở mọi lĩnh vực. Nền giáo dục Việt Nam
hiện nay tồn tại nhiều bất cập và cải cách giáo dục là nhu cầu tất yếu để nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Quá
trình cải cách giáo dục diễn ra nhiều năm nay đã đạt được nhiều thành tựu cũng
như cịn nhiều hạn chế.
Đánh giá q trình cải cách giáo dục phải đặt trong tổng thể các mối quan
hệ, trong sự vận động phát triển không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan
điểm lịch sử - cụ thể của Triết học Mác – Lênin vào quá trình cải cách giáo dục
tại Việt Nam là rất cần thiết để có được hướng đi đúng đắn.
Xuất phát từ những nhận thức trên, Nhóm 4 - Lớp QTKD - K20V tham gia
viết bài thảo luận nhóm với đề tài: “Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào
quá trình cải cách giáo dục tại Việt Nam”.
Chóng em xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới Giáo viên hướng dẫn
PGS.TS. Hồng đã tận tình giúp đỡ để chúng em hồn thành Bài thảo luận
nhóm này.
Kết cấu của Bài thảo luận nhóm bao gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về quan điểm lịch sử - cụ thể
Phần II: Quá trình cải c ách giáo dục tại Việt Nam theo quan điểm lịch sử cụ thể
Phần III: Một số nguyên nhân và giải pháp trong quá trình cải c ách giáo
dục tại Việt Nam.
Là cơng trình nghiên cứu theo nhóm trong điều kiện hạn chế về thời gian và
tài liệu nên khó tránh khỏi có sai sót, khiếm khuyết. Chúng em rất mong nhận


được sự đóng góp ý kiến của Cơ giáo và các bạn để nội dung nghiên cứu đề
tài này được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ Q UAN ĐIỂM LỊCH SỬ - CỤ THỂ
I. Cơ sở khách quan của Quan điểm lịch sử - cụ thể:
Trong triết học Mác, thuật ngữ “Siêu hình” được dùng theo nghĩa là
phương pháp xem xét sự tồn tại của sự vật, hiện tượng và sự phản ánh chúng
vào tư duy con người trong trạng thái biệt lập, nằm ngoài mối liên hệ với các sự
vật, hiện tượng khác và trong trạng thái không vận động, phát triển, nếu có vận
động, phát triển thì cũng chỉ thay đổi về lượng chứ không thay đổi về chất.
Ph.Ăngghen khẳng định: Phương pháp siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật
riêng biệt mà khơng nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ
nhìn


thấy sự tồn tại của sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất
sự vận động của sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà khơng thấy rừng”. Còn thuật
ngữ “Biện chứng” được dùng đối lập với siêu hình. Đó là lý luận đồng thời là
phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau,
ràng buộc lẫn nhau và trong q trình vận động, phát triển khơng ngừng.
Ph.Ăngghen viết: Phương pháp biện chứng “xem xét những sự vật và những
phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của
chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và diệt vong của chúng”.
V.I.Lênin nói rằng: “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển,
dưới hình thức hồn bị nhất, sâu sắc nhất và khơng phiến diện, học thuyết về
tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất
ln ln phát triển khơng ngừng”.
Như vậy có thể thấy rằng, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý
về sự phát triển là linh hồn của phép biện chứng duy vật. Các phạm trù, các quy

luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể hóa các nguyên lý trên.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận
của quan điểm lịch sử - cụ thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể cho rằng mỗi sự vật,
hiện tượng diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian,
điều kiện khác nhau, hồn cảnh cụ thể khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức
phát triển của sự vật, hiện tượng cũng khác nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu
chúng trong suốt q trình mà cịn nghiên cứu chúng trong các khơng gian, thời
gian, điều kiện, hồn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau đó.
II. Yêu cầu của quan điểm lịch sử - cụ thể:
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong
điều kiện khơng gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những điều
kiện khơng gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của sự
vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng đến sự
vật, hiện tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó
cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có
như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó. Việc tìm ra điểm
mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này.


Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều
kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả của sự vận dụng đó.
III. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể vào quá trình
cải cách giáo dục tại Việt Nam:
“Giáo dục” từ chữ Latinh “paidagos” có nghĩa là dắt dẫn ai qua đường. Điều đó
có nghĩa bóng là sự đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ kế tục nhau để duy trì sự tồn
tại và phát triển của xã hội lồi người. Do đó, ngay khi xã hội ngun thuỷ ra
đời, các “hiện tượng giáo dục” đã xuất hiện. Trên cơ sở nền giáo dục dân gian
cùng với sự hình thành giai cấp, nhà nước, sự xuất hiện của chữ viết, sự hình

thành của khoa học, giáo dục nhà trường cũng ra đời. Trong xã hội có giai cấp,
khơng thể có giáo dục phi chính trị, mà giáo dục bao giờ cũng phục vụ lợi ích
của một giai cấp. Tuy nhiên, trong q trình phát triển có sự giao lưu, trao đổi
giữa các dân tộc về nội dung và kinh nghiệm giáo dục. Từ thời cổ đại, đặc biệt từ
thời cận đại đến nay, sự giao lưu trên lĩnh vực giáo dục càng mạnh mẽ và các
quốc gia, dân tộc ngày một xích lại gần nhau.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (1945), sự tiến bộ như vũ bão của
khoa học - kỹ thuật, công nghệ và sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
làm cho nhu cầu và nguồn nhân lực lao động có chất lượng tăng lên. Đây là
nguyên nhân phát sinh cuộc vận động cải c ách giáo dục mới có tính chất thế
giới diễn ra vào 30 năm cuối thế kỷ và tiếp diễn vào những năm đầu của thiên
niên kỷ thứ III. Nếu giữa thế kỷ XX trở về trước, sự phát triển giáo dục gần như
độc quyền của các nước tư bản đế quốc, tỷ lệ học sinh, sinh viên chiếm trên 70%
học sinh, sinh viên thế giới, thì từ những năm 50 của thế kỷ này, số người đi học
trên thế giới tăng hơn trước nhiều, chiếm khoảng 20% dân số thế giới, mà 3/4 số
học sinh sinh viên thuộc về các nước đang phát triển.
Sự phát triển của nền kinh tế tri thức trong xu thế toàn cầu hoá với sự cạnh tranh
gay gắt, hàm lượng chất xám “giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lược cuộc sống”. Vì vậy, giáo dục phải
nhanh chóng phát triển, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu về
nhân lực của nền kinh tế tri thức.
Trong tình hình như vậy UNESCO đã đề ra chiến lược phát triển giáo dục, gồm
21 điểm, trong đó tiến hành giáo dục suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, giáo dục
cho mọi người, xây dựng một xã hội học tập. UNESCO cũng xác nhận bốn cột


trụ của giáo dục thế kỷ XXI: học để biết, học để làm, học cùng chung sống,
học cách sống với mọi người; học để tự khẳng định mình.ư
Cải cách giáo dục ở các nước xuất hiện từ lâu, vào đầu thế kỷ XX, với những
tầng bậc khác nhau, có những mức độ mạnh yếu khác nhau, song sôi nổi nhất là

vào những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, tiếp tục những cuộc cải c ách
giáo dục vào đầu và giữa thế kỷ. Việc tiến hành những cuộc cải cách giáo dục
này nảy sinh về sự tiến bộ của khoa học công nghệ và sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất. Hơn nữa, sự phát triển của các nước mới giành được độc
lập, đang xây dựng vững mạnh, nhanh chóng cần phải phát triển giáo dục, đào
tạo và khoa học công nghệ. Các nước phát triển cũng cần phải tiến hành cải c
ách giáo dục cho phù hợp với sự bùng nổ cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy
mạnh “kinh doanh giáo dục” ở các nước đang phát triển.
Cải cách giáo dục như vậy là một cơng việc cực kỳ khó khăn và tốn kém “thậm
chí có thể làm thay đổi hồn tồn hệ thống giáo dục cũng nhằm tạo ra sự đổi
mới về chất trong hệ thống giáo dục mới về những sản phẩm của nó. Sự bắt đầu
của mỗi cuộc cải cách mới là sự báo hiệu rằng hệ thống giáo dục cũ, chương
trình cũ… đã lỗi thời, lạc hậu, khơng cịn đủ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Vì vậy, tuỳ tình hình của mỗi nước mà cuộc cải c ách có thể được tiến hành cục
bộ tồn phần”.
Cải cách giáo dục là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học
Mác-Lênin. Cùng với sự vận động phát triển khơng ngừng của xã hội thì Cải
cách giáo dục cũng phải ln ln đổi mới để thích nghi và đáp ứng tốt hơn nữa
những yêu cầu về hệ thống giáo dục trong xã hội mới. Do đó, cải c ách giáo dục
là một quá trình tất yếu và khơng ngừng, địi hỏi phải có sự nghiên cứu về giáo
dục trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể, biết phân tích
mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cần phải
thấy được các mối liên hệ, sự biến đổi của cải c ách giáo dục theo thời gian,
cũng như trong những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính
đặc trưng, tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng khơng cụ
thể.
Đây cũng chính là nguyên tắc của quan điểm lịch sử cụ thể.
Mặt khác, nền giáo dục ở một số quốc gia trên thế giới đã có những bước nhảy
vọt, vượt xa rất nhiều so với nền giáo dục hiện nay ở nước ta. Yêu cầu đặt ra ở
đây là cần phải áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình phân tích, chắt

lọc những thành tựu, ưu điểm của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, tìm
ra


những hướng đi phù hợp với nền giáo dục Việt Nam, từ đó vận dụng một
cách khéo léo các thành tựu đó vào cải cách giáo dục của nước nhà.
Chính vì vậy cần phải vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể vào quá trình nghiên
cứu cải cách giáo dục tại Việt Nam.


PHẦN II
QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH GIÁO DỤC TẠI VIỆT NAM
THEO QUAN ĐI ỂM LỊCH SỬ - CỤ THỂ
I. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng tới quá trình cải cách giáo dục tại Việt
Nam:
1. Bối cảnh quốc tế
Cuộc cách mạng Khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, làm nền tảng
cho sự phát triển kinh tế tri thức. Tốc độ và trình độ đổi mới và ứng dụng tri thức
quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Khoa học - công nghệ trở thành động
lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển của khoa học công
nghệ đã làm thay đổi mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục trong các nhà
trường, đồng thời đòi hỏi giáo dục phải cung cấp được nguồn nhân lực có trình
độ cao.
Tồn cầu hố và hội nhập quốc tế vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là
quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ quyền lợi quốc gia.
Cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi các
nước phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, đặt ra vị trí mới của
giáo dục. Các nước đều xem phát triển giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, dành cho giáo dục những đầu tư ưu tiên, đẩy mạnh
cải cách giáo dục nhằm giành ưu thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Q trình

tồn cầu hóa cũng chứa đựng nguy cơ chảy máu chất xám ở các nước đang phát
triển khi mà các nhân lực ưu tú có nhiều khả năng bị thu hút sang các nước giàu
có. Giáo dục trong thế kỷ XXI phải thực hiện được sứ mệnh nhân văn hóa, tiến
trình tồn cầu hóa, biến tồn cầu hóa thành điều có ý nghĩa đối với từng con
người với tất cả các quốc gia. Giáo dục đóng vai trị quan trọng trong việc chuẩn
bị nguồn nhân lực có chất lượng của mỗi đất nước và tạo cơ hội học tập cho
mỗi người dân. Giáo dục suốt đời trở thành đòi hỏi và cam kết của mỗi quốc gia.
Hệ thống giáo dục, chương trình và phương pháp giáo dục của các quốc gia tiếp
tục được thay đổi nhằm xóa bỏ mọi ngăn cách trong các nhà trường, cung cấp
các tri thức hiện đại, đáp ứng được yêu cầu mới phát sinh của nền kinh tế. Thời
đại cũng đang chứng kiến vị thế nổi bật của giáo dục đại học. Hầu hết các
trường
đại học trên thế giới đang tiến hành những cải cách toàn diện để trở thành những
trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất, chuyển giao công nghệ và
xuất khẩu tri thức.


Công nghệ thông tin và truyền thông được ứng dụng trên quy mô rộng lớn ở mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong giáo dục. Với việc kết nối mạng, các
công nghệ, tri thức không chỉ tồn tại ở các địa điểm xa xôi, cách trở và khó tiếp
cận hoặc chỉ giới hạn với một số ít người. Giáo dục từ xa đã trở thành một thế
mạnh của thời đại, tạo nên một nền giáo dục mở, phi khoảng cách, thích ứng với
nhu cầu của từng người học. Đây là hình thức giáo dục ở mọi lúc, mọi nơi và cho
mọi người, trở thành giải pháp hiệu quả nhất để đáp ứng các yêu cầu ngày càng
tăng về giáo dục. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông, mạng viễn
thông, công nghệ tin học tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hoá, nhưng
cũng tạo điều kiện cho sự du nhập những giá trị xa lạ ở mỗi quốc gia. Đang diễn
ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, ngăn chặn những
yếu tố ảnh hưởng đến an ninh của mỗi nước.
2. Bối cảnh trong nước

Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước đang bước vào thời kỳ phát triển mạnh với vị
thế và diện mạo mới. Kinh tế Việt Nam liên tục phát triển; an ninh, quốc phịng
được giữ vững. Thu nhập bình qn theo đầu người trong 10 năm qua tăng liên
tục từ 415 USD năm 2001 đã lên đến 1300 USD năm 2011. Cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch theo hướng tăng cường công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản trong GDP ngày càng giảm; tỷ trọng công nghiệp và dịch
vụ ngày càng tăng. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo
giảm đáng kể, còn khoảng 12% vào năm 2011. Việt Nam đang tích cực tham gia
vào q trình hội nhập quốc tế với nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao, với mơi
trường chính trị ổn định và mức sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng được
cải thiện. Việc chủ động tích cực hội nhập quốc tế, và gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) tạo thêm nhiều thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã
hội của đất nước.
Mặc dù có những bước tăng trưởng đáng kể, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh
tế có mức thu nhập thấp. Các chỉ số về kết cấu hạ tầng, phát triển con người vẫn
ở thứ hạng dưới so với nhiều nước trên thế giới. Năng suất lao động còn thấp,
sản xuất chủ yếu vẫn dựa trên những cơng nghệ lạc hậu, sản phẩm ở dạng thơ,
chi phí cao, giá trị gia tăng thấp. Cơ cấu kinh tế có chuyển dịch nhưng cịn
chậm: tỷ trọng dịch vụ và cơng nghiệp trong GDP cịn thấp, tỷ trọng nơng
nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức khá cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Hoạt động kinh tế đối ngoại cịn hạn chế,
thiếu lộ trình chủ động hội nhập quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ


nghĩa cịn trong q trình hồn thiện, chưa đồng bộ. Hiệu lực quản lý nhà
nước đối với nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội còn thấp.
3. Cơ hội cho cơng cuộc cải cách giáo dục tại Việt Nam:
Q trình hội nhập với c ác trào lưu đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đang diễn
ra ở quy mơ tồn cầu tạo cơ hội thuận lợi cho nước ta có thể nhanh chóng tiếp

cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mơ hình giáo dục hiện đại, tận dụng
các kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển làm thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa nước ta với các nước khác. Hợp tác quốc tế được mở rộng tạo điều
kiện tăng đầu tư của các nước, các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp nước
ngoài, tăng nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo, tạo thời cơ để phát triển
giáo dục. Sau hơn 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong phát triển
kinh tế xã hội, sự ổn định chính trị làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên
nhiều so với trước. Sự đóng góp về nguồn lực của nhà nước và nhân dân cho phát
triển giáo dục ngày càng được tăng cường.
Những người Việt Nam ở nước ngoài với nhiều tiềm năng đang hướng về tổ
quốc và dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
4. Thách thức cho công cuộc cải cách giáo dục tại Việt Nam:
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, cơng nghệ trên thế giới
có thể làm cho khoảng cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày
càng lớn hơn, nước ta có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn. Hội nhập quốc tế không chỉ
tạo cho giáo dục cơ hội phát triển mà còn chứa đựng nhiều hiểm họa, đặc biệt là
nguy cơ xâm nhập của những giá trị văn hóa và lối sống xa lạ làm xói mịn bản
sắc dân tộc. Khả năng xuất khẩu giáo dục kém chất lượng từ một số nước có thể
gây nhiều rủi ro lớn đối với giáo dục Việt Nam, khi mà năng lực quản lý của ta
đối với giáo dục xuyên quốc gia còn yếu, thiếu nhiều chính sách và giải pháp
thích hợp để định hướng và giám sát chặt chẽ các cơ sở giáo dục có yếu tố nước
ngồi.
Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách
giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền
ngày càng rõ rệt. Điều này có thể làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng trong
tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền và giữa các đối tượng người học.
Yêu cầu phát triển kinh tế trong thập niên tới khơng chỉ địi hỏi số lượng mà
cịn đòi hỏi chất lượng cao của nguồn nhân lực. Để tiếp tục tăng trưởng vượt
qua ngưỡng các nước có thu nhập thấp, Việt Nam phải cấu trúc lại nền kinh tế,
phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng công

nghệ cao.


Q trình này địi hỏi đất nước phải có đủ nhân lực có trình độ. Mặc dù xấp xỉ
63% dân số nước ta trong độ tuổi lao động, nhưng trình độ của lực lượng lao
động này còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, cả về kiến thức lẫn kỹ
năng nghề nghiệp. Đất nước cịn thiếu nhân lực trình độ cao ở nhiều lĩnh vực.
Cơ cấu đội ngũ lao động qua đào tạo chưa hợp lý. Nhu cầu nhân lực qua đào tạo
ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng với cơ cấu hợp lý tạo nên sức ép
rất lớn đối với giáo dục.
II. Thực trạng quá trình cải cách giáo dục tại Việt Nam hiện nay:
1. Qúa trình cải cách giáo dục tại Việt Nam:
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, chúng ta đã tiến hành 3 cuộc cải
cách giáo dục. Cuộc cải c ách giáo dục thứ nhất (năm 1950), nhằm xây dựng
nền giáo dục dân chủ nhân dân. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1956) phục
vụ cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước. Năm 1979, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương (khoá III) quyết
định tiến hành cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba, để xây dựng nền giáo dục
chuyển từ dân chủ nhân dân sang xã hội chủ nghĩa khi cả nước thống nhất.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất năm 1950:
Trong điều kiện đất nước Việt Nam vừa giành được độc lập lại phải đối phó với
nạn ngoại xâm, sau năm 1945 nhiệm vụ "chống giặc dốt" được đặt ngang hàng
với nhiệm vụ chống giặc đói và giặc ngoại xâm; c hính sách giáo dục khi đó là
tập trung xố nạn mù chữ, dùng tiếng Việt dạy và học ở tất cả c ác bậc học, xố
mọi tàn tích của chủ nghĩa thực dân trong nội dung giáo dục, tiếp tục duy trì và
phát triển giáo dục. Đến 1950 để phục vụ kháng chiến, xây dựng vùng tự do,
chuẩn bị kiến quốc, giáo dục thực hiện một cuộc cải cách (lần thứ nhất) nhằm
xây dựng một nền giáo dục dân chủ nhân dân với ba phương châm: dân tộc,
khoa học, đại chúng. Cải tổ hệ thống giáo dục thành hệ thống giáo dục phổ thơng
9 năm gọn, nhẹ phù hợp (thay vì 12 năm của chế độ cũ) với điều kiện của đất

nước lúc đó là dựa vào sức dân.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai năm 1956:
Sau khi Miền Bắc được giải phóng, từ 1956, Việt Nam tiến hành CCGD (lần thứ
hai) nhằm phát triển mạnh mẽ quy mô giáo dục, xây dựng một nền giáo dục
phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược (xây dựng Miền Bắc, thống nhất nước nhà).
Giáo
dục được phát triển mạnh, hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng hồn
chỉnh, trong đó, hệ giáo dục phổ thơng được cải tổ lại thành hệ 10 năm, hệ giáo


dục đại học và trung học chuyên nghiệp cũng mở rộng phục vụ cho kiến thiết
đất


nước, đặc biệt mạng lưới các trường sư phạm mở rộng nhanh; nội dung và
phương pháp giáo dục được cải tiến theo phương hướng cơ bản, hiện đại,
Việt Nam. Việc phát triển giáo dục vẫn phải dựa vào sức dân, chế độ giáo viên
dân lập có từ trước vẫn tồn tại một thời gian dài.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba năm 1979:
Trong khi thực hiện những nhiệm vụ khẩn cấp trước mắt đối với giáo dục miền
Nam và tiếp tục phát triển giáo dục ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ cũng khẩn
trương chuẩn bị cho một cuộc cải cách giáo dục nhằm tiến tới một nền giáo
dục quốc dân thống nhất phù hợp với chiến lược tái thiết và phát triển đất
nước.
Ngày 11-1-1979, Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số
14-NQ/TW về cải c ách giáo dục, theo đó, những định hướng có tính nguyên
tắc cho cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba này là:
Về m ục tiêu giáo dục: Chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ từ tuổi ấu thơ cho đến lúc
trưởng thành nhằm tạo cơ sở ban đầu cho con người phát triển toàn diện; thực
hiện phổ cập giáo dục toàn dân nhằm tạo điều kiện thực hiện 3 cuộc cách mạng

(về quan hệ sản xuất, về khoa học - kỹ thuật và về văn hoá - tư tưởng); đào tạo
và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động phù hợp yêu cầu
phân công lao động xã hội.
Về nội dung giáo dục: Hướng vào việc “Nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện
[đức, trí, thể, mỹ], tạo ra những lớp người lao động mới làm chủ tập thể, đủ sức
gánh vác sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân …”
Về nguyên lý giáo dục: Yêu cầu học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động, nhà trường gắn liền với xã hội.
Về hệ thống giáo dục: Thay thế hệ thống phổ thông 12 năm ở miền Nam và hệ
thống 10 năm ở miền Bắc bằng một hệ thống giáo dục phổ thơng 12 năm mới,
trong đó, trường cấp I và trường cấp II được sáp nhập thành trường phổ thông
cơ sở (chín năm), đồng thời chuẩn bị phân ban ở trung học phổ thông. Nhiều
trường đại học chuyên ngành được xây dựng và phát triển.
Cuộc cải cách giáo dục lần này được triển khai bắt đầu từ năm học 1981-1982.
Việc thay sách giáo khoa ở các cấp học phổ thông, một nhiệm vụ quan trọng
nhất của cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba, đã hoàn thành vào năm 1996, tạo ra
sự thống nhất về giáo dục phổ thông trong cả nước. Riêng về nội dung giáo
dục, so với các chương trình giảng dạy và học tập trước đó, chương trình cải c
ách mang nhiều yếu tố hiện đại hơn, do đó tạo ra tiền đề chất lượng giáo dục có
thể đạt tới trình độ cao hơn trước.


Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nền giáo dục nước nhà vẫn bộc lộ những
bất cập bị xã hội phê phán từ nhiều phía, giáo dục chưa tìm được sự đồng thuận
chẳng những đối với các cấp chính quyền mà còn cả người dân nữa. Ngành giáo
dục đã, đang cố gắng tìm mọi cách để sửa chữa những yếu kém, bất cập. Nhưng
khi sửa chữa, lại không tránh khỏi những lúng túng, chưa tìm được căn bệnh
chính, chưa điểm đúng huyệt. Theo chúng tơi, những căn bệnh chính cần chữa là
nằm trong tổng thể của hệ thống giáo dục. Hệ thống giáo dục ví như một ngơi
nhà, khi ngơi nhà đang bị xiêu vẹo, mái nhà đang dột nát thì mọi trang trí nội thất

đều trở nên vơ nghĩa. Do vậy, việc trước tiên cần làm ngay là tiến hành cải c ách
giáo dục lần thứ tư.
2. Đánh giá tình hình giáo dục tại Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ
XXI.
Những thành tựu đạt được:
Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được phát triển, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu học tập của xã hội. Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp
trong toàn quốc. Về cơ bản đã xóa được "xã trắng" về giáo dục mầm non;
trường tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường trung học cơ sở có ở xã hoặc cụm
liên xã, trường trung học phổ thơng có ở tất cả các huyện. Các cơ sở đào tạo
nghề, cao đẳng và đại học được thành lập ở hầu hết các địa bàn dân cư lớn, các
vùng, các địa phương, đặc biệt ở vùng chậm phát triển như Tây Bắc, Tây
Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi đã có
trường nội trú và bán trú cho con em các dân tộc thiểu số.
Hiện nay, cả nước có trên 9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700
trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và huyện, 1.300 trung tâm tin học,
nhiều trường đại học triển khai các chương trình đào tạo từ xa. Ngồi ra, có
nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ có yếu tố nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Một xã hội học
tập đã hình thành rõ nét ở Việt Nam.
Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có tiến bộ. Nội dung
dạy học và kiến thức của học sinh phổ thơng đã tồn diện hơn. Trình độ hiểu
biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được
nâng cao. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có hồi bão lập thân,
lập nghiệp và có tinh thần tự lập và đại bộ phận đã có việc làm. Chất lượng đào
tạo của một số ngành đào tạo khoa học và công nghệ đã được nâng cao một
bước.


Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được cơng nhận chuẩn quốc gia về

xố mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ
sở. Hiện nay, đã có 50/63 tỉnh, thành phố (79%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi; 55/63 tỉnh (87%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ của cả nước là 95%; số năm học trung
bình của dân số từ 15 tuổi trở lên là 9,6. Sự khác biệt về trình độ học vấn giữa
nam và nữ ngày càng được thu hẹp. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng
nam nữ trong giáo dục cơ bản.
Cơng tác xã hội hoá giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo dục đã đạt
được những kết quả bước đầu. Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực
vào việc huy động trẻ đến trường, giám sát, đánh giá và hiến kế cho giáo dục,
xây dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho
giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau.
Cơng bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, Đặc biệt tăng cơ hội học
tập cho trẻ em gái, trẻ em người dân tộc, con em các gia đình nghèo và trẻ em
khuyết tật. Việc miễn, giảm học phí, cấp học bổng và các chính sách hỗ trợ khác
đã tạo điều kiện cho đại bộ phận con em c ác gia đình nghèo, diện chính sách
được học tập, trước hết ở các cấp học phổ cập. 53% số học sinh sinh viên cả
nước được miễn giảm học phí.
Cơng tác quản lý giáo dục đã có nhiều chuyển biến. Cơng tác quản lý
chất lượng đã được chú trọng với việc tăng cường hệ thống đánh giá và kiểm
định chất lượng.
Những thành tựu của giáo dục nước ta đã khẳng định vai trò quan trọng
của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước. Những thành tựu của giáo dục đã và đang góp phần quan trọng vào
sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20
năm đổi mới, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc
tế.
Một số hạn chế:
Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu tính liên thơng
giữa các cấp học và các trình độ đào tạo, trong đó giáo dục nghề nghiệp chưa

được quan tâm đúng mức. Cách thức tổ chức phân luồng trong hệ thống giáo
dục còn thể hiện nhiều lúng túng. Tình trạng mất cân đối giữa cơ cấu trình độ, cơ
cấu ngành nghề đào tạo chậm được khắc phục, chưa đáp ứng được yêu cầu nhân
lực của xã hội.


Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời
kỳ mới. Sự phát triển quy mô giáo dục ở các cấp học, ngành nghề và trình độ
đào tạo trong những năm qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân,
nhưng chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và cịn thấp so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và
trên thế giới. Trong giáo dục chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số
lượng với nâng cao chất lượng. Trong nhiều năm gần đây, quy mô giáo dục đại
học phát triển, số lượng các trường cao đẳng, đại học tăng mạnh trong khi các
điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất - kỹ thuật nhà trường chưa phát
triển đủ để đảm bảo được chất lượng đào tạo của các cơ sở này.
Nội dung, phương pháp giáo dục từ mầm non đến phổ thơng đã được đổi
mới nhưng cịn bộc lộ nhiều hạn chế; chương trình giáo dục đại học chậm đổi
mới, chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Cịn có những nội dung trong
chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo khơng thiết thực, nặng
về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa gắn với yêu cầu xã hội, chưa phù hợp với
nhu cầu và khả năng học tập của mọi đối tượng học sinh. Phương pháp dạy học
về cơ bản vẫn theo lối truyền thụ một chiều, địi hỏi người học phải ghi nhớ máy
móc, không phát huy được tư duy phê phán, tư duy sáng tạo và tinh thần tự học
ở người học.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm
vụ giáo dục trong thời kỳ mới. Còn thiếu quy hoạch tổng thể đào tạo đội ngũ
nhà giáo từ mầm non đến đại học dẫn đến tình trạng đội ngũ nhà giáo vừa thừa,
vừa thiếu, vừa không đồng bộ về cơ cấu. Ở các trường cao đẳng, đại học, số
giảng viên có trình độ thạc sỹ và tiến sỹ cịn q ít. Phương thức đào tạo trong

các nhà trường sư phạm chậm đổi mới, chất lượng đào tạo cịn thấp dẫn đến tình
trạng trình độ chun mơn và nghiệp vụ của một bộ phận nhà giáo chưa đáp
ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng. Bên cạnh sự nỗ lực của tuyệt đại bộ
phận, một số nhà giáo cịn có biểu hiện vi phạm đạo đức lối sống, làm ảnh
hưởng xấu tới uy tín của người thầy trong xã hội. Cơng tác bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chun mơn nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo cịn thiếu hiệu quả. Các
chế độ chính sách đối với nhà giáo chưa thỏa đáng, chưa tạo được động lực
phấn đấu vươn lên trong bản thân mỗi người thầy.
Cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Mặc dù tình
hình cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường trong những năm gần đây đã có nhiều cải
thiện rõ rệt nhưng tính đến năm 2007 vẫn cịn 11% số lớp học ở tình trạng lớp
học tạm, phịng học cấp 4 cũ nát, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; thư viện, phịng
thí


nghiệm, phịng học bộ mơn và các phương tiện dạy học còn thiếu và lạc
hậu, nhất là ở các trường đại học.


PHẦN III
MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP TRONG Q UÁ
TRÌNH CẢI CÁCH GIÁO DỤC TẠI VIỆT NAM
I. Nguyên nhân:
1. Nguyên nhân của những thành tựu:
Sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ và chính quyền các
cấp, sự quan tâm, tham gia đóng góp của các tổ chức kinh tế-xã hội và toàn dân
đối với giáo dục đã góp phần quyết định cho sự thành cơng của sự nghiệp giáo
dục.
Sự ổn định chính trị, những thành quả phát triển kinh tế, cải thiện đời
sống nhân dân của thời kỳ đổi mới đã tạo môi trường với các điều kiện thuận lợi

cho phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo dục trong tổng chi ngân sách nhà nước
đã liên tục tăng qua các năm.
Lòng yêu nước, yêu người, yêu nghề, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và
quyết tâm đổi mới của ngành giáo dục đào tạo đã góp phần quan trọng thực
hiện nhiệm vụ giáo dục. Các giáo viên và cản bộ quản lý công tác ở mọi miền
tổ quốc, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua mọi khó khăn, thử
thách to lớn, đóng góp cơng sức vào sự nghiệp trồng người.
Truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy mạnh mẽ, thể hiện
trong từng gia đình, từng dòng họ, từng cộng đồng dân cư. Nhân dân đã khơng
tiếc cơng sức, tiền của đầu tư và khuyến khích động viên con em vượt khó,
chăm chỉ học tập, hỗ trợ và tạo điều kiện dạy tốt, học tốt cho các nhà trường.
2. Nguyên nhân của những hạn chế:
Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa thực sự được quán triệt
đúng mức ở các cấp quản lý và chỉ đạo giáo dục. Trong nhiều năm qua Đảng ta
đã luôn luôn nhấn mạnh quan điểm “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá trình phát triển”. Tuy
nhiên trong thực tiễn, quan điểm này chưa được hiểu một cách đầy đủ để triển
khai một cách thực sự hiệu quả ở mọi lĩnh vực. Nhiều bộ, ngành, địa phương
chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của giáo dục, chưa thấy hết trách nhiệm đối với
giáo dục nên chưa dành ưu tiên thỏa đáng tạo điều kiện phát triển giáo dục. Một
số địa phương còn sử dụng ngân sách giáo dục vào những hoạt động khơng
phục vụ mục đích giáo dục.
Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong
khi tình hình kinh tế xã hội trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc và trên thế
giới đang


diễn ra nhiều xu thế đổi mới giáo dục mạnh mẽ thì nhiều tư tưởng chỉ đạo giáo
dục ở nước ta vẫn cịn xơ cứng, trì trệ. Chưa nhận thức đúng mức sự cần thiết

phải tập trung quản lý nhà nước đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
Nhận thức về những tác động của nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ nên chưa
tạo được sự phù hợp của cơ chế quản lý giáo dục với cơ chế thị trường. Tư tưởng
trọng bằng cấp dẫn đến những thành tích giả tạo trong giáo dục. Ở đại học, các
nhà trường thường chỉ dạy những cái mình có mà chưa quan tâm đến nhu cầu
của xã hội. Ở phổ thông, quan niệm đề cao kiến thức, coi nhẹ năng lực hoạt
động của học sinh đã dẫn đến tình trạng cịn tổ chức nhiều mơn học trong
chương trình giáo dục, phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là truyền thụ một
chiều, chưa tạo được niềm vui học tập cho người học.
Cơng tác quản lý giáo dục cịn nhiều bất cập, quản lý nhà nước của Bộ
Giáo dục và Đào tạo cịn nặng tính quan liêu bao cấp, vẫn cịn tình trạng ôm
đồm, sự vụ, làm hạn chế quyền chủ động, sáng tạo và ý thức trách nhiệm của
các đơn vị cơ sở. Hệ thống luật pháp và các chính sách về giáo dục chưa hoàn
chỉnh. Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục giữa Bộ Giáo
dục và Đào tạo với các bộ ngành khác đã làm cho việc quản lý nhà nước đối với
hệ thống giáo dục chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất. Việc tách rời quản lý
nhà nước về chuyên môn với quản lý nhân sự, tài chính đã làm giảm tính thống
nhất trong chỉ đạo, điều hành đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân và làm
cho bộ máy quản lý giáo dục trở nên cồng kềnh, nặng nề. Năng lực của các cơ
quan quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ quản lý trong tình hình mới.
Chính sách huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho giáo dục chưa
hợp lý, chưa quan tâm đúng mức đến các địa phương khó khăn. Đầu tư của nhà
nước cho giáo dục còn thiếu hiệu quả, chưa tập trung cao cho những mục tiêu ưu
tiên. Cơ cấu chi ngân sách giáo dục chưa hợp lý, trong đó phần chi cho hoạt
động chuyên môn là không đáng kể.
Những tác động khách quan làm tăng thêm những yếu kém bất cập của
giáo dục. Quá trình hội nhập quốc tế đã mang tới những cơ hội lớn nhưng cũng
mang đến nhiều thách thức lớn đối với giáo dục. Trong xã hội, chủ nghĩa hình
thức, hám danh vọng cịn nặng nề; tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối mạnh
việc dạy, học và thi cử. Mặt trái của kinh tế thị trường đã có nhiều ảnh hưởng

tiêu cực đến giáo dục. Nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao trong khi
khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát triển kinh tế của đất
nước


cịn hạn chế. Sức đón nhận của thị trường lao động còn hạn hẹp, chưa đáp ứng
nhu cầu việc làm của người lao động đã qua đào tạo.
II. Một số giải pháp:
1. Đổi mới quản lý giáo dục
Thực hiện công khai hoá về chất lượng giáo dục, nguồn lực cho giáo dục
và tài chính của các cơ sở giáo dục, thực hiện giám sát xã hội đối với chất lượng
và hiệu quả giáo dục.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thơng nhằm “tin học
hóa” quản lý giáo dục ở các cấp.
2. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Tiến tới thực hiện chế độ hợp đồng thay cho biên chế trong quá trình
tuyển dụng và sử dụng các giáo viên, giảng viên và các viên chức khác để tạo
sự cạnh tranh lành mạnh và ý thức phấn đấu trong đội ngũ nhà giáo
Có chính sách học bổng đặc biệt để thu hút các học sinh giỏi vào học tại
các trường sư phạm. Thực hiện đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo sư phạm, từ
mơ hình đào tạo tới nội dung và phương pháp đào tạo nhằm đào tạo đội ngũ giáo
viên vững vàng về kiến thức khoa học cơ bản và kỹ năng sư phạm.
Có chính sách khuyến khích thực sự đối với đội ngũ nhà giáo thông qua
chế độ đãi ngộ xứng đáng. Rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục; xây dựng lực lượng cán bộ quản lý tận tâm, thạo việc, có năng lực điều
hành; xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý phù hợp với
yêu cầu đổi mới giáo dục; có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ
quản lý.
3. Tái cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân và mở rộng mạng lưới cơ sở
giáo dục

Quy hoạch lại mạng lưới các trường cao đẳng, đại học trên phạm vi toàn
quốc và từng vùng kinh tế, đáp ứng nhu cầu nhân lực về quy mô và cơ cấu
ngành nghề đào tạo, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Hình thành hệ thống nhà công vụ cho giáo viên ở tất cả c ác tỉnh có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn; Xây dựng hệ thống kí túc xá, nhà ở cho sinh viên
thuê đạt chuẩn đối với tất cả các cơ sở đào tạo.
4. Đổi mới chương trình và tài liệu giáo dục
Dựa trên chương trình chuẩn quốc gia, xây dựng các chương trình giáo
dục địa phương phù hợp với nhu cầu và điều kiện tổ chức giáo dục của các
vùng, miền, đặc biệt đối với các địa phương có học sinh dân tộc thiểu số.


Các bộ sách sẽ do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức thẩm định và trao
quyền lựa chọn sử dụng cho c ác địa phương. Đồng thời, tiếp tục biên soạn các
tài liệu hướng dẫn giáo viên, tài liệu tham khảo, đặc biệt chú trọng đến các tài
liệu nghe-nhìn, hỗ trợ việc dạy và học.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, đẩy mạnh việc áp dụng các chương trình
đào tạo tiên tiến của các cơ sở giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp có uy tín trên thế
giới.
Phát triển các chương trình đào tạo trình độ đại học theo 2 hướng:
nghiên cứu phát triển và nghề nghiệp ứng dụng.
Thực hiện các chương trình đổi mới về dạy học các mơn học ngoại ngữ
trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là chương trình nâng cao hiệu quả
dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Đảm bảo học sinh được học liên tục một
ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh từ lớp 3 cho tới giáo dục nghề nghiệp, đại học
và đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế.
5. Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập, kiểm
định và đánh giá các cơ sở giáo dục
Thực hiện cuộc vận động toàn ngành đổi mới phương pháp dạy học

theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học,
biến quá trình học tập thành q trình tự học có hướng dẫn và quản lý của giáo
viên. giáo viên và giảng viên đánh giá cán bộ quản lý nhà trường.
Xây dựng một số trung tâm đánh giá kỹ năng nghề, cơng nhận trình độ của
người học, tạo điều kiện cho người lao động được học tập suốt đời và di chuyển
trong thị trường việc làm.
Xây dựng hệ thống tổ chức kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục.
Triển khai kiểm định các cơ sở giáo dục cơng lập và ngồi cơng lập, cơng bố
công khai kết quả kiểm định.
Tổ chức xếp hạng các cơ sở giáo dục đào tạo và công bố công khai kết quả
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
6. Xã hội hóa giáo dục
Thể chế hóa vai trị, trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân và
gia đình trong việc giám sát và đánh giá giáo dục, phối hợp với nhà trường thực
hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an tồn.
Khen thưởng, tơn vinh c ác nhà hảo tâm, doanh nghiệp đã đóng góp xuất
sắc cho sự nghiệp giáo dục. Khuyến khích và bảo hộ c ác quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ
chức,


cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Khuyến khích và tạo điều kiện cho
việc mở các trường đại học chất lượng cao, 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam.
7. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho giáo dục
Hoàn thành việc xây dựng chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất kỹ thuật
cho tất cả các loại hình trường nhằm đảm bảo những điều kiện vật chất cơ bản
thực hiện việc đổi mới quá trình dạy học. Trong đó, chú trọng đến chuẩn hóa
phịng học, phịng thí nghiệm, phịng học bộ mơn và trang thiết bị dạy học ở
các cấp học, đặc biệt là đồ chơi an toàn cho trẻ em.
Quy hoạch lại quỹ đất để xây dựng mới trường học hoặc mở rộng diện

tích đất cho các trường học đạt tiêu chuẩn nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục,
trong đó ưu tiên đầu tư quỹ đất để xây dựng một số khu đại học tập trung.
8. Gắn đào tạo với nhu cầu xã hội
Tập trung đầu tư xây dựng một số trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu
nhân lực nhằm cung cấp số liệu và cơ sở khoa học cho việc hướng nghiệp, xây
dựng chương trình, lập kế hoạch đào tạo nghề nghiệp. Nhằm thực hiện có hiệu
quả việc cung cấp nhân lực trực tiếp cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các
doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện chương trình đào
tạo, quy định trách nhiệm và cơ chế phù hợp để mở rộng các hình thức hợp tác
giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, sử dụng nhân lực và nghiên
cứu chuyển giao công nghệ, khuyến khích mở các cơ sở giáo dục đại học trong
các doanh nghiệp lớn.

9. Hỗ trợ giáo dục đối với các vùng miền và người học được ưu tiên
Hoàn thiện và thực hiện cơ chế học bổng, học phí, tín dụng cho học
sinh, sinh viên vùng miền núi và thuộc diện chính sách xã hội; cấp học bổng
cho các học sinh, sinh viên đạt thành tích xuất sắc trong học tập, nghiên cứu.
Bảo đảm đủ nhà cơng vụ, có c hính sách thoả đáng thu hút giáo viên cho
vùng núi, vùng khó khăn. Có chính sách hỗ trợ đặc biệt cho người khuyết tật
học tập. Cung cấp sách giáo khoa và học phẩm miễn phí, hoặc giảm giá bán
sách giáo khoa cho học sinh có hồn cảnh đặc biệt khó khăn hoặc sinh hoạt và
học tập tại các vùng cao, vùng sâu vùng xa.
Triển khai mạnh các chương trình đào tạo nghề cho nông dân để tham gia
hội nhập kinh tế. Thực hiện chính sách ưu tiên trong tuyển sinh, đào tạo đối với
học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số.


10. Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở
đào tạo và nghiên cứu
Tăng cường gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với nhu cầu xã hội thơng

qua việc hình thành các liên kết giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học với c
ác doanh nghiệp. Tập trung đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học mũi nhọn.
11. Xây dựng các cơ sở giáo dục tiên tiến
Triển khai phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” để tạo môi trường giáo dục lành mạnh, mang niềm vui học tập đến cho
mọi trẻ em và lôi cuốn xã hội tham gia vào quá trình giáo dục.
Tất cả các tỉnh, thành phố phát triển các trường chuyên là môi trường bồi
dưỡng nhân tài trẻ tuổi cho các địa phương. Xây dựng một số cơ sở giáo dục
nghề nghiệp có chất lượng cao để đào tạo nhân lực đạt chuẩn quốc tế cho một
số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất nước.


KẾT LUẬN
Những thành tựu của giáo dục nước ta đã khẳng định vai trò quan trọng của giáo
dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Nhờ những thành tựu của giáo dục và các lĩnh vực xã hội khác mà chỉ số
phát triển con người (HDI) của nước ta theo bảng xếp loại của Chương trình phát
triển Liên hiệp quốc trong những năm gần đây có những tiến bộ đáng kể: từ
0,528 vào năm 2000 đã tăng lên 0,590 vào năm 2010. Những thành tựu của giáo
dục đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững
an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới, tạo điều kiện cho đất
nước tham gia vào q trình hội nhập quốc tế. Cơng cuộc cải cách giáo dục sẽ
còn tiếp diễn liên tục nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng khắt khe của tiến
trình hội nhập. Việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể của Triết học Mác Lênin vào quá trình cải c ách giáo dục là hướng đi đúng đắn để có được thành
quả tốt nhất nhằm mục tiêu cuối cùng là cung cấp nguồn lực chất lượng cao
phát triển kinh tế xã hội nước nhà.
Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn Giáo viên hướng dẫn PGS.TS.
Hồng - Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân đã tạo điều kiện, giúp đỡ chúng em hoàn
thành Bài thảo luận nhóm này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!




×