TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH
KHOA DÙ LỊCH VÀ VIỆT NAM HỌC
NGlYKN TAI THANH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐÈN NỮ THẢN MARIAMMAN TRONG PHÁT
TRIÉN DU LỊCH TẠI THÀNH PHÓ HỒ CHÍ MINH
SINH VIÊN
: TRẦN THỊ THIỆU LINH
MÃ SĨ sv
: 1600001608
LỚP
: 16DVN1A
NGÀNH
: VIỆT NAM HỌC
NIÊN KHÓA
: 2016-2020
TP.HCM - 09/ 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1.
Lý do chọn đề tài................................................................................. 1
2.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................2
3.
Phương pháp nghiên cứu...................................................................2
4.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề.................................................................3
5.
Đóng góp đề tài................................................................................. 4
6.
Bố cục khóa luận............................................................................... 5
CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỤC TIỄN....................................... 6
1.1.
Cơ sở lí luận...................................................................................6
1.1.1.
Các khái niệm (tín ngưỡng, đền, nữ thần, Ân Độ giáo)......... 6
1.1.2.
Lịch sử hình thành Àn Độ giảo (đạo Hindu)......................... 7
1.1.3.
Sự du nhập của Hindu giáo vào Thành phố Hồ Chí Minh... 12
1.2.
Khái quát đền nữ thần Mariamman......................................... 13
1.2.1.
Lịch sử hình thành................................................................... 13
1.2.2.
Thần tích................................................................................... 17
1.3. Vai trị của văn hóa trong phát triển du lịch............................... 18
1.4. Khái quát về Thành phố Hồ Chí Minh........................................ 20
Tiểu kết chương 1........................................................................................ 21
CHƯƠNG 2: THỤC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI ĐÈN NỬ
THẦN MARIAMMAN............................................................................... 23
2.1. Hệ thống đền Mariamman và các đền Ấn Độ khác...................... 23
2.1.1. Đen Mariamman........................................................................ 24
2.1.2. Đen Subramaniam Swamy và Sri Thenday Yutthapani.......... 25
2.2. Các hoạt động tại đền...................................................................... 28
2.2.1. Le hiến tế bằng lửa (yna)........................................................ 29
2.2.2. Trị chuyện cùng tường đá.......................................................... 31
2.2.3. Lễ vía bà...................................................................................... 33
2.3. Kiến trúc........................................................................................... 36
2.4. Thực trạng tín ngưỡng..................................................................... 38
2.4.1. Khách địa phương...................................................................... 38
2.4.2. Khách nội địa............................................................................. 39
2.4.3. Khách quốc tế............................................................................. 40
2.5. Niềm tin và sự ảnh hưởng Hindu giáo đến tín ngưỡng của người
Việt............................................................................................................. 41
2.5.1 . Niềm tin tín ngưỡng.................................................................. 41
2.5.2 Anh hưởng tín ngưỡng...............................................................42
Tiểu kết chương 2..................................................................................... 45
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIẾN DU LỊCH TẠI ĐÈN NỮ
THẦN MARIAMMAN........................................ ’.......... ’........................... 47
3.1. Du lịch tâm linh tại đền đối vói Thành phố Hồ Chí Minh.......... 47
3.2. Đánh giá hoạt động du lịch tại đền................................................52
3.3. Phân tích SWOT.............................................................................. 54
3.3.1. s (Strenghths) - điểm mạnh...................................................... 54
3.3.2. w (Weaksnesses) - điếm yếu...................................................... 55
3.3.3. o (Opportunities) - cơ hội........................................................ 55
3.3.4. T (Threats) - thách thức............................................................. 56
3.4. Giải pháp phát triển......................................................................... 56
KÉT LUẬN................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 61
PHỤ LỤC...................................................................................................... 66
PHỤ LỤC1: BẢNG KHẢO SÁT................................................................. 66
PHỤ LỤC
2: HÌNH ẢNH.......................................................................... 70
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch - ngành cơng nghiệp khơng khói đang có vị trí và vai trò đặc biệt
quan trọng trong sự phát triến kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Ngành kinh
tế có sức tăng ngoại tệ mạnh, tạo việc làm, tăng thu nhập và kích thích đầu tư
ở nhiều khu vực khác. Du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển và hội nhập,
khách quốc tế đến tham quan ngày càng phát triến và du lịch nội địa cũng được
tăng nhanh do nhu cầu thư giản của người lao động ngày càng được quan tâm
đúng mức. Bên cạnh đó, ở Việt Nam rất đa dạng về loại hình du lịch vói rất
nhiều lễ hội truyền thống, khu di tích đi kèm di tích là các hoạt động văn hóa,
tín ngưỡng. Chính kho tàng văn hóa và tín ngưỡng phong phú trên đã tạo hình
cho cốt cách và bản sắc của dân tộc Việt Nam, làm nên nét riêng cho du lịch
Việt Nam. Dưới góc nhìn văn hóa, những phong tục, truyền thong và tín
ngưỡng thuần Việt khơng chỉ mang giá trị nghệ thuật, mà còn là bản sắc dân
tộc. Một số đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện
của nhân loại. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố mang
tiềm năng du lịch rất lớn, tuy nhiên việc phát triển điểm du lịch còn vài hạn
chế. Những địa điểm quen thuộc được nhiều khách du lịch biết đến như các bảo
tàng, chùa, miếu, nhà thờ hay các khu phố người Hoa, người Hồi Giáo nhưng
ít ai biết đến sự “tồn tại” của nền Hindu giáo. Đen Án - một nét tâm linh riêng
ở Sài Gòn tạo nên sự khác biệt và đặc biệt nhất giữa lịng thành phố.
Tơn giáo từ xưa đến nay ln nhà một đề tài được tồn thể giới chú trọng
nghiên cứu, Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Islam giáo và cả Hindu giáo chính là
những tơn giáo có lượng tín đồ đơng đảo trên tồn thế giói. Trong số đó Hindu
giáo được xem là một trong những tôn giáo ra đời sớm nhất trên thế giới, và nó
cũng là một tơn giáo có ảnh hưởng lớn đến văn hóa, xã hội, đời sống tinh thần
và tín ngưỡng thờ cúng của người Việt Nam nói chung và người dân tại TP Hồ
Chí Minh nói riêng. Nhắc đến sự ảnh hưởng của Hindu giáo tại TP Hồ Chí
2
Minh, khơng thế khơng nhắc đến những cơng trình kiến trúc đồ sộ, đại biếu cho
đặc trưng nghệ thuật kiến trúc điêu khắc của Hindu giáo như đền Sri Thenday
Yutthapani, den Subramaniam Swamy, và đền Mariamman (hay còn gọi là đền
Bà).
Đen nữ thần Mariamman là một trong những ngôi đền Hindu giáo noi
tiếng hiện nay với vẻ đẹp cổ kính, lối kiến trúc còn khá nguyên vẹn từ khi được
xây dựng cũng như sự linh thiêng về nơi này, chính vì thế mà được nhiều người
quan tâm đến. Sau một thời gian nghiên cứu với những kiến thức học được
trong quá trình học và quyết định chọn đề tài “Đen nừ thần Mariamman trong
phát triển du lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đoi tượng: Khách du lịch, quản lí, nhân viên đền nừ thần Mariamman.
Khảo sát chủ yếu trên địa bàn nghiên cứu ngồi ra cịn sử dụng trên một
số trang mạng truyền thơng khác.
• Phạm vi nghiên cứu
về nội dung nghiên cứu: khảo sát thực tế tại địa bàn tập trung chủ yếu về
sự phát trien du lịch tại đền Mariamman.
về không gian: đề tài nghiên cứu tại số 45 Trương Định, quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh.
về thời gian: ngồi số liệu của những năm trước chủ yếu dựa vào số liệu
khảo sát được thực hiện trong tháng 8 năm 2020 và đề xuất hướng phát triển
cho nhừng năm tiếp theo.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát thực địa là phương pháp nghiên cứu trực tiếp tác
động vào đối tượng có trong thực tiền để làm bộc lộ bản chất và quy luật vận
động của đối tượng đó. Trong nghiên cứu này, tác giả đà có một chuyến đến
tham quan đến Mariamman tại 45 Trương Định, phường Ben Thành, quận 1,
thành phố Hồ Chí minh để tìm hiểu và thu thập thông tin. Đây là phương pháp
3
có tính chủ chốt giúp đề tài trình bày rõ về sự ảnh hưởng của đền nữ thần
Mariamman.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp thu thập thông tin thông
qua việc đọc sách báo, tài liệu. Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến và
có vị trí quan trọng trong việc tạo dựng cơ sở lí luận cho một đề tài nghiên cứu.
Phương pháp điểu tra bằng bảng hỏi là phương pháp điều tra xã hội học.
Đây là phương pháp thu thập thông tin bằng cách lập một bảng hỏi cho nhóm
đối tượng trong một khu vực nhất định ở một không gian và thời gian nhất định.
Trong nghiên cứu này, tác giả tiến hành khảo sát thông qua bảng hỏi cho khách
du lịch đến viếng đền.
Phương pháp lịch sử và logic là thông qua các nguồn tư liệu đe nghiên
cứu và phục dựng đầy đủ các điều kiện hình thành, quá trình ra đời, phát triển,
hiện tượng, đồng thời đặt q trình phát triến đó trong mối quan hệ tác động
qua lại với các nhân tố liên quan khác trong suốt quá trình vận động của chúng,
từ đó có thế dựng lại bức tranh chân thực của sự vật, hiện tượng như đã xảy ra.
Trong nghiên cứu khoa học, việc sử dụng phương pháp lịch sử chỉ giúp người
nghiên cứu dừng lại ở việc phục dựng quá khứ của các sự vật, hiện tượng. Đe
tìm ra bản chất, quy luật vận động và phát triển của chúng, người nghiên cứu
cần kết hợp vận dụng phương pháp logic - là phương pháp nghiên cứu tổng
quát các sự kiện, hiện tượng lịch sử, loại bỏ các yếu tố ngầu nhiên, khơng cơ
bản đe làm bộc lộ bản chất, tính tất yếu và quy luật vận động và phát triển khách
quan của sự kiện, hiện tượng lịch sử đang “ẩn mình” trong các yếu tố tất nhiên
lẫn ngẫu nhiên phức tạp ấy.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đen thờ Hindu giáo - Mariamman là một địa điếm quen thuộc đối với
người dân tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh vì sự lâu đời và linh thiêng của
nó. Cũng vì lí do đó mà ngơi đền này được các học giả từ trong và ngồi nước
đặc biệt chú ý tìm hiếu, nghiên cứu.
4
Trong đề tài nghiên cứu của Thạc sĩ Võ Sơn Đơng về “Tín ngường Ấn
Độ giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh - trường hợp đền Mariamman”, tác giả đề
cập về các thần tích cũng như làm nổi bật tín ngưỡng thờ nừ thần Mariamman
đối với người dân tại khu vực này.
Trong quyến sách Di sản Án Độ trong văn hóa Việt Nam - nhân kỷ niệm
150 năm ngày sinh Mahatma Gandhi (1869 - 2018), các tác giả đã có bài viết
đề cập đến đền Mariamman, coi đền như một di sản Án Độ nổi bật tại thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng như cả nước nói chung.
Trong hội thảo khoa học “Tín ngưỡng nữ thần Mariamman: Giá trị di sản
Án Độ trong giao lưu văn hóa với Việt Nam”, các tác giả trong và ngoài nước
đã cùng nhau trình bày nhừng nghiên cứu về đền Mariamman và những giá trị
tâm linh của đền đổi với người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, hội thảo cũng trình
bày mối quan hệ, sự ảnh hưởng giữa Hindu giáo trong tín ngưỡng thờ cúng của
người Việt.
Hơn nữa, các quý độc giả trình bày mối quan hệ giữa nừ thần Mariamman
đến các vị thần khác trong tín ngưỡng thờ cúng của các quốc gia lân cận Việt
Nam.
Nhìn chung, các bài viết đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của Hindu
giáo đến tín ngưỡng thờ cúng của Việt Nam thông qua nghiên cứu về đền nữ
thần Mariamman. Tuy nhiên ít có bài nói về phát trien du lịch tại đền, bài nghiên
cứu này tác giả sẽ tập trung nói về vấn đề này cũng như thông qua các bảng hỏi
khảo sát thực tế đe đưa ra những kết luận về phát triến du lịch tại đền nữ thần
Mariamman.
5. Đóng góp đề tài
Khóa luận nghiên cứu về tiềm năng phát triến du lịch tại đền Mariamman
- Thành phố Hồ Chí Minh, diem mới của khóa luận chính là nghiên cứu về một
cơng trình Hindu giáo cũng như hướng tới phát trien du lịch trong trong lai.
Ngồi ra cịn hỗ trợ về việc học tập chun ngành du lịch hiệu quả, đóng vai
trị quan trọng cho sự trang bị kiến thức nền tảng.
5
6. Bố cục
• khóa luận
•
Ngồi phần mở đầu, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, đề tài được kết
cấu 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch tại đền nừ thần Mariamman
Chương 3: Giải pháp phát trien du lịch tại đền nữ thần Mariamman
6
CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỤC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Các khải niệm (tín ngưỡng, đền, nữ thần, Ân Độ giáo)
• Tín ngưỡng thờ cúng: Được định nghĩa là những phản ứng liên quan đến
hành vi tôn giáo và cũng là đặc điếm chung cùa hầu hết các tôn giáo, đối
với sự xuất hiện của những cá thể được chấp nhận là thánh thần, đó là
một sức mạnh thiêng liêng hoặc hiện hữu.
Những phương thức đặc trưng để đáp lại thần thánh bao gồm các kiêu hành
vi sùng bái: nghi lễ, cầu nguyện, nhảy múa, thuyết pháp, thiền, có âm nhạc và
bài hát thiêng liêng. Việc thờ phụng cũng bao gồm nhừng hành vi nhừng hành
vi mang tính riêng tư như: những lời cầu nguyện được nói hoặc khơng được
nói ra, sự im lặng, giả định về các tư thế cụ the, hành động và cử chỉ nghi lễ, và
hành vi tơn kính cá nhân của người hoặc đồ vật.
Các tín đồ Hindu giáo thường thực hiện sự thờ phụng nhằm đạt được một
số kết quả cụ thể hoặc để hịa nhập cơ thể, tâm trí và tinh thần, giúp người thờ
cúng tiến nhập vào trạng thái tinh thần cao hơn.
• Tín ngưỡng là một hiện tượng xã hội, nhu cầu về đời sống tâm linh của
con người, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của nhiều cộng
đồng, đó khơng chỉ chứa đựng những giá trị văn hóa, tinh thần nhân văn
mà cịn thế hiện khát vọng của con người trong mong muốn chinh phục
vũ trụ bao la. Khơng những thế, tín ngưỡng cịn có chức năng điều chỉnh
những hành vi hướng thiện, liên kết cộng động và góp phần giữ gìn đạo
đức, truyền thống văn hóa, on định xã hội.
• Đen: Là cơng trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh
hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng hoặc thờ thần linh. Khơng ít
đền dành cho tín ngường thờ mầu, nữ thần, nữ tướng, bà chúa, các bà mẹ
dân tộc ở địa phương.1
1 Mai Thanh Hải, 2006: Từ điến tín ngưỡng tơn giáo thế giới và việt Nam, NXB Văn hóa - Thơng tin, tr. 221
7
Đen Hindu giáo được gọi là “mandir” (sự hài lòng) là nơi các tín đồ đến thờ
phụng, cầu nguyện. Ngơi đền là không gian kiến trúc nghệ thuật, thể hiện những
biếu tượng, triết lý, niềm tin của Hindu giáo. Nơi con người được gần gũi với
thần linh, đền còn là nơi con người có thế vượt qua thế giới ảo tưởng (cuộc
sống hiện tại) đe đến được thế giới của kiến thức, sự thật và chân lý. Mồi điện
thờ điều có một tượng thần nhỏ (murti), Mồi sáng, trong đền thờ, vị tư tế đánh
thức, lau, khoác trang phục và vịng hoa cho murti.
• Nừ thần: Được hiểu là một vị thần nừ có quyền năng siêu nhiên hay
những vật thế được nhân cách hóa mang nừ tính được phong làm thần
linh (theo dân gian). Họ là lực lượng sáng tạo ra vũ trụ, lồi người hay
những anh hùng có kỳ tích rực rờ hi sinh vì nước vì dân, những người
phụ nữ giúp lập ấp dựng làng.
Sự sinh sản của Đất - Nước - Lúa gắn với biểu tượng Mẹ - Nữ thần. Do đó,
người Việt có xu hướng nữ tính hóa các hiện tượng tự nhiên, biến các thần tự
nhiên thành các nừ thần và tôn phong nhiều vị nữ thần là Mẹ/ Mầu.2
1.1.2. Lịch sử hình thành Ân Độ giáo (đạo Hindu)
Án Độ giáo là tên gọi của một liên hiệp các tơn giáo đà có tại Àn Độ vào
thế kỷ thứ 19. Từ này bắt nguồn từ chừ Ba Tư Hindu, tiếng Phạn gọi là sindhu,
có nghía là “sơng”, và được dùng đế chỉ những con người sống ở thung lũng
Indus (thung lũng Án hà). Do đó nó có nghĩa là người dân Án. Trong số một tỷ
dân Ấn Độ thì khoảng 80% tự coi mình là người theo đạo Hindu, với khoảng
30 triệu nữa sống rải rác trên khắp thế giới. Niềm tin tôn giáo của họ có nhiều
đặc điểm giống nhau nhưng khơng có từ ngữ nào của đạo Hindu có thể mơ tả
hết tất cả họ được, và có nhiều cách đe làm một người Hindu, chẳng hạn như
tôn giáo ở làng quê thì rất khác tơn giáo của giới triết học.
Nguồn cội của tôn giáo này nằm trong các truyền thống của những cư
dân sớm nhất tại Ấn Độ, đó là nền văn minh thung lũng Indus, kéo dài từ khoảng
năm 2500 đến năm 1500 trước Cơng Ngun; là nền văn hóa Dravidian hiện
2 Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộ
8
còn tồn tại trong những người Tamil3 tại miền Nam Ấn Độ và là tôn giáo của
những người Aryan, những người xâm chiếm Tây Bắc Ấn Độ từ năm 1500
trước Công Nguyên trở về sau. Tôn giáo Aryan dẫn đến tôn giáo Vệ Đà, dựa
trên hiến tế và các kinh sách truyền miệng có tên là Vệ Đà (Vedas), mà người
Hindu xem là chứa đựng chân lý vĩnh cửu. Tôn giáo Aryan dẫn đến tôn giáo
Vệ Đà, dựa trên hiến tế và các kinh sách truyền miệng có tên là Vệ Đà (Vedas),
mà người Hindu xem là chứa đựng chân lý vinh cửu.
Kinh Vệ Đà gồm có 4 bộ sưu tập, và cùng với các bộ sách về sau như
Samhita, Upanishad, và một ít Sutra, được gọi tên là Shruti, có nghía “những
gì được nghe nói”. Nhừng điều này là chân lý vĩnh cửu và chỉ được truyền thừa
bằng miệng cho đến khi bắt đầu thời kỳ mà người Hindu gọi là thời kỳ suy thối
ngày nay, thì mới được viết ra thành sách. Thời kỳ này gọi là Kali Yuga và là
một phần trong nhãn kế về chu kỳ thời gian của người Hindu, xem thế giới như
một loạt những sự sáng tạo và hủy diệt. Các kinh sách khác, gọi là Smriti hay
“những điều nhớ lại”, bố sung cho bộ Shruti, và bao gồm những bản anh hùng
ca vĩ đại như Ramayana, Mahabharata, bản này bao gồm sử thi được tơn kính
là bản Bhagavad Gita (Thế Tơn ca). Tôn giáo Vệ Đà bao gồm một thế giới các
vị thần và nữ thần cơ bản, vì dụ thần Rudra và Indra, về sau sinh ra bộ ba các
than Brahma, Vishnu và Shiva. Kinh Rig Veda gồm chủ yếu là các thánh ca và
lời cầu nguyện gửi đến các vị thần cơ bản.
• Sự phát trien tơn giáo tại Án Độ:
Trong thời gian đầu, tôn giáo chịu sự khống chế của các Bà la mơn trong
một xà hội có bon giai tầng. Mồi giai tầng có một phận sự hay vama. Giới tăng
lữ (Bà la mơn) đứng ở vị trí cao nhất, kế đến là các sát đế lợi (kshatriya) hay
các chiến sĩ, rồi đến các thương nhân và nông dân (vaishya) và thủ đà la
(shudra) - những kẻ tôi tớ, người hầu. Người ta còn đang bàn cãi về sự ra đời
của một hệ thống đắng cấp rắc rối hơn, gọi là yati.
3 Là tộc người thiếu số ở miền Bắc Sri Lanka
9
Hệ thống đắng cấp này vần còn rõ rệt, mặc dù chính phủ Án Độ đã cố gắng
cải thiện điều kiện sống thường là tồi tệ của những người bất khả tiếp xúc này,
tầng lóp thấp hèn nhất phải đảm đương những công việc bấn thỉu nhất. Nhừng
sự phân chia này được chấp nhận trong đời sống người Hindu, bởi họ tin rằng
có một atman (linh hồn) vĩnh cửu trong mồi con người, atman được tái sinh
hàng triệu lần, dưới nhiều hình thức, theo một quy luật đạo đức, hay karma,
bàng bạc khắp nơi trong vũ trụ. Karma tự nó không phải là một sự thưởng hay
phạt, đây là một quy luật rất khách quan và cũng rất chắc chắn như là quy luật
về trọng lực vậy.
Nhưng có thế có sự giải thoát hay moksha, tức là sự thoát khỏi tái sinh, mà
đạo Hindu là một tập họp những con đường giúp người ta đi đến giải thoát. Các
con đường chính được gọi là marga (đạo): jnana-marga (trí đạo), con đường tri
thức hay tuệ giác; karma - marga (nghiệp đạo), con đường hành động hay việc
làm tốt đẹp; và bhakti - marga, con đường thờ cúng thần linh. Những con đường
này có nhiều cách áp dụng, như yoga hay con đường thiêng liêng cá thể, hoặc
như sadhu, con đường tu sĩ khổ hạnh.
Các truyền thống giảng dạ và thực hành có quy củ ngày càng phát triển, gọi
là sampradaya, một số đã được biết đến nhiều ở phương Tây. Trong số này có
sampradaya do Caitanya (1485-1534) đề xướng một nhánh về sau của tổ chức
này là Quốc tế hội Ý thức Krishna (International Society of Krishna
Consciousness). Tat cả mọi con đường để tiến dần đến giải thoát đều phải ý
thức về maya và dharma. Maya (ảo ảnh) là quyền năng của Brahman (Phạm
Thiên) làm cho mọi vật hiện ra trước mắt ta. Khi con người có cái nhìn khơng
đúng về cái bề ngồi thì thế giới trở nên huyền ảo và gây nhầm lần. Do đó điều
xấu cơ bản trong đạo Hindu là sự vơ minh (avidya). Dharma có nhiều nghĩa,
nhưng dịch là “pháp” (appropriateness) có lẽ là đúng nhất: đạo Hindu quả thực
là một bản đồ của các dharma, những cách hành động thích họp để được tái
sinh tốt hơn hoặc được giải thoát (moksha). Tên thường dùng đế chỉ đạo Hindu
là Sanatana Dharma hay “Chân lý Vĩnh cửu”.
10
Đối với gần như tất cả mọi tín đồ Hindu thì có bốn purushartha hay mục tiêu
của đời sống, đó là: dharma; artha (theo đuối sự thành cơng chính đáng trên thế
gian); karma (theo đuổi thú vui chính đáng) và moksha. Họ mong muốn được
Trải qua bốn ashrama hay giai đoạn cuuar cuộc đời, đó là học hành
(brahmacarya), cai quản gia đình (grihastha), rút lui về đe suy nghiệm
(vanaprastha) và xuất gia (samnyasin). Các cấu trúc xà hội này rất cơ bản cho
nên đạo Hindu còn được gọi là vamashamad-harma.
Dù vậy, vần còn một số dạng Hindu cho rằng người ta sẽ khơng bao giờ đạt
đến giải thốt nếu như không chứng tỏ là đã tách rời khỏi tất cả mọi cảm giác
ràng buộc mình với thế giới, kế cả cảm giác ghê tởm và uế trược. Do đó một số
tơng phái như “Tantra tay trái” địi hỏi tín đồ phải sống trên nền đất hỏa thiêu,
hoặc thực hành năm điều ơ uế (pancamakra) đó là: rượu, thịt, cá, ngũ cốc phơi
khơ và giao họp với phụ nữ có kinh. Tín đồ Hindu được giúp đỡ trong việc đi
tim dharma. Ngồi các guru và các triết gia, cịn có sự giúp đờ của Thượng đế
hay Brahman.
Các triết gia Hindu hiểu về Brahman như là nguồn cội và sự bao trùm của
tất cả những gì hiển hiện nơi con người chúng ta dưới hình thức của atman hay
linh hồn. Triết lý Advaita (Bất Nhị), một trường phái tư tưởng Hindu, chủ
trương khơng có nhị ngun. Thuyết này nói rằng bề ngồi của những khác biệt
trong thế giới chỉ là ảo tưởng. Tất cả những thứ chúng ta nhìn thấy - Trái đất,
Mặt trời, Mặt trăng, Bầu trời, chim chóc, thú vật, con người - trơng có vẻ khác
nhau nhưng về thực chất chỉ là một. Thuyết Bất Nhị hiếu về moksha (giải thóat)
như là sự nhận thức được rằng cá thể và Brahman bao giờ cũng là một. Nhưng
hầu hết các tín đồ Hindu đều tin là Brahman có tính cách của Thượng đế, hoặc
dùng Thượng đế đe sáng tạo và chống đỡ vũ trụ, thế nên moksha là sự họp nhất
vĩnh viễn với Thượng đế.
Tín đồ Hindu có thể có sự sùng mộ riêng và thờ cúng một vị thần nào đó,
cũng như họ có ý niệm rằng Thượng đế hiển hiện theo nhiều cách. Thượng đế
có thể có hình người dưới dạng hiện thân (avatara) có nghĩa là sự giáng hiện.
11
Các hiện thân quan trọng nhất là các hiện thân của thần Vishnu, mà trên hết là
than Krishna. Trong số nhũng sùng mộ riêng vào các vị thần và nừ thần thì phố
biến nhất là các Vaishnava, thờ than Vishnu, các Shaiva thờ than Shiva và các
Shakta thờ quyền năng Shakti của các nừ thần.4
Án Độ Giáo thật sự thờ rất nhiều thần, nhưng vần cho mình là đạo thờ
độc thần, vì họ cho rằng tất cả các thần họ thờ đều xuất phát từ một thần chánh
là Brahman. Lịch sử Án Độ Giáo có 3 giai đoạn lớn:
• Giai đoạn Veda: Vào thời kỳ này tơn giáo và tín ngưỡng của Án Độ được
chia làm 2 trường phái chính; một trường phái chuyên về mặc khải, mang
tư tưởng xuất thế, ẩn cư trong các hang động chú tâm tìm về giải thốt;
và một trường phái nhập thế mang hình thức lễ nghi, tế tự, người ta tin
rằng qua hình thức lễ nghi, vật cúng thần linh sẽ thông cảm, che chở và
giúp cho giải thốt.
• Giai đoạn Balamon: Là giai đoạn người Án Độ xem việc cúng tế các thần
linh trở nên rất quan trọng. Từ đây giai cấp tăng lừ Bà la mơn rất có uy
tín và quyền lực trong xã hội, và xã hội được chia ra làm 4 đăng cấp.
J Brahmana: Đắng cấp tăng lữ Bà la môn.
J Kshatriya: Đắng cấp chiến sĩ hay quý tộc có nhiên vụ cầm quyền.
J Vaishyas: Đẳng cấp thương nhân và địa chủ.
J Shùdra: Đắng cấp thợ thuyền và tôi tớ.
Và từ đây hành động khởi nguyên của thượng đế, người ta có thế nhận biết
Ngài qua 3 ngơi: Đấng sáng tạo (Brahma), Đấng bảo hộ (Vishnu) và Đấng hủy
diệt (Shiva).
• Giai đoạn Hindu: giai đoạn này các giáo sĩ tìm về với chân lý thực
nghiệm mưu cầu giải thốt. Trong xã hội khi giáo dục con người, thường
họ kể truyện sử thi: Mahabharata, Ramayana.5
4 * Bá Trung Phụ
5 Bá Trung Phụ, Đạo Hindu chân lý vĩnh cữu
12
1.1.3. Sự du nhập của Hindu giáo vào Thành phố Hồ Chỉ Minh
Cho đến nay, so với những cơng trình trong nước về người Pháp, người
Hoa ở Nam Bộ, những nghiên cứu về cộng đồng người Ấn Độ ở Sài Gịn vào
cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX ít hơn hắn. Vì lẽ đó, việc tái hiện diện mạo lịch
sử cộng động người Án là cần thiết, góp phần tạo dựng bức tranh tổng thể về
các dân tộc ở Nam Bộ nói chung, Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Lịch sử hàng hải Ấn Độ được biết đến rất sớm và nổi tiếng trong giao
thương bằng thuyền đến các nước khác. Cộng đồng người Án tập trung ở khu
vực Ben Thành, Ben Nghé và lan ra các khu vực Nam Bộ.
Khoảng cuối thế kỉ 19, dưới thời thuộc địa Pháp, người Án phần lớn là
thương buôn và lao động mới tới Thành phố Hồ Chí Minh đe bắt đầu làm ăn
sinh sống tại đây. Người Ấn Độ đến đây làm nhiều nghề khác nhau: như đi lính
cho người Pháp, gác cổng, đưa thư,.v.v... Người Án đến Sài Gịn cịn có nghề
đánh xe ngựa trong thành phố, họ chăm và huấn luyện ngựa rat tot ngoiaf ra
còn ni bị lấy sữa đế bán. Vì thế nên đầu thế kỉ 20 ngay trung tâm thành phố
vẫn xuất hiện những con bị ăn cỏ ngồi lề đường. Lúc đầu người Pháp đưa
người Án qua để cung cấp nhân lực, hồ trợ cho việc khai thác thuộc địa. Sau
cùng, người Tamil thuộc tầng lóp Chettiar (đắng cấp thứ 3 trong hệ thống đắng
cấp phổ biến ở Ấn) tới Việt Nam.
Hệ thống đắng cấp ở Án Độ gồm có 4 đắng cấp theo thứ tự từ cao xuống
thấp như sau:
V Brahmin: tầng lóp thống trị gồm tu sĩ, các nhà trí thức.
V Kshatriya: vua chúa, quý tộc, chiến binh.
V Vaishya: thương nhân, thợ thủ công, nông dân.
V Sudra: nô lệ.
Trong cộng đồng người Án vào Sài Gòn được chia làm hai nhóm:
Nhóm Chà Chetty thuộc cộng đơng người Tamil, họ làm nhiều ngành nghề
khác nhau như kinh doanh vải lụa, đồ trang sức, bn bán, đổi tiền. Một số
người Chetty thì kết hơn với người Việt Nam. Nhóm Chà Bombay là những
13
người gốc Án - những thương nhân giàu có kinh doanh tơ lụa có nhà, có của
hàng ở Sài Gịn
về sau Sài Gòn phát triển, người Ấn dần dần phát triển mạnh chủ yếu qua
hoạt động kinh doanh tơ lụa và cho vay là chính. Có thế thấy nhừng thương
nhân người An Độ đến Sài Gịn thơng qua con đường thương mại, cùng với sự
lớn mạnh về kinh tế và nhu cầu tín ngường để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng cũng
như liên kết tín ngưỡng, tụ họp, thực hành tín ngưỡng của mình, họ bắt đầu
xây dựng các ngơi đền Hindu giáo: đền Mariamman, Subramaniam Swamy và
Sri Thenda yuthupani.6
1.2. Khái qt đền nữ thần Mariamman
1.2.1. Lịch
• sử hình thành
1.2.1.1 về đền Mariamman
Năm 1867, thực dân Pháp chiếm miền Nam Việt Nam tạo nên thuộc địa
Cochinchina và cho xây dựng một thành phố ngay cửa khau Sài Gòn. Cuối thế
kỉ 19 trong lúc cơng ty Đơng Án Pháp kiểm sốt bang ở Án Độ thì người Pháp
đã đưa người Tamil - người Ấn ở miền Nam thuộc bang Tamil nằm dọc theo
duyên hải phía Nam An Độ để vào Sài Gòn và bắt đầu tham gia các hoạt động
kinh doanh. Người Tamil thuộc tầng lóp Chettiar - đẳng cấp thương nhân, thợ
thủ công, nông dân tới Việt Nam hoạt động ngành tín dụng, địa ốc, vải sợi. Dần
dần họ bắt đầu lập nên một số đền Ẩn đe cầu nguyện, thực hành tín ngưởng.
Đen Mariamman được xây dựng vào những năm đầu thế kỉ XX bởi cộng đồng
người Chettiar sinh sống tại khu vực này. Ban đầu khi mới xây dựng nơi đât
chỉ là một cái chòi nhỏ, lọp mái ton và được sang nhượng mặt bằng của người
Việt thờ Linh Sơn Thánh Mầu để cho những người theo đạo Hindu đến thờ
cúng. Năm 1950 -1952, tồn bộ ngơi đền được tân trang xây dựng lại theo lối
kiến trúc như ngày nay. Nhiều vật liệu trong đền thờ và các tượng đều nhập từ
Ẩn Độ và do thợ thủ công người Tamil xây dựng.
6 Lại Thị Thu Trang (2020), Đen Hindu giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh nhing từ thời gian văn hóa, trường
ĐHKHXH và Nhân Van.PDF
14
Khi xây dựng lại thì đền nữ thần Mariamman được thực hiện sau cùng.
Hầu hết vật liệu xây dựng đền và nghệ thuật kiến trúc đặc trưng Án Độ đều
được đem từ chính quốc, ke cả thợ chuyên nghiệp tay nghề cao. Chng đồng
cũ cịn lưu lại tới ngày nay cũng được đúc từ Ấn Độ, Trên thân chng có in
nối hàng chữ “Tặng đền Mariamman 12 năm 1950” nhưng nay đã bị nứt ở vành
chng khơng cịn sử dụng.
Các cơng trình sửa chừa được thực hiện cơng phu, tỉ mỉ và dần dần nhằm
không làm ảnh hưởng tới cấu trúc, kiến trúc cố mang nhiều dấu ấn di sản văn
hóa Ấn Độ. Do đó, tồn bộ ngơi đền được bảo tồn gần như nguyên vẹn và trở
nên đẹp đẽ, hoành tráng hơn xưa, nhất là màu sắc của hai tháp, các phù điêu,
hoa văn, các tượng thần từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài đều mang dấu ấn
cổ kính đầy màu sắc kiến trúc văn hóa nghệ thuật của một nước có bề dày lịch
sử mang tín ngưỡng Án Độ.
Những năm tháng biến động lịch sử, từ năm 1975 - 1986 ngôi đền bị bở
honag không ai trông coi. Năm 1990 được sự cho phép của chính quyền quận
1 mở của hoạt động trở lại do thương gia người Án - Rama Laxmanan tiếp
quản. Sau đó ơng kết hôn với bà Thạch Thị Lệch là người Việt gốc Khơ me
theo Phật giáo Nam tông ở Trà Vinh. Năm 2002 ông qua đời, xảy ra sự tranh
giành quản trị đền. Năm 2009, ủy ban nhân dân quận 1 cử ra một ban quản trị
chính thức để quản lý, điều hành các hoạt động cũng như duy trì sinh hoạt do
tín ngưỡng và bảo tồn văn hóa Án Độ.
Có nhiều tên gọi để gọi ngôi đền Hindu này, đa phần là theo thói quen
của người Việt. Ngay từ khi mới thành lập, người Ấn không chủ trương phối
thờ Mariamman với thần linh của người Việt như Linh Sơn Thánh Mầu nhưng
họ lại dung hịa về mặt tín ngường với tên gọi là ‘chùa Bà”, người dân xung
quanh đã gọi đền là đền Bà Ấn, hay “chùa bà Án”, “chùa bà Đen”, nhưng tên
chính thức của đền được ghi trên biến là “Đen Bà Mariamman”.
Ngôi đền Mariamman là nương tựa tinh thần của những người An Tamil
sinh sống ở Sài Gònnhưng việc lựa chọn vị trí của ngơi đền trên nền đất của
15
một ngôi miếu cũ và nằm gần chợ Ben Thành đã thể hiện cho tư duy kinh tế
của cộng đồng An Độ. Với vị trí của đền Mariamman nằm trên nền đất cũ của
ngôi miếu thờ Linh Sơn Thánh Mầu mà trong tín ngưỡng của người Việt cịn
gọi là bà Đen, những người bn bán theo thói quen sè tìm đến chiêm bái. Vì
đổi với người dân Bà Đen hay nữ thần Mariamman là khơng có sự phân biệt,
do tâm thức của họ chỉ có một việc là đến khấn nguyện với bà.
Điều khác nữa liên quan đến hoạt động kinh tế của người Ấn, đền
Mariamman là chồ mà người dân đến vay tiền, người hiếu biết thì gọi là “vay
bạc Chà” (vay tiền của người Ấn Độ), người làm nghề bn bán nhỏ thì quan
niệm là đến cầu nguyện cho việc làm ăn được thuận lợi rồi vay tiền của Bà. Tín
ngưỡng và kinh tế được thiết lập một cách mật thiết với nhau, người trong đền
cho vay bằng tín chấp, khơng có thế chấp như khi đi vay bên ngồi. Vì người
dân ln suy nghĩ là họ vay tiền của Bà, chứ không phải vay tiền của ông Chà
nào hết, đã vay của Bà thì phải trả vì Bà ln phù hộ cho từ đồng tiền đó mà
làm ăn gặp nhiều thuận lợi nên dù đi làm ăn ở đâu đúng hẹn họ cũng sẽ quay
về trả nợ. Ngày nay, đền khơng cịn hoạt động cho vay nhưng theo thói quen
những dân đến cầu nguyện về chuyện làm ăn.
Từ đó đến nay, nơi này trở thành nơi cúng lễ hằng ngày theo tín ngưỡng
dân gian.7
1.2.1.2 về nữ thần Mariamman
Mariamma là vị nừ thần theo tín niệm dân gian của người Tamil Nadu
có nguồn gốc từ khoảng 1.500 năm trước Cơng ngun, về sau Mariamman
được cho là hóa thân của nữ than Parvati, Kali hay Durga trong than luận Án
Độ giáo. Mari theo ngơn ngữ Tamil có nghĩa là mưa, Amman có nghĩa là mẹ,
Mariammna nghĩa là “mẹ mưa” hay thần mưa.8 Nừ thần Mariamman trong văn
hóa dân gian Án Độ là nữ thần bảo vệ mùa màng, sức khỏe và sinh sơi, nữ thần
của sự màu mỡ, phì nhiêu và tốt tươi.
7 2017, Tin ngưỡng nữ thần Mariamman: Giá trị di săn Ẩn Độ trong giao lưu văn hóa với việt Nam
8 Phan Anh Tú, Quả dừa lề vật cúng dường trong nghi lề Hindu giáo. Bài đăng trong: Kỹ yếu Hội tháo quốc
tê “Cây dừa Việt Nam - Giá trị và tiêm năng”, do Nhà xuât bán Đại học Qc gia TP Hơ Chí Minh in và phát
hành tháng 8 năm 2014
16
Theo thần thoại Án Độ, Parvati là “nữ thần núi”, là con gái của thần núi,
cịn có tên Devi- Uma hay Durga là nữ thần của núi tuyết Hymalaya. Nàng là
vợ của than Shiva. Kali hay Kaliamman hay Mahakali là biến the khủng khiếp
nhất của Parvati hay Durga, thuờng được thế hiện trong hình dáng của một nừ
nhân hung dừ, thân the có màu đen với 10 chiếc đầu và nhiều tay, co đeo vòng
hoa kết bằng sọ người, giầm đạp lên một người lùn tượng trưng cho quái vật u
toi Chính vì tín ngưỡng thờ nữ thần Mariamman rất phố biến ở miền Nam Án
Độ mà lần hồi nó được lan tỏa ra khắp nơi ngoài đất nước Án Độ ke từ thời đầu
công nguyên được các giáo sĩ xuất ngoại theo các thương thuyền tới nhiều quốc
gia Đông Nam Á và nhiều nơi khác trên thế giới.
Nguồn gốc của nữ thần Mariamman chưa được xác định rõ, có rất nhiều
truyền thuyết xoay quanh sự hiện diện của bà. Tuy nhiên, hầu hết đều cho rằng
Mariamman là một nữ thần thời cổ đại. Phía Nam Án Độ có khí hậu khắc
nghiệt, chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp gặp nhiều khó khăn và mắc nhiều
bệnh về da. Vì thế mọi người đã tôn sùng và thờ nữ thần Mariamman - bà là nừ
thần của sự màu mỡ, phì nhiêu và tươi tốt, được tôn thờ như mẹ của vũ trụ, đem
lại mưa thuận gió hịa. Bà cịn là nữ thần của bệnh đậu mùa và sởi, nữ thần của
con đàn cháu đống, còn là người se duyên cho nhừng ai muốn kiếm được vợ
hoặc chồng. Mariamman là nừ thần chính được tơn sùng ở Nam Án, đặc biệt
là vùng nông thôn các bang Tamil Nadu, Karnataka, Andhra Pradesh and
Maharashtra.
Mariamman thường được mô tả như một phụ nữ trẻ xinh đẹp với khuôn
mặt đỏ, mặc váy đỏ. Đôi khi bà được mơ tả là có nhiều tay và cầm nhiều vũ khí
để chỉ quyền năng của bà. Bà thường được mô tả với hai phong thái - một phong
thái hiền hịa dễ chịu, cịn phong thái kia thì đáng sợ và dữ tợn với răng nanh
và tóc tai bờm xờm
Nữ thần của làng xã Án Độ là một quốc gia nơng nghiệp, nền văn hóa ra
đời trong bối cảnh của đời sổng nông thôn. Trong các ngôi làng, cư dân tôn thờ
các vị thần của làng (gramadevata). Và một trong nhừng nữ thần được thờ cúng
17
nhiều nhất trên tồn miền Nam Án Độ đó chính là Mariamman. Bà thường được
thờ đại diện bằng một tảng đá. Bà chính là người giám hộ ranh giới của các
ngôi làng với nhau.
Nữ thần của bệnh tật Mariamman được tin rằng chữa được tất cả các
bệnh “về nhiệt” (theo cách gọi của người Àn) như đậu mùa và sởi. Trong các
tháng mùa hè ở Nam Án (tháng ba đến tháng sáu) người ta mang theo chậu
nước trộn với bột nghệ và lá neem đe tránh bệnh tật (đậu mùa và sởi).
Nữ thần sinh sản: Các tín đồ thường cầu nguyện với Mariamman về
những vấn đề gia đình như khả năng sinh sản, cầu nguyện cho con cháu khỏe
mạnh hoặc lấy được chồng (vọ) phù họp. Tại Án Độ, người ta thường dâng lên
nừ thần Pongal (gạo nấu với đậu xanh). Đa phần, các đền thờ Mariamman là ở
làng quê rất đơn giản. Trong nhiều đền thờ ở nông thôn, nữ thần Mariamman
được thờ biếu trưng bằng hòn đá granite với một đầu sắc nét và thường được
trang trí bằng những vịng hoa có màu sắc rực rờ.
1.2.2. Thần tích
Có rất nhiều câu chuyện về bà, nhưng chủ yếu được biết đến qua hai câu
chuyện:
Thứ nhất, bà là vợ của nhà thơ Tamil - Tirunalluvar mắc bệnh đầu mùa,
lờ loét mụn nước ghê tởm, dân làng xua đuổi, bà phải đi ăn xin từ nhà này đến
nhà kia. Một hôm, ngầu nhiên bà lấy lá cây “Nim” hay gọi là Margosa (tên Việt
Nam: sầu dâu) đắp vào các mụn nước, thật may lá này làm cho các mụn nước
biến mất, trở nên lành lặng da mặt mịn màng trở nên xinh đẹp khác thường.
Khi trở về được tiếp đón như một vị thần có phép chừa lành bệnh - nữ thần Y
học. về sau, mọi người thường cầu nguyện để xin cho con cháu khỏe mạnh, vụ
mùa bộ thu, mua may bán đắc.
Thứ hai, bà có cơng chống lại bộ tộc Aryan da trắng từ miền Bắc Á có
tín ngưỡng Bà La Mơn tới xâm chiếm và có âm mưu đồng hoa. Dù khơng thành
nhưng vẫn có cơng và được mọi người tơn sùng vì có cơng bảo vệ đất nước. Bà
trở thành người có nhiều năng lực cứu độ miền Nam Ấn Độ.
18
Từ đó Mariamman trở thành người có năng lực cứu nhân độ thế khắp
miền Nam Ấn Độ, làng nào cũng lập đền thờ trang nghiêm và hành lễ long
trọng nhất là dịp vía bà tháng 10 hằng năm. Chính vì những tín ngưỡng thờ nữ
thần phổ biến khu vực này đã bắt đầu lan rộng ngoài Án Độ được các giáo sĩ
xuất ngoại sang các nước Đông Nam Á và nhiều noi khác. Vì vậy, Ấn Độ giáo
được biết đến qua tín ngương thờ cúng đền Mariamman.
Là nữ thần có cội trễ từ làng xã, người bảo vệ đất, bảo vệ làng chống lại
thần chết, chống lại các dịch bệnh nhất là những bệnh lây nhiễm đầu mùa, ban
đỏ, có nhiều quyền lực nên được tôn vinh là Mẹ làng, Mẹ xứ sở.9
1.3. Vai trị của văn hóa trong phát triển du lịch
Khi mà tồn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ và nhanh chóng việc
bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa bản sắc cần được quan tâm đặc biệt.
Và du lịch là một hoạt động vơ tình thúc đấy chú ý tới bảo tồn văn hóa nhiều
hơn. Bởi lẽ nếu khơng có đặc sắc và sự khác biệt trong văn hóa thì sè khơng có
gì hấp dẫn du khách tới thăm. Các hoạt động du lịch văn hóa vừa tạo ra nguồn
thu nhập lớn, lại vừa là cơ hội để những loại hình bản sắc dân tộc được lên ngôi.
Tuy nhiên, việc bảo tồn sự đa dạng và nguyên bản nhưng phải lược bỏ những
vấn đề tiêu cực, giữ gìn nhừng giá trị tích cực lại là một điều khơng hề đơn
giản. Giữ gìn những giá trị xưa cũ là điều cực kì nan giải. Khi ý thức con người
thay đối thì những giá trị cũ cũng thay đối theo. Du lịch văn hóa, du khách thập
phương đã góp phần khơng nhị vào việc bảo tồn những giá trị ấy bằng việc tới
tham quan, đề cao, đóng góp chi phí dành cho những hoạt động bảo tồn, sản
phẩm văn hóa vần có một tầm quan trọng khơng thể nào coi nhẹ. Sản phẩm văn
hóa chính là đời sống là nhừng gì gắn liền với con người đã được tạo ra và duy
trì nhiều năm, thậm chí nhiều thế hệ con người đã từng sinh sống tại vùng đất
này.
Việt Nam ta với lợi thế 4 ngàn năm lịch sử văn hiến, 54 sắc tộc, đa dạng
về văn hóa trải dài suốt dải đất hình chữ s thì quả là một tiềm năng to lớn cho
9 2017, Tin ngưỡng nữ thần Mariamman: Giá trị di săn Ân Độ trong giao lưu văn hóa với việt Nam
19
việc phát triến loại hình du lịch này. Trải qua hàng trăm ngàn năm, văn hóa dần
dần được bồi đắp, tích lũy, nhưng cũng mai một và mất dần đi mồi ngay. Sự
thay thế văn hóa là điều tất yếu xảy ra trong cuộc sống mà cho dù khơng muốn
thì nó vẫn xảy ra. Nhưng đối với mồi chúng ta, bảo tồn và lưu giừ được những
giá trị tốt đẹp là điều phải làm, vì đó là linh hồn, là tiếng gọi từ ngàn xưa đưa
đường dẫn lối chúng ta tiến bước tới tương lai. Sẽ thế nào khi một dân tộc
khơng có văn hóa riêng? Sè thế nào khi một dân tộc tự đánh mất lịch sử của
chính mình?
Tín ngưỡng thờ nữ thần Mariamman là minh chứng cho sự xuất hiện và
ảnh hưởng của người Án Độ trong những giai đoạn sớm đến nền văn hóa bản
địa Đơng Nam Á tại nhừng nơi họ đã đi qua. Bên cạnh đó, qua mồi ngơi đền
của người Àn trên các quốc gia khác nhau là một màu sắc rất khác nhau về sự
hịa nhập văn hóa. Sự khác nhau ấy là q trình mà tự mồi nền văn hóa bản địa
đã biến đổi để tạo ra màu sắc riêng mà họ muốn hướng đến.
Nhận xét về sự dung hịa tơn giáo ở Việt Nam nhà nghiên cứu Geetesh
Shanna đã viết như sau: “Theo truyền thống, xã hội Việt Nam rất dễ dung hịa
với các tơn giáo. Người ta khó tìm thấy bất kỳ sự kiện tàn phả các nơi chốn và
cấu trúc tôn giảo nào trong lịch sử Việt Nam. Neu có chuyện đỏ xảy ra thì ắt
hẳn khơng cịn dấu vết nào được đê lại của những ngôi đền Ấn giáo có độ tuổi
từ 1.000 đến 1.400 năm. Trên thực tế người Việt Nam hồn tồn tự do theo
hoặc khơng theo bất kỳ tôn giáo nào. Ớ Việt Nam, các tín đồ của Phật giáo,
Thiên Chúa giảo, Hồi giáo và Nho giảo...Khơng có bất kỳ xung đột nào xảy ra
giữa những người có niềm tin tơn giáo khác nhau. Các đền thờ Ân giảo tại
thành phổ Hô Chỉ Minh là một vỉ dụ điên hình cho sự dung hịa tơn giáo đó.
Chủng tiếp tục tồn tại nhờ những người đi chùa và các tín đồ khơng phải Ân
giáo ” (Geetesh Sharma 2012, tr. 123).
20
1.4. Khái quát về Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh ban đầu được gọi là Prey Nokor, thành phố sau
đó hình thành nhờ cơng cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698,
Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi
người Pháp vào Đông Dương, đế phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành
phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai
đô thị quan trọng nhất Việt Nam. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước
Việt Nam thống nhất quyết định đoi tên Sài Gịn thành “Thành phố Hồ Chí
Minh”, theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chù Cộng hòa.
Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu
mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường
bộ, đường sắt, đường thủy và đường khơng. Tính đa tộc trong cộng đồng dân
cư của Sài Gịn - thành phố Hồ Chí Minh có rất sớm và ngày càng phát triển.
Nhừng ghi chép của Trịnh Hồi Đức trong “Gia Định Thành Thơng Chí” cho
thấy: hơn 200 năm về trước, đã có nhừng người Việt, người Hoa, người Khmer,
người Anh, người Pháp, người Java v.v... chung sống trên vùng đất này10.
Vào nhừng năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, mật độ dân số ở đây đã
trở nên đơng đúc vì đã tiếp nhận thêm nhiều lóp dân cư - dân tộc, bao gồm
những người Việt, người Chăm v.v... từ nhiều địa phương trên cả nước và cư
dân của những tộc người khác từ các nước Đông Nam Á, Tây Âu, Án Độ, Trung
Quốc v.v... tới11 .
Như một hiện tượng lịch sử tự nhiên, mồi thành phần tộc người đến đâu
sinh sống đều mang theo và ra sức giữ gìn những giá trị văn hố truyền thống
của tộc người mình. Đồng thời, theo quy luật, trong quá trình cộng cư, những
quan hệ đa dạng của giao lưu giữa các tộc người đã diễn ra, đem lại nhừng
thành quả to lớn về nhiều mặt, làm cho đơ thị này sớm có văn hố đa dạng,
phong phú và khơng ngừng phát triến.
10 Trịnh Hồi Đức, Gia Định Thành Thơng Chí, tập Hạ, Sài Gịn xuất bán, 1972
11 Vào thời kỳ này, cỏ hàng nghìn người việt từ các tinh miền Bắc và miền Trung nhập cư tại Sài Gịn - Gia
Định; cũng có hàng trăm người Chăm từ các tinh An Giang, Tây Ninh đên đây bn bán v.v... Riêng người
Hoa cũng bao gơm những nhóm địa phương, như Quàng Đông, Triêu Châu, Phúc Kiên v.v...
21
Trong tiến trình lịch sử văn hóa, Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh là nơi
hội tụ nhiều dịng chảy văn hóa từ các cộng đồng dân tộc cộng cư như Hoa,
Chăm, Khmer, Án Độ... và tiếp nhận nhừng ảnh hưởng văn hóa từ Pháp, Mỹ.
Đen nay, Thành phố Hồ Chí Minh được xem là đơ thị tiêu biếu, đại diện cho
Nam Bộ trên tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh tốc độ đơ thị hóa dẫn đầu, sự tăng
trưởng kinh tế, giao thông, du lịch phát triển..., Thành phố Hồ Chí Minh được
biết đến là đơ thị đa dạng văn hóa, năng động thích ứng hội nhập với các trào
lưu văn hóa quốc tế và khu vực; là trung tâm văn hóa - du lịch của cả nước.
Thành Phố Hồ Chí Minh là chân dung của một đơ thị trẻ, có tốc độ kinh
tế tăng trưởng mạnh, gắn với quy hoạch phát triến đô thị bền vững. Trong tiến
trình xây dựng, bảo vệ bản sắc văn hóa đơ thị, giá trị văn hóa cần được cân
bằng hài hịa. Văn hóa tín ngưỡng được thừa nhận khơng thế thiếu trong đời
sống văn hóa tinh thần của con người.
Một trong những đặc tính hình thành bản sắc văn hóa Thành phố Hồ Chí
Minh là tính đa dạng văn hóa. Tính cách nổi trội của cư dân đơ thị chính là sự
cởi mở, năng động, có khả năng giao lưu, tiếp biến văn hóa trên các bình diện:
từ tơn giáo, tín ngưỡng, văn học, nghệ thuật đến ẩm thực, thời trang, công
nghệ... Hiện nay được đánh giá là một thành phố chứa bên trong kho tàng di
sản kí ức với dịng lịch sử, mối quan hệ với các tộc người. Sự hội nhập của
nhiều nền văn hóa khác nhau đã tạo nên nhừng di sản văn hóa, nghệ thuật như
ngày nay.
Tiểu kết chương 1
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng cộng đồng dân tộc và Thành
phố Hồ Chí Mình là nơi tập trung nhiều tộc người với nhừng tôn giáo khác
nhau. Với bản sắc tôn giáo cộng với giao thoa bản địa đã tạo nên bản sắc văn
hóa Thành phố Hồ Chí Minh khơng lẫn với các vùng khác. Chính vì lẽ đó mà
văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh khơng chỉ phát huy sự thống nhất văn hóa mà
cịn phát triển tính đa dạng của văn hóa của các nhóm cư dân nhất là tơn giáo,
tín ngưỡng nhờ quá trình giao lưu giữa các loại hình văn hóa.
22
Đen nữ thần Mairamman - đền thờ Hindu giáo góp phần tăng thêm sự
da dạng văn hóa, tơn giáo và kiến trúc ở Thành phố Hồ Chí Minh. Được xem
là một di tích lịch sử, một dấu ấn văn hóa ngay giữa lòng thành phố. Sự hiện
diện này như nhân chứng cho một nền phát triển cùa cộng đồng người Án, nơi
sinh hoạt tơn giáo của các tín đồ, tụ họp những người Ấn xa quê hương đến
Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống và làm việc. Ngơi đền tốt lên một vẻ riêng
biệt theo phong cách kiến trúc độc đáo, mang đặc sắc riêng của một nền tôn
giáo nối bật giữa các cơng trình kiến trúc khác. Có the nói, chính sự dung nạp
tín ngưỡng góp phần tạo nên sự đa dạng văn hóa và di sản đơ thị thêm phong
phú.