Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Những tư tưởng cơ bản trong triết lý nhân sinh của phật giáo nguyên thủy và ý nghĩa lịch sử của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.66 KB, 20 trang )

GV: TS Bùi Xuân Thanh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

----

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI:
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRONG TRIẾT LÝ NHÂN SINH
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ

GIẢNG VIÊN: TS. Bùi Xuân Thanh
SINH VIÊN

: Nguyễn Ngọc Quốc Việt

MSSV

:

LỚP

:

TPHCM
Tháng 12 - 2012

1
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt




GV: TS Bùi Xuân Thanh
MỤC LỤC

.............................................................................................................................................. 1
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY ............. 4
1.1. Sự ra đời của Phật giáo ............................................................................................... 4
1.1.1.

Hoàn cảnh ra đời Phật giáo ở Ấn Độ ................................................................. 4

1.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca ...................................................... 5
1.1.3. Phật giáo nguyên thủy và các tông phái Phật giáo ................................................. 6
1.2. Những tư tưởng cơ bản trong triết lý nhân sinh của Phật giáo nguyên thủy ................. 8
1.2.1. Tư tưởng nghiệp báo, tái sinh ............................................................................... 8
1.2.2. Triết lý Tứ Diệu Đế .............................................................................................. 8
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO NGUYÊN
THỦY.................................................................................................................................. 14
2.1. Lời tuyên ngôn chống lại sự bất cơng, bất bình đẳng trong xã hội ............................. 14
2.2. Giáo dục con người giác ngộ chân lý và đạt được hạnh phúc (giải thoát) .................. 15
2.3. Giáo dục đạo đức, hướng thiện cho con người và xây dựng tính nhân bản sâu sắc .... 16
2.3.1. Giáo dục đạo đức, hướng thiện cho con người .................................................... 16
2.3.2. Xây dựng tính nhân bản ...................................................................................... 16
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 19

2
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt



GV: TS Bùi Xuân Thanh

LỜI MỞ ĐẦU
Albert Einstein (1879 - 1955), nhà bác học nổi danh của thế kỷ thứ 20 đã từng phát biểu:
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá
nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học. Bao trùm cả tự nhiên và tâm linh, nó phải được
ăn cứ trên cảm nhận phát sinh từ kinh nghiệm của tất cả mọi thứ tự nhiên và tâm linh như một
sự hợp nhất đầy đủ ý nghĩa. Đạo Phật trả lời cho những sự mơ tả này. Nếu có một tơn giáo mà
có thể đương đầu với những nhu cầu của khoa học hiện đại, đấy sẽ là Đạo Phật”. Ông vẫn hường
nhắc nhở các nhà khoa học nên học hỏi ở các tôn giáo để bổ sung cho những hiếm khuyết của
khoa học. Ơng nói: "Khoa học mà thiếu tơn giáo là khập khiễng. Tơn giáo mà khơng có khoa
học thì mù qng". Thật vậy, sự tiến bộ quá nhanh của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những khủng
hoảng xã hội, mất thăng bằng về sinh thái, về văn hóa, tâm lý, đạo đức Cho nên, tơn giáo với
cốt lõi là tình yêu, lòng từ bi và mong muốn hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp hơn, nhân
ái hơn sẽ là chỗ đứng cho khoa học. Không ai khác hơn, con người chính là cơ sở cho những
phát minh tốt đẹp của khoa học ra đời, để phục vụ và khoa học phải là “ngọn đuốc” để soi sáng
rõ cho tôn giáo khỏi những điều mù qng, mê tín; nếu khơng, thì những phát minh và thành
tựu khoa học ấy sẽ trở nên vơ nghĩa.
Phật giáo chính là một trường phái triết học – tôn giáo với hệ thống giáo lý đồ sộ, lâu đời,
ảnh hưởng sâu rộng và chứa đựng nhiều tư tưởng triết lý sâu sắc. Điểm nổi bật nhất trong triết
lý Phật giáo nguyên thủy chính là tư tưởng nhân sinh quan đầy tính nhân bản mà ở đó, con
người chính là trung tâm của lý luận Phật giáo. Tuy đã trải qua bao cuộc thăng trầm biến thiên
của lịch sử nhân loại, Phật giáo vẫn mãi là tiếng nói của tình thương và độ lượng. Qua mọi miền
xứ sở và thời đại khác nhau, Đạo Phật đã khéo léo thích ứng với từng nền văn hóa khác nhau.
Do vậy, để ngọn đèn chính pháp được mãi thắp sáng và lưu truyền trong nhân loại, chúng ta
phải biết sống cho tốt, phù hợp với đạo lý mà Phật đã dạy.

3
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt



GV: TS Bùi Xuân Thanh

CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
1.1. Sự ra đời của Phật giáo
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Phật giáo ở Ấn Độ
Về điều kiện thiên nhiên, Ấn Độ cổ đại là một vùng đất có điều kiện tự nhiên đa dạng. Đất
nước này vừa có dãy núi Hymalaya hùng vĩ án ngữ kéo dài trên hai ngàn km ở phía Bắc, vừa
có biển Ấn Độ Dương rộng mênh mơng; vừa có sơng Ấn chảy về phía Nam, lại có sơng Hằng
chảy về phía Tây. Vì thế, đất nước Ấn Độ bao gồm nhiều miền khí hậu khác biệt, từ những
vùng đồng bằng trù phú màu mỡ cho đến những vùng nóng ẩm mưa nhiều, vùng lạnh giá quanh
năm tuyết phủ, hay lại có những vùng sa mạc khơ cằn, nóng bức. Yếu tố địa lý đa dạng và khắc
nghiệt này chính là cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn giáo và triết học của người Ấn
Độ cổ đại.
Về kinh tế – xã hội, từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ Ấn Độ đã
phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và Sumerian đã có nền văn minh
khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người Aryan thâm nhập vào bán đảo Ấn Độ, dần dần
chuyển sang định cư và sống bằng nghề nông. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội của xã
hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mơ
hình “cơng xã nơng thơn”. Mơ hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước
của các đế vương, gắn liền với nó là sự bần cùng hố của người dân trong cơng xã, và quan hệ
giữa gia đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội được phân chia thành các
đẳng cấp. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý tộc, bình dân
tự do và tiện nơ (hay nơ lệ). Ngồi sự phân biệt đẳng cấp, xã hội Ấn Độ cổ đại cịn có sự phân
biệt về chủng tộc, dịng dõi, nghề nghiệp, tơn giáo. Chính sự phân chia đẳng cấp đó làm cho xã
hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong
xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học đã ra đời, trong đó có
Phật giáo.
Về văn hóa – khoa học, Ấn Độ cổ đại có một nền triết học phát triển từ rất sớm. Văn hoá Ấn

Độ cổ – trung đại được chia làm ba giai đoạn. Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn
minh sông Ấn, từ thế kỷ XV – VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa, đã cho ra đời bộ thánh kinh

4
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ hình thành các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm
hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và khơng chính thống. Thời kỳ này, tiêu chuẩn của
chính thống và khơng chính thống là có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay
không. Thời kỳ VI-I TCN là thời kỳ triết học Bàlamôn (1000-800 năm TCN) và panishad (800600 năm TCN).
Trong Upanishad đã đề cập đến nhiều vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự như mối quan hệ
giữa tinh thần vũ trụ (Brahman) và linh hồn cá thể (Atman), thuyết luân hồi, nghiệp nhân quả,
vấn đề giải thoát Những tư tưởng đó đã đặt nền móng vững chắc để cho các trào lưu tư tưởng
mới sau này phát triển. Thế giới quan thần thoại, chủ nghĩa duy tâm trong thánh kinh Vêđa,
Upanishad và đạo Bàlamôn thống trị đời sống tinh thần của xã hội Ấn Độ cổ đại. Về khoa học,
ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những thành tựu về khoa học tự nhiên như có
kiến thức phong phú về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, đã biết quả đất xoay trịn và tự xoay
quanh trục của nó, phát minh ra số thập phân, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, bằng cây thuốc…
Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội nói trên là cơ sở cho sự
nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời cổ, trung đại với các hình thức
phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ VI TCN với tư cách là một hệ tư
tưởng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội khắc nghiệt,
phủ nhận uy thế của kinh Vêđa, lý giải căn ngun nỗi khổ và tìm đường giải thốt cho con
người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nơ lệ Ấn Độ. Có thể nói rằng, ngay từ lúc
mới ra đời, đạo Phật với triết lý nhân sinh sâu sắc đã trở thành một trong những ngọn cờ tiên
phong của phong trào đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội Ấn Độ đương thời. Vì chống lại
sự ngự trị của đạo Bàlamơn đặc biệt là quan điểm của kinh Vêđa nên Phật giáo được xem là
dịng triết học khơng chính thống.


1.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca
Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất Đạt Đa (Siddhattha), họ là Cù
Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa là thái tử của vua Tịnh Phạn, một nước nhỏ
nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan). Ông sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 TCN, theo
truyền thống Phật lịch là ngày 15/04 (rằm tháng tư) còn gọi là ngày Phật Đản. Mặc dù ông được
sống trong cảnh cao sang quyền quý, dòng dõi đế vương, lại có vợ đẹp con ngoan nhưng trước

5
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự bất lực của con người trước khó khăn
của cuộc đời. Năm 29 tuổi, ơng quyết định từ bỏ con đường vương giả xuất gia tu đạo. Sau 6
năm tu hành, năm 35 tuổi, Tất Đạt Đa đã giác ngộ tìm ra chân lí “Tứ diệu đế” và “Thập nhị
nhân duyên”, tìm ra con đường giải thốt nỗi khổ cho chúng sinh. Từ đó ơng đi khắp nơi để
truyền bá tư tưởng của mình. Về sau, ông được suy tôn với nhiều danh hiệu khác nhau: Đức
Phật, Đức Thế Tơn, Thích Ca Mâu Ni, Thánh Thích Ca… trong dân gian thường gọi là Phật
hay Bụt.
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý Phật giáo khắp Ấn Độ. Ông qua đời ở
tuổi 80 và để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật giáo vơ cùng q báu. Với mục
đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức độ của con người,
Phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đơng đảo quần chúng lao động.
Nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc
Châu Á. Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm 5000 quyển, chia thành Tam tạng kinh (Tạng
kinh, Tạng luật và Tạng luận). Tam tạng lại chia làm hai loại là Đại thừa và Tiểu thừa. Tư tưởng
triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy được trình bày trong tạng Kinh, chủ yếu nói về thế
giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca.


1.1.3. Phật giáo nguyên thủy và các tông phái Phật giáo
Đạo Phật có một lịch sử phát triển thăng trầm trong suốt hơn 2500 năm và nó lan toả từ Ấn
Độ ra khắp nơi. Do đó, việc hình thành các bộ phái khác nhau có phương pháp tu học và cách
giải thích khác nhau về giáo lý cho thích hợp với tình hình của mỗi xã hội ở mỗi thời điểm là
chuyện tất yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo không hề thay đổi theo sự phân chia tông
phái này. Sự phân chia thành bộ phái rõ nét đã bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập kinh điển lần
thứ II (khoảng 100 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni mất). Lần phân chia đầu tiên là do sự bất
đồng về yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là những thay đổi lớn
lao nhưng đủ để gây ra sự tách biệt tăng đoàn thành Đại Chúng bộ (Mahàsamghika) mà đa số
là các tì kheo trẻ muốn thay đổi. Số cịn lại bảo thủ các giới luật nguyên thuỷ hình thành Thượng
Tọa bộ (Theravada).
Các cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và đa dạng hơn. Đại Chúng bộ có trung tâm hoạt
động tại Amgotara, thuộc vùng Trung Ấn. Các cuộc phân hoá này tất cả đều tách ra từ Đại

6
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
Chúng Bộ và hình thành tổng cộng thành 9 bộ phái trong đó quan trọng về mặt lý luận bao gồm:
Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê dận bộ, Đa văn bộ, Thuyết giả bộ, Chế
đa sơn bộ, Tây sơn trụ bộ và Bắc sơn trụ bộ. Sự thay đổi về điều kiện xã hội và địa lý và sự
phân hoá trong Đại Chúng bộ có thể là nguyên nhân gây ra sự chia phái của Thượng Tọa bộ
thành tổng cộng 11 bộ. Các phái có sự chuyển hố về lý luận bao gồm: Tuyết sơn bộ, Thuyết
nhất thiết hữu bộ, Độc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền vị bộ, Chánh lượng bộ, Mật lâm sơn bộ,
Hóa địa bộ, Pháp tạng bộ, Ẩm quang bộ và Kinh lượng bộ.
Các bộ phái chính ngày nay:
• Theravada: Theravada cịn gọi là Phật giáo ngun thuỷ hay Phật giáo Nam tông, tên quen
gọi là Phật giáo Tiểu thừa. Tơng phái này hình thành ngay trong thế kỷ đầu tiên sau khi Thích
Ca viên tịch. Chữ Theravada có nghĩa là “lời dạy của bậc trưởng thượng”, do đó nhiều sách cịn

gọi nhóm này là Trưởng Lão bộ. Trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ III, hội đồng tham gia kết
tập đã công nhận giáo pháp gọi là thuyết trưởng lão. Sau đó, con trai của vua Asoka (A Dục) là
Mahinda đã đem cả ba tạng kinh đến Tích Lan (Sri Lanka ngày nay). Ba tạng kinh đã được dịch
sang tiếng Pali và các tạng kinh này trở thành nguồn kinh sử dụng của Theravada cho đến ngày
nay.
• Mahayana: Mahayana có tên gọi khác là Phật giáo Đại thừa. Từ thế kỷ I TCN các tư tưởng
“đại thừa” đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ Mahayana, hay “đại thừa”, chỉ thực sự có khi nó
được đề cập trong bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nói chung, ý tưởng Mahayana là có xu hướng
rộng rãi và tự do hơn là các phép tắc ràng buộc của Theravada. Đến thế kỷ III, khái niệm
Mahayana mới được xác định rõ ràng qua bồ tát Long Thọ (Nagarjuna) trong Trung Luận (hay
Trung Qn Luận), chứng minh tính khơng của vạn vật. Các ý này đã được Long Thọ khai triển
dựa trên khái niệm “Vô ngã” và “Duyên sinh” đã có từ trong các kinh điển Pali.
• Vajrayana: Varayjana cịn có tên gọi là Tantra, Mật tơng hay Kim cương thừa. Tông phái
này xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI. Phái này chia sẻ chung nhiều tư tưởng với Đại thừa nhưng
có nhấn mạnh trong việc thực hành. Các truyền giảng được tập trung vào nhiều phương pháp
tu học thực nghiệm mãnh liệt để đẩy nhanh việc thăng tiến và có thể ngay trong cuộc sống hiện
tại sẽ đạt đuợc giác ngộ các thực nghiệm này thường được gọi là phương tiện. Nếu như Đại
thừa có nhiều tính chất thiên về triết lý, tư duy thì Mật tơng đi xa hơn về mặt thực

7
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
nghiệm và cũng thể hiện sự thích ứng linh hoạt của Phật giáo. • Tịnh Độ tông: Tịnh Độ Tông
xuất hiện vào giữa thế kỷ IV từ sự truyền bá của sư Huệ Viễn. Tư tưởng về Tịnh Độ thì có sẵn
trong Phật giáo Ấn Độ nhưng tới khi sang Trung Quốc thì nó phát triển thành một tông phái.
Tịnh Độ tông cũng đuợc xem là một nhánh của Đại thừa song tơng này khơng có sự truyền thừa
như các tông phái khác mà chỉ do sự đóng góp cơng sức để phát huy giáo lý Tịnh Độ. Nguyên
lý của tông phái dựa vào nguyện lực (tha lực) của Phật A Di Đà và sự nhất tâm niệm danh hiệu

Phật.
• Thiền tơng: Thiền tơng (Dhyana) cịn có các tên khác là ZEN, ch’an, tên cũ là Thiền na. Thiền
là một phương tiện căn bản đã được đạo Phật sử dụng ngay từ khởi thủy. Nhưng cho đến khi
thiền sư sơ tổ của môn phái thiền Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) du hành sang
Trung Quốc (năm 520) và truyền lại thì Thiền tơng bắt đầu trở thành một tông phái riêng biệt.
Đến đời thứ 6, sư Huệ Năng (Hui-neng) đã đưa Thiền tông phát triển và nó đã thịnh hành hơn
tất cả các tơng phái Phật giáo khác ở Trung Quốc. Huệ Năng cũng là người đã hủy bỏ thông tục
truyền thừa, nghĩa là khơng có sư tổ đời thứ 7 của Thiền Tơng, thay vào đó là hàng loạt các
thiền sư có khả năng mở thành các phái thiền khác dựa theo sự phân biệt về cung cách luyện
tập và cách để đưa thiền giả đến chỗ chứng ngộ chân lý.

1.2. Những tư tưởng cơ bản trong triết lý nhân sinh của Phật giáo nguyên thủy
Nói đến nhân sinh quan là nhắc đến những quan niệm của chúng ta về những định luật
diễn biến trong đời sống nhân loại và sự sống của con người.

1.2.1. Tư tưởng nghiệp báo, tái sinh
Nghiệp: chữ Phạn là Karma, bao gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp mà gốc rễ là do
tham dục
Nghiệp báo trong một đời
Luật nhân quả? Nghiệp cũng bị chi phối bởi luật nhân quả
Nghiệp và tái sinh không những chỉ là những khái niệm của triết học Phật giáo mà có từ trong
Upanishad.
1.2.2. Triết lý Tứ Diệu Đế
Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy, nó mang tính nhân

8
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh

bản sâu sắc nhưng cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan, bi quan yếm thế, khơng tưởng
về đời sống xã hội và thần bí về đời sống con người. Nhân sinh quan của Phật giáo nguyên thủy
tiếp tục kế thừa những tư tưởng truyền thống được hình thành từ trong thời kỳ Vêđa như tư
tưởng nhân quả, nghiệp báo, tái sinh – luân hồi… Tuy nhiên, tư tưởng nổi bật tạo nên cốt lõi
của quan niệm nhân sinh quan của Phật giáo nguyên thủy là thuyết Tứ diệu đế (Tứ thánh đế –
Catvary Arya Satya) với bốn bộ phận là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
• Khổ đế: Là luận điểm khái quát về thực trạng của đời người. Triết lý nhân sinh Phật giáo cho
rằng, bản chất cuộc đời con người là khổ: “Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên
tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và
nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển”. Đức Phật chỉ rõ: “Ba giới không chút nào n như
là lị lửa, nỗi khổ đầy rẫy trong đó, thật là đáng sợ” hay “ta thấy các chúng sinh đắm chìm trong
bể khổ” (Kinh Pháp Hoa). Chân lí về sự khổ trên thế gian, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang
tính chất khổ não, khơng trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận chân tướng
của cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Nỗi khổ thế gian là
khơn cùng, tuy nhiên có thể chia làm 8 nỗi khổ (bát khổ) trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng
phải gánh chịu: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ (yêu thương mà phải chia ly,
xa cách), sở cầu bất đắc khổ (muốn mà khơng đạt được), ốn tăng hội khổ (ghét nhau mà phải
sống với nhau), ngũ uẩn khổ (năm yếu tố vô thường nung nấu làm khổ – sắc, thụ, tưởng, hành,
thức).
Như vậy, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hoàn cảnh, sự
không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Khổ đế là một chân lý khách quan hiện thực. Khổ
hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân duyên được tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân
thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu
triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay
quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó. Đạo Phật cho rằng đời
là bể khổ, nỗi đau khổ là vơ tận, là tuyệt đối. Do đó, con người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc
đời là đau khổ khơng còn tồn tại nào khác. Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà
là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh
nhiều hơn nước biển”.
• Nhân đế (hay Tập đế): Lý luận về sự phát sinh, những nguyên nhân gây ra nỗi khổ nơi cuộc


9
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
sống con người. “Tập” là tụ hợp, kết tập lại. Phật giáo cho rằng con người cịn chìm đắm trong
bể khổ khi khơng thốt ra khỏi dịng sơng ln hồi. Mà ln hồi là do nghiệp tạo ra. Sở dĩ có
nghiệp là do lịng ham muốn, tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang…), do
sự ngu dốt và si mê, nói ngắn gọn là do Tam độc (tham, sân, si) gây ra. Nguyên nhân của khổ
là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả mãn được hoại
diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi. Ngồi ra, nhân đế được diễn giải một cách
lơgic và cụ thể trong thuyết Thập nhị nhân duyên (12 nguyên nhân dẫn đến bể khổ). Trong 12
nguyên nhân tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người thì vơ minh là ngun nhân thâu
tóm tất cả, vì vậy, diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.
1. Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, khơng sáng suốt. Khơng
hiểu được đời là bể khổ, khơng tìm ra ngun nhân và con đường thốt khổ. Trong mười hai
nhân dun, vơ minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh.
2. Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh – sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan cảm giác
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan cảm giác,
lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu hủy, đón nhận.
6. Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là sắc, thinh, hương
vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
7. Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với lục căn sinh ra
cảm giác.
8. Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động của thế giới bên
ngồi.

9. Dun thủ: do u thích quyến luyến, khơng chịu xa lìa, rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy hông
chịu buông ra.
10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già, ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân dun có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung đều cho rằng
chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái kia, cái này là quả của

10
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái
khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, cịn gọi là ngã chấp.
Mười hai nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân
loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõ bản
chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vơ thường và
chuyển biến, khơng có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Chúng ta có
thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay khơng là do lịng mình. Hay nói cách khác,
tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay khơng. Nếu khơng
bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong
tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
• Diệt đế: là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian để đạt tới niết
bàn. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt được để đạt tới trạng thái “niết bàn”.
Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ cũng được tận diệt. muốn diệt khổ phải
đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt trừ vơ minh. Dưới góc độ nhận thức, vơ minh có
nghĩa là “ngu tối”, “khơng sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân lý”. Vì vậy, mỗi chúng sinh phải tu
dưỡng thân tâm, đoạn trừ vô minh, để cho Phật tính bừng sáng, nó sẽ là ngọn đèn pha dẫn bước

chúng sinh đến cõi Niết bàn. Muốn diệ trừ vơ minh phải có trí tuệ vì: “Có trí tuệ thì hết đam
mê, ln ln tự thức tỉnh và tự dị xét, khơng để lầm lỗi có thể có được, trí tuệ chân thật là
chiếc thuyền chắc chắn nhất vượt bể sinh, lão, bệnh, tử. Là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám
vô minh … là búa sắt chặt cây phiền não”. Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến
mất, luân hồi sẽ chấm dứt… tâm sẽ thanh thản, thần sẽ minh mẫn, niết bàn sẽ xuất hiện. Theo
chữ Phạn, niết bàn gồm hai phần, “Nir” và “Vâna”. “Nir” là hình thức phủ định, nghĩa là
khơng, “Vâna” có nghĩa là ái dục. Cho nên, “đã diệt trừ lịng tham, đã diệt trừ nóng giận, ốn
thù, đã diệt trừ si mê, đó là niết bàn” (Kinh Tạp A Hàm) hay trong một đoạn kinh khác, Phật
lại nói “Dứt được lịng vị kỷ thì chứng được cảnh giới niết bàn”. Diệt đế bộc lộ tinh thần lạc
quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra cho mọi người thấy cái hiện tại đen tối, xấu xa của mình,
để cải đổi, kiến tạo lại nó thành một cuộc sống xán lạn, tốt đẹp hơn.
Vơ minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực tướng của vũ trụ
là con người, khơng cịn tham dục và kéo theo những hành động tạo nghiệp nữa, tức là thoát

11
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vơ minh, tham dục thì hoạt động ngũ
uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lịng tham ái, chấp thủ, thì những nỗi
lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc tĩnh táo hơn; lúc
đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng
nhờ vậy tâm trí khơng bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi
các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ hải mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, hả năng
nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ
ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng
giảm thiểu lịng tham, vơ minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc
đến mức độ ấy. Phật giáo thể hiện khát vọng nhân bản, muốn hướng con người đến cõi hạnh

phúc “tuyệt đối”, muốn hướng khát vọng chân chính của con người tới chân – thiện – mỹ.
• Ðạo đế: là lý luận về con đường diệt khổ, giải thốt. Thực chất của con đường này là hồn
thiện đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang ý nghĩa của sự thực hiện cá nhân, không mang ý
nghĩa của phong trào cách mạng hay cải cách xã hội. Nội dung cơ bản của nó thể hiện trong
thuyết Bát chính đạo (tám con đường đúng đắn) đưa chúng sinh đến niết bàn, đó là: chính kiến
(hiểu biết đúng), chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (lời nói chân thật), chính nghiệp (hành
động đúng đắn), chính mệnh (sống một cách chân chính), chính tinh tấn (thẳng tiến mục đích
đã chọn), chính niệm (ghi nhớ những điều hay lẽ phải), chính định (tập trung tư tưởng vào một
điều chính đáng). Chung quy, bát chính đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn…;
nhưng về thực chất, thực hành bát chính đạo là khắc phục tam độc bằng cách thực hiện tam học
(giới, định, tuệ).
Trong đó, tham được khắc phục bằng giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh); sân được
khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính niệm, chính định); si được khắc phục bằng tuệ (chính
kiến, chính tư duy). Đây là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải
thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có
thể thốt khỏi vịng sinh tử. Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ
niết bàn. Có 8 con đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”.
Bát chính đạo bao gồm:

12
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
1.Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lí
vơ ngã.
2.Chính tư duy: suy nghĩ ln có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lí
một cách khơng sai lầm.
3.Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, khơng nói dối hay nói phù phiếm.
4.Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, khơng làm việc xấu, nên làm việc

thiện.
5.Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh.
6.Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển nghiệp tốt, diệt
trừ nghiệp xấu.
7.Chính niệm: tâm niệm ln tin tưởng vững chắc vào sự giải thốt, ln tỉnh giác trên ba
phương diện Thân, Khẩu, Ý.
8.Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô ngã, vô thường,
tâm ý đạt bốn định xuất thế gian.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vơ minh, đạt tới sự giải
thốt, nhập vào niết bàn là trạng thái hồn tồn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người và xã hội. Chúng
bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (khơng dâm dục), bất vọng ngữ (khơng nói năng thơ
tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo (khơng trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo ngun thuỷ có tư tưởng vơ thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng biện
chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghỉ thiện và làm việc thiện nhằm góp
phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết lý nhân sinh và con đường giải phóng
của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan khơng tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư
tưởng xã hội phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ
cổ – trung đại và nêu lên ước vọng giải thoát nổi bi kịch cho con người lúc đó. Phật giáo cũng
nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội nhưng triết lý nhân sinh vẫn cịn mang nặng tính chất
bi quan khơng tưởng và duy tâm về xã hội. - Ngồi ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực
hành Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, khơng ẩm tửu),
Lục độ (bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ); rèn luyện Tứ đẳng (từ, bi, hỉ,
xả)… Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất cơng, địi bình đẳng cơng bằng xã
hội, khun chúng sinh ln suy nghĩ về điều thiện và làm điều thiện…

13
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt



GV: TS Bùi Xuân Thanh

CHƯƠNG II: Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO
NGUYÊN THỦY
Nếu như các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại như Milê, Êlê chủ yếu bàn về những vấn
đề thế giới quan, bản thể luận như đi tìm bản nguyên của thế giới, bản chất của thế giới, trạng
thái của thế giới… Còn những vấn đề về con người, họ lại bàn tương đối ít thì trái lại, ở Phật
giáo – một hệ thống triết học, tôn giáo – bên cạnh những tư tưởng, quan niệm về thế giới, vấn
đề nhân sinh quan không chỉ được đặt ra ngay từ đầu mà còn là nội dung tư tưởng chủ yếu bao
trùm lên toàn bộ hệ thống. Đây là một trong những đặc điểm cơ bản khác biệt của triết học
phương Đông so với phương Tây.

2.1. Lời tuyên ngôn chống lại sự bất cơng, bất bình đẳng trong xã hội
Chúng ta biết rằng Phật giáo đã ra đời trong một hồn cảnh vơ cùng phức tạp của một đất
nước mà trong đó, đời sống con người phải chịu nhiều bất công trong chế độ phân chia giai cấp
lâu đời của xã hội Ấn thời bấy giờ. Giai cấp Bà La Môn tập trung số người tu của 62 đạo phái
khác nhau, chủ trương công việc lễ nghi, tế tự; giai cấp này chiếm vị trí tối cao. Kế đến là giai
cấp Sát Ðế Lợi, tập trung dòng dõi vua chúa, là giai cấp nắm quyền điều hành xã hội. Giai cấp
thứ ba là Tỳ Xá, bao gồm những người bình dân. Ða phần còn lại thuộc giai cấp Thủ Ðà La, họ
làm những nghề hạ tiện, cũng gọi là dân nô lệ. Hai giai cấp Bà La Môn và Sát Ðế Lợi thuộc
giai cấp thống trị, Thủ Ðà La và Tỳ Xá thuộc giai cấp bị trị. Bốn giai cấp này theo chế độ thế
tập, cha truyền con nối.
Vì vậy, người dân nơ lệ thì cứ đời đời làm nơ lệ, tạo thành một xã hội bất cơng. Ngay trong
buổi hồng hơn tăm tối của một thực trạng như vậy, một hiền nhân thuộc dịng dõi vua chúa đã
dũng mãnh gióng tiếng chng tiên phong phá tan bóng đêm của xích xiềng nơ lệ và bức tường
phi lý của phân chia giai cấp bằng một châm ngơn vĩ đại: "Khơng có giai cấp trong dòng máu
cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn". Lời tuyên bố hùng hồn ấy của Ðức Phật là nền tảng để
hình thành một hệ thống giáo lý, mà trong đó tính bình đẳng được thể hiện trọn vẹn cả về
phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn. Theo Phật giáo, mọi sai biệt trên thế giới này đều tùy thuộc
vào các nhân duyên mà sinh khởi; cũng vậy, sự khác nhau về địa vị, hoàn cảnh giàu sang hay

nghèo khổ, ngu dốt hoặc thơng minh tất cả đều hồn toàn do hành vi tạo tác của mỗi con người

14
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
chứ không phải do tự nhiên hay được sắp đặt theo bất kỳ một thông lệ hoặc quy định nào. Trên
tinh thần này, sự phân chia giai cấp trở thành phi lý và vô nghĩa. Việc Thái tử Sĩ
Ðạt Ta từ bỏ ngôi vị đế vương, quay lưng với tất cả vinh hoa phú quý, khước từ mọi
đặc ân cao tột dành cho giai cấp vua chúa, một thân độc hành với chiếc áo thô sơ, đầu
trần chân đất, vân du đây đó đã thể hiện tinh thần bình đẳng tuyệt vời của Ngài. Và
cũng chính Ðức Phật, con người với đời sống giản dị khiêm tốn ấy, đã thể hiện lịng
bình đẳng trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sinh. Ngài rải tình thương vơ biên xuống
tất cả mn lồi một cách cơng bằng vơ phân biệt. Từ hạng người cùng đinh như gã
gánh phân, thợ cạo tóc cho đến những người giàu sang phú quý, từ những hạng người
thấp hèn ti tiện như gái giang hồ cho đến các bậc vua chúa quyền uy, Ðức Phật ln
thương u, chân tình giúp đỡ, khun dạy để họ nhận thức được chân giá trị của cuộc
sống và tự thăng hoa tâm hồn, đạt đến an lạc hạnh phúc. Lịng bình đẳng ấy khơng phải
dừng lại ở nhân loại mà lan tỏa đến mn lồi vạn vật. Ngài ln dạy rằng tất cả sinh
vật đều có cùng tâm lý tham sống sợ chết, vì vậy khơng vì lý do gì mà ta nỡ cướp đi
mạng sống của kẻ khác, như vậy nghĩa là khơng bình đẳng. Tâm trạng buồn nhớ mẹ
của một chú cừu non lạc đàn chẳng khác gì sự đau buồn của một người mẹ phải chia
lìa với con thơ bởi một nguyên nhân nào đó. Và vì vậy, sinh mạng của một con vật
cũng quý như bất kỳ sinh mạng của một ai. Với quan điểm này, trên bước đường du
hóa, có lần Ðức Phật đã tự tay bế một chú cừu non lạc đàn tìm về với mẹ. Và cũng
chính Ngài đã lên tiếng giải thích và vạch rõ những ngu xuẩn của bọn người vì mê tín
dị đoan, làm lễ tế thần bằng cách hiến dâng những con thú sống, để cứu lấy con vật vơ
tội thốt khỏi cái chết hỏa thiêu đau đớn chỉ vì một sự tin tưởng mù quáng.
Trong giáo điển, Phật giáo quan niệm rằng tất cả mọi loài chúng sanh, từ con người

cho đến các sinh vật nhỏ bé côn trùng đều tiềm ẩn một khả năng phi thường như nhau,
đó là khả năng thành Phật (Phật tính). Nhưng do các đặc tính cố hữu ở mỗi lồi, việc
triển khai khả năng ấy tùy đó mà khó dễ, nhanh chậm khác nhau. Ðiều này có thể tóm
ý trong một câu kinh: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành". Ðây là nền
tảng để hình thành tính bình đẳng triệt để trong đạo đức ln lý Phật giáo.

2.2. Giáo dục con người giác ngộ chân lý và đạt được hạnh phúc (giải thoát)
Phật giáo cho con người là hơn cả vì có thể thực hiện được tất cả sự tốt đẹp để có thể sống
hài hòa. Để giáo dục đạo Phật đã đưa ra bốn chân lý kỳ diệu, với yếu tố biện chứng, kết cấu

15
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
chặt chẽ khi đưa ra lý thuyết “ngũ uẩn”, chỉ rõ căn nguyên của khổ đau là do thâm, sân si
cùng với lý luận về thập nhị nhân duyên, đồng thời khẳng định con đường diệt khổ đó là
“trung đạo”, “bát chánh đạo” chứa đựng sự lý đầy thuyết phục và hướng con người đến nếp
sống thiện lánh xa cái ác. Dạy con người sống cảm thơng, hỷ xả với nhau một cách hịa mục.
Vị tha dạy con người sống vì người khác, bao dung độ lượng đó là phương pháp giúp con
người đạt được đức hạnh. Đây là động lực nảy sinh mọi điều tốt lành. Mục đích cuối cùng của
Phật Giáo là giúp con người thoát khổ và đạt được hạnh phúc, Phật Giáo đã chỉ ra những
nguyên nhân của cái khổ, diệt trừ và phương pháp diệt trừ khổ để có được hạnh phúc thực tại,
tất là giải thoát con người khỏi khổ đau và đạt được hạnh phúc.

2.3. Giáo dục đạo đức, hướng thiện cho con người và xây dựng tính nhân bản sâu
sắc
2.3.1. Giáo dục đạo đức, hướng thiện cho con người
Phật giáo chủ trương thuyết nghiệp báo và tái sinh, Do Vạn vật bị chi phối bởi luật nhân uả
nên mỗi chúng ta mất đi ở nơi này, thời gian này sẽ được sinh ra ở nơi khác thời gian khác,

nghiệp cũng bị chi phối bởi luật nhân quả, Chúng ta chịu sự chi phối của nghiệp kiếp này và
nghiệp kiếp trước, nếu làm việc thiện, nói lời chân chính, suy nghĩ đứng đắn sẽ tạo ra điều tốt
cho đời sau tái sinh, ngược lại sẽ có nghiệp xấu. Bản thân mỗi người phải chịu hoàn toàn những
suy nghĩ, hành động và lời nói của mình ( Nghiệp), Từ đó khuyến khích con người sống lương
thiện hơn, Ngũ giới của Phật Giáo giúp mọi người biết thương yêu, không sát sanh ( Nhân),
Không trộm cắp ( Nghĩa ), Không tà dâm ( Lễ ), Khơng uống rượu ( Trí ), Khơng Nói dối ( Tín
), là những ngun tắc đạo đức để những tín đồ Phật giáo rèn luyện tu dưỡng, điều chỉnh hành
vi đạo đức của mình, hình thành những đức tính tốt đẹp cho người tín đồ Phật giáo trong đời
sống hiện tại như sống đức độ, trung thực, hướng thiện.

2.3.2. Xây dựng tính nhân bản
Ðiểm căn bản nhất mà chúng ta nhận thấy được ở Phật giáo, vị giáo chủ không phải là một
thần linh, không phải là một Thượng đế đầy quyền uy thưởng phạt, mà là một con người thật
sự như bao người khác. Tên Ngài Tất Ðạt Ða, tiếng Phạn là Siddhàrtha. Ngài thuộc giai cấp Sát
Ðế Lợi, dòng dõi vua chúa, con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da. Ngài sinh ra, lớn lên,

16
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
đi học; vợ Ngài là Công chúa Da Du Ðà La, con Ngài là La Hầu La. Thấu rõ những nỗi thống
khổ sinh, già, bệnh, chết, chứng kiến những lầm than cơ cực của dân chúng trước những bất
công của xã hội Ấn thời bấy giờ, Ngài đã từ bỏ gia đình, vợ con, một mình ra đi tìm phương
giải quyết. Sau những tháng năm học đạo cùng với những đạo sĩ nổi tiếng bấy giờ, kết quả ấy
cũng không giúp được cho vị đạo sĩ trẻ tuổi thông minh Tất Ðạt Đa giải quyết những vấn đề
bức xúc trong lòng. Cuối cùng, Ngài đã tự quyết định tự mình tham cứu. Suốt 49 ngày tham
thiền nhập định dưới cội bồ đề Ngài đã thấu đạt được chân lý, rõ được chân
tướng của vạn pháp, Ngài đã giác ngộ thành đạo, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sự kiện trên đây đã
hình thành một khái niệm về tính nhân bản của Phật giáo, con người là trung tâm điểm của Phật

giáo, hay nói một cách khác, khơng có nhân loại thì Phật giáo khơng hiện hữu trên cuộc đời
này.
Trong quan niệm Phật giáo, con người là chủ nhân của mọi hành vi của chính bản thân mình
ở cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, là vị Thượng đế duy nhất toàn quyền thưởng phạt cho
chính cuộc đời mình; ngồi mình ra, khơng bất cứ ai hoặc thần linh nào khác có khả năng đưa
mình lên thiên đàng hay vất mình xuống địa ngục. Tính nhân bản của đạo Phật là làm cho con
người trở nên Người hơn, phát huy tất cả mọi tính người cao đẹp và thải trừ mọi bản năng thấp
kém và hèn hạ (tham, sân, si, sát, đạo, dâm, vọng). Con đường thành Phật khơng gì khác hơn
là con đường làm viên mãn những đức tính vốn đã tiềm ẩn yếu ớt nơi con người bình thường:
trí sáng suốt, lịng nhân ái, sự ghét ác thích thiện, sự tự chế, sự kiên định, lịng hy sinh và xóa
bỏ hẳn tất cả những gì làm cho con người bị ràng buộc, bị tha hóa, bị hạ thấp, bị trĩu nặng, bị
mất phẩm cách của bản năng thú vật (tính ích kỷ, lòng ghen tỵ, sự giận dữ, sự si mê,
sự tham lam chiếm đoạt mất hết lương tri ). Cuộc đời này trở nên hỗn loạn khổ đau cũng vì
những tính tiêu cực đó. Tính nhân bản của đạo Phật là chống lại những gì làm hạ thấp con người
và hun đúc cho con người mọi đức tính cao đẹp để thực hiện trọn vẹn định mệnh và ý nghĩa
làm người của nó: thốt khỏi mọi ràng buộc thấp kém để trở thành một mẫu mực chânthiện-mỹ của vũ trụ, một mẫu mực của Trời và Người. Bởi thế đạo Phật cho là thiện, là tốt
những gì làm cho con người tiến hóa, hướng thượng, làm cho con người thực hiện được tính
Người, tức là tính Phật; và xem là ác, là xấu tất cả những gì làm sa đọa, tha hóa con người, dù
chúng đến từ đâu, dưới bất cứ hình thức nào.
Phật giáo ln ln đề cao nỗ lực và ý chí của con người. Tinh tấn là một trong những đức tính
quyết định việc thành tựu đạo quả Bồ đề, bến bờ giác ngộ chẳng bao giờ có dấu chân của biếng

17
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
lười và bạc nhược. Với những tâm hồn khát khao tự do tuyệt đối, dốc hết sức bình sinh cùng
với sự hiểu biết chánh pháp một cách chân chính, mỗi chúng ta chắc chắn sẽ đạt được kết quả
tốt đẹp trên bước đường tu tập. Bằng ngược lại, cho dù ngàn vị Phật dang tay tế độ cũng

khơng làm sao đưa ta thốt khỏi biển trần lao đầy thống khổ này.
Ðiều đáng nói nhất về khả năng của con người mà Phật giáo luôn nhấn mạnh chính là trí
tuệ. Ðó là khả năng tối cao của nhân loại, là di sản vô cùng quý báu mà bất kỳ ai nếu biết vận
dụng và phát huy đúng đắn đều có thể tận diệt mọi khổ đau, đạt đến bến bờ hạnh phúc. Ðức
Phật đã tuyên bố: "Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật". Tóm lại, đối với Phật giáo,
con người vốn là một chúng sanh ưu việt, có rất nhiều tiềm năng phi thường; nếu chúng ta khéo
triển khai thì khơng gì khơng thực hiện được trên cõi đời này. Như vậy, ta có thể nói rằng Phật
giáo là Phật giáo của con người, xuất phát từ Ðức Phật Thích Ca, Ngài là đấng Giác Ngộ nhưng
Ngài là một con người; Ngài đã cất tiếng nói và có một đời sống rất người, và vì con người mà
khai thị chân lý, hướng dẫn con người đến đời sống thực sự an vui.

18
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh
KẾT LUẬN
Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vơ thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng của thế
giới nhưng triết lý nhân sinh vẫn cịn mang nặng tính chất bi quan khơng tưởng và duy tâm về
xã hội.
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ và Trung Quốc vào
Việt Nam. Phật giáo được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên theo con đường Hồ
Tiêu (đường thủy) và con đường Đồng Cỏ (đường bộ). Với những giá trị tốt đẹp của Phật giáo,
nhân dân ta nhanh chóng tiếp nhận và hình thành nên Phật giáo Việt Nam. Sự hình thành và
phát triển của Phật giáo Việt Nam trải qua các thời kỳ gắn liền với các triều đại phong kiến.
Thời kỳ du nhập và hình thành (thế kỷ II – V), tiếp theo là thời kỳ phát triển (thế kỷ VI – IX).
Phật giáo Việt Nam cực thịnh và trở thành quốc giáo vào triều đại Lý – Trần (thế kỷ X – XIII)
sau đó suy thối vào thời nhà Hậu Lê đến thế kỷ XIX. Từ thế kỷ XX là thời kỳ phục hưng của
Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ trong sự phát triển đi
lên của cả dân tộc. Hiện nay phần lớn các nhà sư, các chủ trì điều có học thức cao từ trình độ

đại học đến bậc tiến sĩ và có khả năng vượt xa hơn nữa. Các vị sư này không những thấu hiểu
Phật giáo Việt Nam mà cịn được du học nền văn hóa Phật giáo ở các nước lân cận. Được sự
hỗ trợ từ phía Đảng và nhân dân về cơ sở vật chất và kinh phí đầu tư.
Hiện nay nước ta đã có các trường Đại Học cho các bậc tu sĩ. Đây là một điều rất đáng mừng
trong thời kỳ mở cửa hội nhập nền văn hóa, kinh tế với các nước bạn bè năm châu. Từ đó cho
thấy Phật giáo Việt Nam thực sự lớn mạnh về mặt tổ chức và trở mình đổi mới để xứng đáng
với lòng tin của Đảng và nhân dân.

19
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt


GV: TS Bùi Xuân Thanh

20
SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt



×