MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đất nước đang đổi mới và phát triển, sự hội nhập quốc tế về kinh tế -
văn hóa - xã hội mạnh mẽ, với mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành một
nước công nghiệp. Muốn đạt được mục tiêu ấy, trước hết phải đào tạo nguồn
nhân lực và đối tượng ngắm đến là học sinh được đào tạo trong các cấp học,
trong đó học sinh trung học phổ thông được chú ý hơn cả.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định: “Thực hiện đồng
bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, đạo
đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý
thức trách nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng
nhu cầu về chất lượng. Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội, phối hợp
chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát triển và nâng
cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục đào tạo. Đầu tư hợp lý, có
hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế”.
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trên
các lĩnh vực, giao lưu với các nền văn hóa thế giới, trò chơi trực tuyến trên
Internet. Huyện Đức Trọng-tỉnh Lâm Đồng là một huyện thuộc vùng cao Tây
Nguyên, cũng chịu nhiều ảnh hưởng của biến động văn hóa xã hội, trò chơi
trực tuyến game online với những hành vi bạo lực, đã nhiễm vào trong suy
nghĩ và tâm lý của học sinh: thấy cảnh đánh đập nhau, chém nhau, bắn giết
nhau hàng ngày. Hiện tượng bạo lực học đường trong học sinh nữ, được các
em ghi lại rồi đưa lên mạng Internet, đã gây bức xúc trong nhân dân.
Học sinh THPT nói chung và học sinh THPT ngoài công lập huyện Đức
Trọng cũng bị ảnh hưởng rất nhiều, đã có rất nhiều trường hợp từ một xích
1
mích rất nhỏ trong học sinh của trường, đã gọi thêm người ngoài để đánh bạn,
vụ việc đã gây ra nhưng học sinh vi phạm không hề lo sợ, không thấy hối hận
với việc gây ra. Tệ nạn BLHĐ xảy ra liên tục trong và ngoài nhà trường đã
gây bất ổn cho nhà trường, an ninh trật tự tại địa phương, lo lắng phụ huynh
khi con em đến trường.
Hiện tượng bạo lực học đường trong HS THPT Trường THPT Nguyễn
Trãi, Huyện Đức Trọng (là trường ngoài công lâp) thời gian qua xuất hiện với
tần suất ngày càng tăng, đã để lại hậu quả nặng nề về thể chất - tinh thần của
học sinh, ảnh hưởng nhiều về tinh thần và cộng đồng xã hội. Qua nhiều năm
công tác trong ngành giáo dục và nhiều năm quản lý trường ba trường THPT
trong Huyện Đức Trọng, nhận thấy hoạt động quản lý phòng chống bạo lực
trong học sinh THPT của các trường học đã có nhiều cố gắng và có kết quả
nhất định. Tuy nhiên những cố gắng ấy chỉ dừng lại ở mức độ giải quyết vụ
việc, thiếu sự vận dụng của các lý thuyết, thiếu tìm hiểu sâu hơn về các biện
pháp phòng chống bạo lực trong học sinh THPT ở địa phương Đức Trọng.
Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Biện pháp quản lý
phòng chống bạo lực học đường trong học sinh trung học phổ thông ngoài
công lập huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng” làm đề tài luận văn cao học
chuyên ngành Quản lý Giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở hệ thông hóa cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý của công tác
hiệu trưởng về một số biện pháp quản lý phòng chống bạo lực học đường
trong học sinh trung học phổ thông ngoài công lập huyện Đức Trọng, tỉnh
Lâm Đồng, để góp phần ngăn ngừa tình trạng bạo lực trong học sinh hiện nay.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động quản lý nhà trường của hiệu trưởng.
2
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý phòng chống bạo lực
học đường đối với học sinh trung học phổ thông ngoài công lập huyện Đức
Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
4. Giả thuyết khoa học:
Thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý của hiệu trưởng về phòng,
chống BLHĐ trong các trường THPT ngoài công lập huyện Đức Trọng, hoặc
chỉ sử dụng một số biện pháp như: xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực; giáo dục rèn luyện KNS cho HS THPT; tổ chức tự quản cho học
sinh-nhóm học sinh học tập; thực hiện qui chế phối hợp giữa ngành giáo dục
và ngành công an Kết quả giáo dục về phòng chống BLHĐ trong học sinh
nhà trường đang công tác đạt hiệu quả, hiện tượng BLHĐ trong học sinh
THPT giảm rõ rệt. Ngược lại, hiện tượng BLHĐ không giảm, chứng tỏ biện
pháp đề ra chưa phù hợp
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về bạo lực học đường: Tâm lý tuổi thanh
niên; nguyên nhân và hậu quả của BLHĐ, văn hóa trong nhà trường; phong
trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực; giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh, sự quan hệ phối hợp giữa nhà trường - gia đình và các lực lượng
xã hội về phòng chống BLHĐ, tổ chức hoạt động tự quản và nhóm bạn học
tập trong học sinh
5.2. Nghiên cứu nguyên nhân, hậu quả, thực trạng về bạo lực học
đường trong học sinh THPT ngoài công lập ở huyện Đức Trọng; những biện
pháp quản lý của hiệu trưởng liên quan đến phòng chống bạo lực học đường
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý của hiệu trưởng về phòng chống bạo
lực học đường trong học sinh THPT ngoài công lập Huyện Đức Trọng, Tỉnh
Lâm Đồng
3
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
6.1. Nội dung nghiên cứu: tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý của
hiệu trưởng phòng chống bạo lực học đường trong học sinh trung học phổ
thông ngoài công lập huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
6.2. Địa bàn nghiên cứu : Các trường trung học phổ thông ngoài công
lập huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Bao gồm các trường:
-Trường THCS & THPT Nguyễn Trãi – Đức Trọng.
-Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề Đức Trọng (có các lớp BTVH)
- Trường trung cấp kỹ thuật dân lập Quốc Việt (có các lớp vừa học phổ
thông trung học- kết hợp học nghề)
6.3. Giới hạn về khách thể điều tra:
Gởi phiếu trưng cầu ý kiến đến: Hiệu trưởng hoặc giám đốc các trường và
trung tâm, phó hiệu trưởng các trường, giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên bộ
môn, phụ trách các đoàn thể như: chủ tịch công đoàn, bí thư đoàn TN CS HCM,
tổng phụ trách đội TN TP HCM, đại diện học sinh, đại diện hội cha mẹ học sinh
trong nhà trường, đại diện chính quyền địa phương nơi trường đặt địa điểm,
tham khảo ý kiến các đồng chí công an Thị Trấn Liên Nghĩa và những người dân
ở xung quanh trường THCS & THPT Nguyễn Trãi – Đức Trọng.
7. Phương pháp nghiên cứu:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích các kết quả thu thập được, tổng hợp lại, khái quát hóa tìm những
vấn đề chung nhất làm cơ sở cho việc quản lý tìm biện pháp quản lý hiệu quả
phòng chống BLHĐ cho các trường THPT ngoài công lập ở huyện Đức
Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
7.2.1. Phương pháp phiếu hỏi, gởi phiếu trưng cầu ý kiến của các
đối tượng liên quan.
4
7.2.2. Phương pháp tham khảo ý kiến của chuyên gia: qua ghi
chép phỏng vấn, thảo luận nhóm hoặc trao đổi với từng cá nhân.
7.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm từ báo cáo các trường
học, và của ngành công an địa phương.
7.3. Phương pháp thống kê toán học:
Phương pháp xử lý các số liệu đã thu nhận được từ điều tra, từ thăm dò ý
kiến khảo nghiệm, bằng thống kê, theo các công cụ toán học, cho phép rút ra
những kết luận có độ tin cậy khoa học nhất định.
8. Điểm mới của đề tài:
Đánh giá thực trạng tình hình phòng, chống BLHĐ, tìm ra các nguyên
nhân chính, và hậu quả về thể chất cũng như tinh thần của BLHĐ trong học
sinh THPT.
Đề xuất một số biện pháp trong quản lý của Hiệu trưởng về phòng,
chống BLHĐ trong học sinh THPT ngoài công lập huyện Đức Trọng, Tỉnh
Lâm Đồng
9. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, và một số bảng danh mục –
bảng mục lục, các phụ lục, nội dung luận văn chia thành 3 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý phòng, chống BLHĐ trong học
sinh THPT.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý phòng, chống BLHĐ trong học
sinh THPT ngoài công lập Huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng.
Chương 3: Biện pháp quản lý phòng chống BLHĐ trong học sinh
THPT ngoài công lâp huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng.
Trong luận văn có 17 bảng số liệu, 01 sơ đồ và 08 biểu đồ, có phụ lục
về mẫu phiếu trương cầu ý kiến và bộ hồ sơ xử lý học sinh khi xảy ra đánh
nhau kèm theo.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ
QUẢN LÝ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG
TRONG HỌC SINH THPT.
1.1. Lược sử của vấn đề nghiên cứu:
1.1.1. Về tư tưởng quản lý nhà trường qua các thời kỳ lịch sử
Hiện nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về khoa học
quản lý giáo dục, hoạt động quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng
xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Ở phương Đông các tư tưởng về giáo dục đã có cách đây hơn 2500
năm. Theo Khổng tử (551-479 TCN) : đã đưa luận thuyết đức trị là nguyên
tắc cao nhất, và cốt lõi là lòng nhân ái ở con người, với hệ thống tư tưởng là:
Nhân- Lễ - Nghĩa – Trí - Tín, thì Nhân là đứng đầu, là quan trọng nhất;
Khổng Tử coi trọng việc dưỡng hiền tài, dưỡng dân, giáo dân. Người quản lý
phải làm việc đúng với danh hiệu, chức vị, phạm vi quyền hạn của mình. Ông
tin tưởng với “đức trị” có thể biến đổi duy trì sự bình yên, trật tự xã hội,
Khổng Tử coi “dân là gốc”. Tư tưởng của Khổng Tử đã ngự trị hàng bao thế
kỹ trong đời sống tinh thần của con người trong các nước Châu Á.
Các đề xuất của Comenxki ngày nay vẫn còn giá trị đối với nhiều quốc
gia trên thế giới, ông đã nêu các vấn đề về mục đích giáo dục, nội dung
chương trình, phương pháp giáo dục, phân chia cấp học, độ tuổi các trẻ, tổ
chức thành trường - lớp để giáo dục, kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh…
Nhà giáo dục Ma-ka-ren-kô đã đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn giáo
dục, trại Gooc-ki và công xã Dec-din-ski nơi giáo dục trẻ em hư hỏng và
phạm pháp, ông đã giáo dục thành công về nhân cách những trẻ vị thành niên,
ông đã đưa ra định nghĩa mới về khái niệm kỉ luật: “Kỉ luật là sản phẩm của
tất cả ảnh hưởng giáo dục hợp lại, bao gồm cả quá trình giáo dục nhà trường,
6
quá trình giáo dục chính trị, giáo dục phong cách, quá trình đối phó và dàn
xếp bất hòa, xung đột trong nội bộ tập thể, hình thành tình bằng hữu và thiết
lập các mối quan hệ tin cậy lẫn nhau. Nói tóm lại, đó là tất cả những điều mà
một quá trình giáo dục có thể bao gồm được”.
Ma-ka-ren-kô nêu lên những yêu cầu của một kỉ luật đúng:
Trước hết học sinh phải tin tưởng rằng: kỉ luật là một hình thức cho
phép tập thể đạt đến mục tiêu của mình một cách tốt đẹp nhất, để từ đó thay
đổi được nhân cách các em. Cũng xin nhấn mạnh là: trường học Ma-ka-ren-
kô quản lý là trường dành cho các em hư hỏng về nhân cách, đã được giáo
huấn, rèn luyện, học nghề, rồi đưa các em trở về cuộc sống bình thường trong
xã hội, là trường học đã vận dụng phương pháp luận của triết học Mác-Lênin
vào lĩnh vực giáo dục có hiệu quả.
Hai là, khẳng định rằng kỉ luật đã đặt mỗi cá nhân riêng lẻ vào một vị
trí an toàn và tự do hơn đối với mỗi người.
Trong một tập thể có kỉ luật mỗi cá nhân được yên ổn hơn, được đảm
bảo an toàn đầy đủ hơn, tin tưởng vào tài năng, tương lai của mình hơn.
Nhà trường hiệu quả (Effective School)
Nhà trường hiệu quả thể hiện ở việc sử dụng các nguồn lực hiệu quả
trong các hoạt động của nhà trường. Liên quan đền hiệu quả đào tạo của nhà
trường. Các nghiên cứu và chọn lọc về cách quản lý nhà trường như:
- Văn hóa nhà trường (VHNT) là môi trường cần thiết cho hoạt động
giáo dục học sinh .
- Quản lý sự thay đổi trong trường học.
- Tầm nhìn, sứ mệnh và chiến lược phát triển nhà trường trong tương lai.
- Quản lý chất lượng giáo dục đào tạo , phát triển các giá trị văn hóa.
- Xây dựng động lực nhóm trong mọi hoạt động trường học.
- Phát huy mạng lưới truyền thông và thông tin trong nhà trường
7
- Nhà trường hiệu quả phụ huynh yên tâm khi đưa con em đến trường.
1.1.2. Vài nét về quản lý trường học ở Việt Nam
Trong ngày khai trường đầu tiên của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, mọi người dân đã được hưởng một nền giáo dục cách mạng, những
người lao động được học hành, cùng nhau xây dựng lại đất nước.
Trong ngày khai trường đầu tiên năm 1945. Niềm mong ước của Chủ
Tịch Hồ Chí Minh: “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân
tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tâp của các em.”
Trong bài nói chuyện của Bác Hồ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
(ngày 21.10.1964 ) Bác Hồ đã nói:
1.Trước hết phải đoàn kết: Đoàn kết thật sự giữa thầy và thầy, giữa thầy
và trò, giữa trò và trò, giữa cán bộ và công nhân…
2. Các cháu học sinh không nên học gạo, không nên học vẹt … Học
phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành.
Học và hành phải kết hợp với nhau.
3. Cần phải giữ kĩ luật cho tốt, phải sạch sẽ, gọn gàng. Kiên quyết
chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, chống lề mề, luộm thuộm.
Tại hội nghị tổng kết phong trào thi đua “dạy tốt học tốt” tháng 8.1963,
Bác Hồ đã nói: “…Nội dung giáo dục cần chú trọng hơn nữa mặt đức dục,
dạy cho các cháu đạo đức cách mạng, biết yêu tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội,
yêu khoa học, yêu lao động và yêu người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn
sàng tham gia lao động và bảo vệ tổ quốc …
Về học tập và giảng dạy, phải thực hiện tốt phương châm giáo dục phài
kết hợp với lao động sản xuất. Về lao động, cần tổ chức thích hợp với lứa tuổi
và sức khỏe của học sinh. Về giảng dạy, tránh lối dạy nhồi sọ. Chương trình
8
dạy học hiện nay còn có chỗ quá nhiều, quá nặng về học tập, tránh lối học
như vẹt. Ngoài ra cần chú ý tránh nói đến nước ngoài quá nhiều …”
Các trường Sư phạm đã nghiên cứu và thừa kế các thành tựu khoa học
quản lý giáo dục của khu vực và trên thế giới, hiểu rõ đặc điểm quản lý xã hội
và con người Việt Nam, từ đó xây dưng phát triển giáo dục của đất nước.
Trong quản lý giáo dục, từ thực tiễn phát triển nền giáo dục Việt Nam,
nhiều năm qua có nhiều học giả đã nghiên cứu và tìm hiểu sâu nhiều vấn đề
về giáo dục như: xác định mục tiêu giáo dục, nhiệm vụ trọng tâm, nội dung
quản lý, chức năng và quy trình quản lý của nhà trường; vai trò chức năng,
nhiệm vụ của người hiệu trưởng và rất nhiều công trình nghiên cứu khác cho
hoạt động quản lý giáo dục.
Đã có một số luận văn, tiểu luận và bài viết nghiên cứu thực trạng bạo
lực học đường như Tiến sĩ Trần Viết Lưu: Bạo lực học đường nhìn từ góc độ
văn hóa và giáo dục; Lê Thị Hồng Thắm và Tô Gia Viên: nguyên nhân dẫn
đến bạo lực học đường.
Một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về quản lý hiệu trưởng ở các cơ sở
giáo dục, các trường THPT trong nhiều lĩnh vực như: nghiên cứu về công tác
quản lý dạy học, quản lý về nền nếp giảng dạy, Biện pháp quản lý của hiệu
trưởng về phòng chống bạo lực học đường ở một số trường THPT. Và rất
nhiều đề tài khác đã được nghiệm thu, sát thực với các vấn đề thực tiễn.
Trong những năm làm công tác quản lý trong các trường học như:
THPT Đức Trọng, THPT Chu Văn An, và THCS &THPT Nguyễn Trãi, bản
thân tác giả cũng tích lũy được một số kinh nghiệm khi viết cho đề tài luận
văn “Biện pháp quản lý phòng, chống BTHĐ trong học sinh THPT ngoài
công lâp”
Thời gian gần đây hiện tượng bạo lực học đường ngày càng gia tăng về
số lượng và tần suất gây bức xúc trong xã hội và phụ huynh học sinh, lo lắng
9
của phụ huynh và học sinh khi con em đến trường học, BLHĐ để lại hậu quả
tinh thần và thể chất trong học sinh, tình hình an ninh trật tự - an toàn xã hội.
Gây bức xúc trong nhân dân. Một trong những nguyên nhân của thực trạng đó
là các biện pháp quản lý nhà trường, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào –
nghiên cứu để đề xuất các biện pháp cụ thể phòng chống BLHĐ nói chung, và
BLHĐ trong HS THPT ngoài công lập Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng.
Đề tài luận văn này hướng vào giải quyết vấn đề đó.
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý phòng, chống BLHĐ
1.2.1 Một số đặc điểm tâm - sinh lý đặc trưng của lứa tuổi THPT:
Đây là lứa tuổi có nhiều thay đổi giữa các giai đoạn phát triển tâm lý,
các nhà tâm lý cho rằng: hành vi của trẻ thường mang tính đột khởi, tò mò,
manh động, muốn thử sức. Ứng xử có xu hướng chống đối.
Học sinh trong các trường THPT độ tuổi từ 14 đến 18 tuổi chưa thực sự
hoàn thiện về mặt nhận thức thường hay có những hành vi trái pháp luật, đây là
những hành vi bạo lực đối với học sinh khác cùng trường hoặc khác trường, dẫn
đến hậu quả rất nghiêm trọng cho bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội.
Việc phân đoạn quá trình phát triển tâm lý cho thấy những nét đặc trưng
của từng lứa tuổi. Trên cơ sở điều kiện hoàn cảnh khách quan và chủ quan.
- Quá trình phát triển tâm lý con người là quá trình liên tục. Mỗi giai
đoạn phát triển tâm lý vừa mang tính kế thừa, vừa mang tính phát triển nên
việc phân đoạn phát triển tâm lý có tính tương đối. 14 - 15 tuổi có người gọi
là giai đoạn đầu lứa tuổi thanh niên nhưng có người gọi đó là giai đoạn cuối
của tuổi thiếu niên.
- Hiện nay tồn tại nhiều cách phân đoạn quá trình phát triển của con
người tùy góc độ nghiên cứu:
* Xuất phát từ đặc điểm phát triển tâm lý
* Từ góc độ xã hội học dựa vào sự thay đổi hoạt động xã hội
10
Trong tâm lý học có thể xác định tuổi thanh niên từ 14 - 18 tuổi, là độ
tuổi học sinh THPT, tương đồng với hai góc độ phân đoạn trên. Đây là lứa
tuổi có nhiều biến đổi về nhân cách rõ rệt.
Các quan hệ xã hội của thanh niên được mở rộng. Thầy cô giáo, cha
mẹ nhìn nhận thanh niên như những người chuẩn bị thành người lớn, trưởng
thành và đòi hỏi phải có cách ứng xử phù hợp. Mặt khác, học sinh THPT
đứng trước một thách thức khách quan của cuộc sống; phải lựa chọn cho mình
một hướng đi sau khi tốt nghiệp THPT; phải có một số kỹ năng cần thiết để
có một cuộc sống độc lập trong xã hội.
Tuổi học sinh THPT, các chức năng tâm lý cũng nhiều thay đổi, nhất là
sự phát triển trí tuệ và khả năng tư duy. Hoạt động tư duy của thanh niên rất
tích cực và có tính độc lập, tư duy lý luận phát triển mạnh. Sự phát triển mạnh
của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo, nhờ đó thanh
niên có thể tự mình phát hiện ra những cái mới.
Học sinh THPT có xu hướng đánh giá cao những thầy cô có phương
pháp giảng dạy tích cực. Tôn trọng những suy nghĩ độc lập của người khác,
phê phán sự máy móc, gò ép trong phương pháp giảng dạy.
Khi đánh giá con người, HS chú ý đến phẩm chất, nhân cách có tính
bền vững như các đặc điểm trí tuệ, năng lực, tình cảm, ý chí, thái độ đối với
quan hệ với những người khác trong xã hội.
Từ chỗ nhìn nhận được những phẩm chất của người khác, dần dần
người thanh niên tự phát hiện ra thế giới nội tâm của bản thân mình.
Trên cơ sở tiếp thu các tri thức chung, HS ý thức được mối quan hệ
giữa các thuộc tính tâm lý, các phẩm chất nhân cách, tạo được hình ảnh “cái
tôi” của mình để từ đó xây dựng mối quan hệ với người khác.
Biểu tượng về “cái tôi” trong giai đoạn đầu của thanh niên thường chưa
rõ nét nên tự đánh giá về bản thân không ổn định và có tính mâu thuẫn. Về
11
tâm lý thanh niên cũng dễ rơi vào trạng thái nghi ngờ “cái tôi” nên dễ bức
xúc, không tự chủ. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè đồng lứa tuổi phát triển mạnh
ở lứa tuổi này, từ đó giúp HS hiểu mình hơn, đánh giá lại bản thân chính xác
hơn thông quan nhưng cuộc trao đổi thông tin, đánh giá các vấn đề, hiện
tượng mà mình quan tâm.
Ở giai đoạn đầu HS THPT rất nhạy cảm với những đặc điểm của hình
thức thân thể. So mình với người khác qua đặc điểm bên ngoài. Đây là hiện
tượng thường gặp ở học sinh THPT, bắt chước thầy cô giáo các em yêu quý
hay một người mẫu lý tưởng mà HS thích từ cách ăn mặc, cử chỉ, dáng đi…
Trong giai đoạn phát triển tiếp theo các đặc điểm nhân cách như tình
cảm, trí tuệ, năng lực, ý chí, động cơ, mục đích học tập, làm việc…ngày càng
tạo nên hình ảnh riêng của mình có hệ thống, có chiều sâu, sống động hơn.
+HS THPT cảm nhận về “tính chất người lớn”:
Cảm nhận về “tính chất người lớn” của chính bản thân là một trong
những nét tâm lý đặc trưng của HS, xuất hiện trong giai đoạn chuyển từ lứa
tuổi thiếu niên sang tuổi thanh niên.
Sự cảm nhận ở lứa tuổi thanh niên là một trong những yếu tố tâm lý,
làm cho tần số giao tiếp giữa cha mẹ và con cái giảm xuống và thay vào đó là
nhu cầu giao tiếp của thanh niên với bạn đồng lứa tuổi, từ đó tạo mối liên kết
nhóm, cùng sở thích, cùng nhu cầu…
Bước sang tuổi thanh niên, các em cảm nhận rằng mình đã lớn hay
mình cũng gần giống người lớn. Ranh giới giữa tuổi thanh niên và tuổi người
lớn trong mỗi cá nhân không thể hiện một cách rõ ràng. Trong mối quan hệ xã
hội có xu hướng cố gắng thể hiện mình như người lớn, so sánh mình với
người lớn, muốn tự lập, tự chủ trong giải quyết các vấn đề riêng.
So sánh với người lớn nhưng học sinh THPT vẩn còn phụ thuộc vào
gia đình, xuất hiện mâu thuẫn trong ý muốn chủ quan và thực tế khách quan:
12
muốn trở thành người lớn nhưng ý thức rằng mình chưa đủ khả năng, đã tạo
ra thay đổi lớn trong lĩnh vực tình cảm của lứa tuổi thanh niên.
Theo thói quen thông thường, các bậc cha mẹ vẫn xem con mình vẫn
còn như những đứa trẻ, ít chú ý đến nhu cầu nội tâm, quan hệ theo kiểu sai
khiến, áp đặt, cứng nhắc Từ nhận thức đó, thanh niên nam nữ dần dần hình
thành những nhu cầu, động cơ, định hướng giá trị, các quan hệ và các kiểu
hành vi đặc trưng của bản thân.
+ Hình thành thế giới quan trong độ tuổi thanh niên:
Nhà trường đã giúp HS tiếp thu được các quy luật tự nhiên - xã hội,
phát triển tư duy lý luận. Từ đó liên kết các tri thức riêng lẻ lại để trở thành
một biểu tượng chung về thế giới của riêng mình.
Đối với HS THPT, biểu tượng chung về thế giới có ý nghĩa lớn về nhân
cách, tìm một hướng đi, một nghề nghiệp, một dự định cho cuộc sống. Như vậy,
thế giới quan tức là quan niệm về thế giới nói chung, về sự tồn tại, mối liên hệ
giữa con người với tự nhiên, những định hướng cơ bản được hình thành.
Để chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới, thanh niên thường đặt các
câu hỏi về cuộc sống, khả năng nhận thức, đánh giá, khả năng thực hiện,
khoảng cách phát triển tự phát và phát triển có hướng dẫn của giáo dục.
Ở nước ta hiện nay, các giá trị xã hội có nhiều biến động, không ít
thanh niên không có định hướng nghề nghiệp rõ nét, chưa xác định được ý
nghĩa cuộc sống, không có kế hoạch cho bản thân. Hiện tượng này không
những do phát triển tâm sinh lý tuổi thanh niên mà còn do những khiếm
khuyết về giáo dục ở nhà trường, gia đình và xã hội, sự hướng dẫn, giảng dạy,
giúp đỡ bằng các biện pháp cụ thể, phù hợp của thế hệ đi trước và những
thanh niên thành đạt cho thế hệ đi sau.
Khía cạnh quan trọng trong hình thành thế giới quan ở thanh niên là phát
triển ý thức đạo đức - bắt đầu từ tuổi thiếu niên. Các em biết phân loại hành vi
13
của bản thân và của người khác theo các phạm trù đạo đức, đưa ra những chính
kiến của riêng mình trong các vấn đề. Sang tuổi thanh niên, ý thức đạo đức đã
phát triển lên một bậc cao hơn về nhận thức tình cảm và hành vi.
Ở khía cạnh tình cảm, các chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa riêng tư với
thanh niên và khơi dậy những cảm xúc đặc biệt. Ở tuổi thanh niên, niềm tin,
đạo đức bắt đầu hình thành. Từ người chấp nhận trở thành chủ thể tích cực
nên thanh niên thường tìm kiếm những hình mẫu lý tưởng.
Đối với học sinh THPT, việc tìm hình mẫu lý tưởng một cách có
ý thức, cụ thể, biết phê phán, chọn lựa. Trong chọn lựa hình mẫu lý tưởng đôi
kho có tính lan truyền từ người này sang người khác. Về phương diện trí tuệ
thanh niên hiểu được tính tương đối của các chuẩn mực.
Theo nghiên cứu của tổ chức Y tế thế giới (WHO) tuổi vị thành niên
chịu ảnh hưởng của các tác nhân từ môi trường sống, đặc biệt gia đình; ở lứa
tuổi này thường biểu hiện trạng thái cảm xúc quá mức với các cấp độ khác
nhau như sự phản kháng lại trong gia đình và ngoài xã hội; bản thân học sinh
chưa ổn định nhân cách, nói năng ứng xử thường vụng về, nên người xưa
thường nói:“Trẻ lên ba nói muốn cười, trẻ lên mười nói muốn đánh”.
1.2.2. Một số nguyên nhân dẫn đến BLHĐ
1.2.2.1. Khái niệm về bạo lực học đường
Bạo lực học đường là hệ thống xâu chuỗi lời nói, hành vi, mang tính
miệt thị, đe dọa, khủng bố người khác, để lại thương tích trên cơ thể, thậm chí
dẫn đến tử vong, đặc biệt gây tổn thương đến tư tưởng, tình cảm, tâm lý cho
những đối tượng trực tiếp tham gia.
Bạo lực học đường trong học sinh thường thể hiện ở những hành vi
như kết băng nhóm hăm dọa bạn bè, ăn hiếp người nhỏ hoặc yếu thế, có thể là
hành vi trấn lột đồ, tiền của bạn khác hoặc thậm chí có thể do ghét nhau lâu
ngày dẫn đến xô xác đánh nhau hoặc đánh nhau có sử dụng hung khí…
14
Trong đề tài này thuật ngữ bạo lực học đường ở nước ta hiện nay
thường để chỉ các cuộc xung đột, ẩu đả, giữa các nhóm, trong nội bộ học sinh,
hoặc giữa người học với người dạy.
Xét về góc độ văn hóa: thì hiện tượng bạo lực học đường là một hiện
tượng phản văn hóa, coi thường pháp luật, nội quy trường học, đi ngược lại
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp trong xã hội, trong nhà trường.
Xét từ góc độ giáo dục: bạo lực học đường là sự phản ảnh kết quả giáo
dục không được như mong muốn, là một trong những biểu hiện xuống cấp về
chất lượng giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, chuẩn mực văn hóa truyền
thống dân tộc.
Với đề tài này chỉ chọn đối tượng học sinh THPT ngoài công lập huyện
Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng để nghiên cứu.
1.2.2.2. Nguyên nhân trực tiếp BLHĐ:
Qua tìm hiểu trên các phiếu trưng cầu ý kiến, qua phỏng vấn, tham
khảo bản tổng kết năm học-an ninh trật tự các trường học, ngành công an thì
nguyên nhân gây ra BLHĐ trong học sinh trục tiếp là mâu thuẫn trong học
tập, những va chạm bên ngoài xã hội, những biểu hiện thiếu văn hóa, nhìn
thấy ghét thì đánh, một câu nói đùa, do tình ái trong học sinh, không lí do gì
cả - thích thì đánh, trấn lột tiền, người khác xúi dục, ganh tị nhau trong học
tập, giành giật nhau, bản tính côn đổ hung hãn của vài cá nhân học sinh, do
đua đòi và rất nhiều lý do khác ….
1.2.2.3. Nguyên nhân môi trường xã hội :
Môi trường xã hội hình thành nên nhân cách học sinh là:
Gia đình, nhà trường, bạn bè, phim ảnh bạo lực, game online …HS các
trường THPT có nguyên nhân BLHĐ đều xuất phát từ môi trường xã hội.
15
Môi trường gia đình
Các vụ BLHĐ ở học sinh các trường THPT nhìn chung gia đình có
khiếm khuyết như: cha mẹ li hôn, cha mẹ lo làm ăn thiếu sự quản lý, ít quan
tâm dạy dỗ con cái, có phụ huynh “khoán trắng” con cho nhà trường, không
quan tâm đến thời gian con đi học, học sinh chơi bời lêu lỏng-giao du kết bạn
với thanh niên quậy phá, phụ huynh không liên lạc tìm hiểu việc học của con
với giáo viên chủ nhiệm. Không hợp tác với giáo viên chủ nhiệm để cùng
giáo dục khi các em vi phạm nội quy; cho con quá nhiều tiền tiêu xài, cho nên
các em rất dễ hư hỏng.
Giáo dục trong nhà trường
Mục tiêu giáo dục được xác định là giáo dục toàn diên, hình thành nhân
cách cho học sinh, trong đó có giáo dục đạo đức và giáo dục kĩ năng sống.
tình tương thân-tương ái. Nhưng nạn bạo lực học đường vẫnngày càng gia
tăng tới mức báo động.
Lâu nay nhà trường chỉ dạy nhiều kiến thức, ít chú trọng dạy các em kĩ
năng sống, tổ chức tự quản trong học sinh, mà chỉ nghe nói trên lớp. Hầu hết
các em đều lúng túng khi giải quyết các mâu thuần xung đột trong lớp, hoặc
chỉ dùng bạo lực với nhau trong lớp, trong trường và cuộc sống thường ngày.
Cần giáo dục cho học sinh biết cách suy nghĩ đúng, tôn trọng danh dự
bản thân và người khác, tôn trọng và chấp hành pháp luật, nội quy nhà trường.
Trong thời gian qua chưa giáo dục tốt đạo đức công dân cho học sinh, hình
thức kỉ luật đối với những trường hợp vi phạm BLHĐ, chưa đủ mức răn đe
- Sự quá tải kiến thức: giáo viên và học sinh phải dành nhiều công sức
để hoàn thành bài dạy, hoàn thành chương trình. Mức độ quá tải đã được chất
chứa nhiều trong sách giáo khoa, đồng thời giáo viên còn nâng cao hơn một
bước nữa để rèn tư duy cho học sinh.( năm học 2011-2012 BGD&ĐT đã có
chương trình giảm tải nội dung kiến thức)
16
- Hiện tượng học thêm, học sinh không còn đủ thời gian tham gia một số
hoạt động có nội dung giáo dục đạo đức lối sống hay học một số kỹ năng sống.
Thực tế khi dạy một số môn học trong trường phổ thông, giáo viên ít
đưa ra tình huống thực tế để cùng thảo luận. Một số môn học tích hợp giáo
dục KNS, các bài giảng nặng về lý thuyết ít thực hành, và thời lượng rất ít.
Phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã đi
vào chiều sâu tác động tốt đến môi trường giáo dục.
Môi trường bạn bè
Bạn bè, có mối liên kết mật thiết với mỗi cá nhân học sinh. Tục ngữ có
câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, tuổi vị thành niên rất khó tự chủ,
rất dễ bốc đồng, các em rất dễ bị lôi kéo vào những việc làm xấu của bạn bè.
Trong lứa tuổi này các em thường chọn người cùng tích cách để làm bạn,
những học sinh cá biệt thường kết thân với nhau, xuất hiện các băng nhóm
quậy phá, khiến nạn bạo lực học đường ngày càng gia tăng.
- Ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng:
Đây cũng là nguyên nhân khiến BLHĐ ngày càng gia tăng, học sinh
tiếp xúc nhiều kiểu phim bạo lực, trò chơi game online đánh nhau, bắn súng,
đâm chém, giết người…Trong tư tưởng các em không hề sọ sệt trước cảnh
đánh nhau, đâm chém, bắn giết, thâm chí bản thân không sợ chết…Nếu không
có sự kiểm soát chặt chẽ các quy định của cơ quan nhà nước, của gia đình, thì
game online là một nguyên nhân dẫn đến phạm tội.
Hiện nay Nhà nước ta đã có những văn bản quy định kinh doanh
Internet, về khoản cách nơi mở internet đến trường phải hơn 200m, giờ mở
cửa không quá 22 giờ , nhưng văn bản pháp qui về công tác quản lý kinh
doanh chưa thực hiện tốt, chưa đi vào cuộc sống xã hội với ý thức tự giác.
Quá trình mở cửa hội nhập đã đẩy mạnh sự giao thoa văn hóa nhân loại
vào Việt Nam. Quá trình này không tránh khỏi những luồng gió độc hại du
17
nhập một cách ngẫu nhiên hoặc có chủ định (âm mưu “diễn biến hòa bình”)
làm tổn hại đến giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Những cảnh bạo lực trong phim ảnh, trò chơi bạo lực đã chuyển tải đến
tư tưởng học sinh và kích thích những học sinh hành động trái đạo đức. Khi
xem phim, sách báo mang nội dung bạo lực, học sinh chịu ảnh hưởng văn hóa
ứng xử thiếu tính nhân văn, những trò chơi chém giết, bắn phá trên mạng, đã
gián tiếp đưa vào suy nghĩ học sinh cách ứng xử kiểu côn đồ, băng nhóm vốn
đang ngày càng gia tăng, bất chấp và coi thường pháp luật.
1.2.3. Quản lý của nhà trường
1.2.3.1 Khái niệm về quản lý
Quản lý là một loại hình hoạt động quan trọng nhất trong các hoạt động
của con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận thức được quy luật,
vận động theo quy luật và chắc chắn đạt được những thành công lớn. Khoa
học quản lý xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Là một
phạm trù tồn tại khách quan, ra đời tất yếu do nhu cầu của một chế độ xã hội,
mọi tổ chức, một quốc gia, mọi thời đại, khoa học quản lý là một lĩnh vực lao
động trí tuệ và thực tiễn phức tạp của con người nhằm điều khiển lao động,
thúc đẩy sự phát triển của xã hội trên tất cả mọi phương diện, mang tính lịch
sử, tính giai cấp và tính dân tộc.
Theo Giáo sư Hà Sĩ Hồ: Quản lý là một hoạt động có định hướng, có tổ
chức, lựa chọn trong các đối tượng có thể dựa trên các thông tin về tình trạng
của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định.
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Như vậy, quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu
xác định, quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận là chủ thể quản lý và
đối tượng quản lý, đây là quan hệ ra lệnh - phục tùng, không đồng cấp và có
18
tính bắt buộc. Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp
với quy luật khách quan, có khả năng thích nghi giữa chủ thể quản lý với đối
tượng quản lý và ngược lại.
1.2.3.2. Chức năng quản lý
Chức năng quản lý có tác động vào đối tượng quản lý nhằm thực hiện
mục tiêu nhất định. Trong quá trình phát triển xã hội, chức năng quản lý
không ngừng biến đổi, cải tiến và hợp lý hóa. Các nhà nghiên cứu quản lý đã
đưa ra các chức năng khác nhau với công tác giáo dục, họ đã nêu ra bốn chức
năng quản lý như sau:
Kế hoạch hóa: Là chức năng hạt nhân quan trọng nhất của quá trình
quản lý. Kế hoạch được hiểu là tập hợp những mục tiêu cơ bản sắp xếp theo
một trình tự nhất định, logic với chương trình hành động cụ thể đạt được các
mục tiêu đã được hoạch định. Kế hoạch đặt ra phải xuất phát từ đặc điểm tình
hình cụ thể của tổ chức, những mục tiêu cần hướng tới, dưới sự tác động có
định hướng của chủ thể quản lý.
Tổ chức: Là việc sắp xếp, bố trí một cách khoa học những nguồn lực
của hệ thống thành nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau để đạt được
mục tiêu của hệ thống một cách tối ưu nhất.
Chỉ đạo: nhằm điều hành, điều chỉnh hoạt động của hệ thống nhằm
thực hiện đúng kế hoạch. trong quá trình chỉ đạo, người quản lý phải bám sát
các hoạt động của hệ thống, kịp thời uốn nắn, sửa chữa những sai sót nhằm
giữ vững mục tiêu mà kế hoạch đã đề ra.
Kiểm tra đánh giá: Chủ thể quản lý phái thu thập những thông tin
ngược từ đối tượng quản lý để xem xét, đánh giá, kịp thời phát hiện những sai
sót để điều chỉnh. Đồng thời tìm ra những nguyên nhân của thành công hay
thất bại để rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình quản lý tiếp theo.
19
Tổng hợp 4 chức năng trên tạo nên nội dung của quá trình quản lý. Các chức
năng trên có thể diễn ra độc lập với nhau, có thể diễn ra đồng thời hoặc kết
hợp với việc thực hiện các chức năng khác. Ngoài 4 chức năng đã nêu, chủ
thể quản lý phải sử dụng thông tin như là một công cụ hay chức năng đặc biệt.
Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ các chức năng trong chu trình quản lý
1.2.3.3. Nguyên tắc quản lý
Nguyên tắc đảm bảo tính Đảng: các nhà quản lý phái bám sát vào chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của hệ thống. Mục đích giáo dục phải nằm trong mục đích lý tưởng của Đảng
đó là: “Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Nhà quản lý phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm phương pháp luận.
Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đảng lãnh đạo, chính quyền quản
lý,giáo viên-học sinh làm chủ. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng.
Trong quá trình quản lý. Người quản lý phải biết lắng nghe, chọn lọc ý
kiến, biết sử dụng quyền tập trung một cách đúng lúc, đúng chỗ, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và thực tiễn: Nhà quản lý phải biết
vận dụng lý thuyết vào thực tiễn , phải dựa vào triết học Mác-Lênin và tư
20
Kiểm tra Tổ chức
Tiền kế hoạch
Kế hoạch hóa
Thông tin
Chỉ đạo thực
hiện
tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho mọi hoạt động và lấy đó làm phương pháp
luận cho hoạt động của mình.
1.2.4. Quản lý của hiệu trưởng trường THPT:
1.2.4.1 Hiệu trưởng trường trung học phổ thông
Hiệu trưởng là người đại diện cho nhà trường, chịu trách nhiệm trước
ngành giáo dục và nhà nước về toàn bộ hoạt động trong trường; là người nắm
được các thồng tin quản lý, có quyết định kịp thời về công tác quản lý nhà
trường. Hiệu trưởng là nhà sư phạm mẫu mực, là người nghiên cứu khoa học,
là nhà hoạt động xã hội, là người tổ chức hoạt động thực tiễn.
Vì vậy, hiệu trưởng cần có kĩ năng lí luận, xây dưng kế hoạch, để tổ
chức công việc, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, phát huy nội lực của tập thể, kiểm
tra đánh giá giảng dạy và học tập của học sinh, giải quyết xung đột trong HS.
Nhiệm vụ và quyền hạn của hiệu trưởng được nêu rõ tại điều 19, của
Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông có nhiều cấp học (thông tư 12/2011/TT-BGD&ĐT ngày 28.3.2011 của
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo) như sau:
• Xây dựng tổ chức, bộ máy nhà trường;
• Thực hiện các Nghị quyết, Quyết nghị của hội trường được quy định tại
khoản 3, điều 20 của Điều lệ này;
• Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
• Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công tác,
kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực hiện công tác
khen thưởng, kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định của nhà
nước; quản lý hồ sơ tuyển dụng giáo viên, nhân viên;
• Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức;
xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, kí xác nhận học bạ, kí xác
21
nhận hoàn thành chương trình của học sinh theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
• Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường;
• Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân
viên, học sinh; tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của
nhà trường; thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục của nhà trường.
• Chịu trách nhiệm trước cấp trên toàn bộ các nhiệm vụ được quy định
trong khoản 1 của điều lệ này…
1.2.4.2. Quản lý của hiệu trưởng phòng chống BLHĐ trường trung
học phổ thông ngoài công lập
Để nhà trường được ổn định đi vào hoạt động dạy và học có nề nếp thì
việc xây dựng nề nếp trường lớp, thực hiện nội qui nhà trường hết sức cần
thiết. Trong đó bạo lực học đường trong học sinh đã ảnh hưởng đến uy tín,
vả kết quả giáo dục của trường,
* Xây dựng nội qui học sinh trong các nhà trường: được thực hiện theo
điều 38, 39, 40, 41, 42 của “điều lệ trường THCS, trường THPT và trường
phổ thông có nhiều cấp học (theo thông tư 12/2011/TT-BGD&ĐT ngày
28.3.2011 của BGD&ĐT ), trong đó điều 41 về “các hành vi học sinh không
được làm”, chú trọng nhiều hơn đối với đề tài này vì có liên quan đến học
sinh đánh nhau, gây rối an ninh trật tự trong và ngoài nhà trường là:
1.Xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể giáo viên, cán bộ
nhân viên của nhà trường, người khác và học sinh khác
2. Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử, tuyển sinh
3. Làm việc khác; sử dụng điện thoại di động hoặc máy nghe nhạc trong
giờ học; hút thuốc, uống rượu, bia và sử dụng các chất kích thích khác khi
đang tham gia các hoạt động giáo dục.
4. Đánh nhau, gây rối trật tự, an ninh trong nhà trường và nơi công cộng.
22
5. Lưu hành, sử dụng các ấn phẩm độc hại, đồi trụy, đưa thông tin không
lành mạnh lên mạng; chơi các trò chơi mang tính kích đọng bạo lực, tình dục;
tham gia các tệ nạn xã hội.
* Thực hiện “việc khen thưởng và thi hành kỹ luật học sinh các
trường phổ thông” các trường dựa vào thông tư 08/TT ngày 21.3.1988 của
Bộ Giáo Dục. Trong đó có các mức xử lý kỹ luật như sau:
1. Khiển trách trước lớp.
2. Khiển trách trước Hội đồng kỹ luật nhà trường
3. Cảnh cáo trước toàn trường
4. Đuổi học 1 tuần lễ
5. Đuổi học 1 năm
Việc gây gỗ đánh nhau, BLHĐ trong học sinh thường mức kỹ luật từ
cảnh cáo trở lên, đúng theo qui định: thông báo về địa phương và ghi vào học
bạ học sinh. Nhưng các trường thường bỏ qua khâu này, nên tính răng đe học
sinh tái phạm rất thấp, và tính giáo dục vẫn còn xem nhẹ.
1.2.5. Tổ chức giáo dục, nâng cao nhận thức về phòng, chống BLHĐ
1.2.5.1. Hậu quả của nạn bạo lực học đường trong học sinh THPT
Trước tiên hậu quả sẽ thuộc về chính các em học sinh, cả những em sử
dụng bạo lực và những em là nạn nhân của bạo lực. Khi bạo lực xảy ra, gây
tổn thương đến thể xác của cả hai bên đặc biệt là nạn nhân học sinh, có nhiều
trường hợp có thể dẫn đến tử vong, thương tật nặng. Ngoài ra còn ảnh hưởng
đến tinh thần, sự hoảng loạn, sợ hãi không dám đi học và lâu ngày sẽ ảnh
hưởng đến kết quả học tập, những di chứng của thời niên thiếu bị kéo dài cho
tới khi trưởng thành.
Theo một nghiên cứu của tiến sĩ Catherine Blaya thuộc Đại học
Bordeaux 2( Pháp), khoảng 20-40% nạn nhân của các vụ bạo lực học đường
23
đã tái diễn chính những hành động bạo lực mà các em từng phải chịu nhằm
vào các nạn nhân khác.
Trước thực trạng bạo lực học đường gia tăng, không ít các bậc phụ
huynh lo âu cho con cái, ảnh hưởng đến tương lai HS,…
Nhà trường vốn là môi trường an toàn nhưng giờ đây thì đã khác rất
nhiều. Cảnh bạo lực diễn ra nhiều nơi, ngay trong lớp, trong giờ học, ngoài
sân trường, nhà vệ sinh, trước cổng trường, đằng sau trường…Trước tình
trạng đó ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả học tập chung của toàn trường.
Thực trạng đạo đức như hiện nay trong các trường THPT thật đáng lo
ngại. khi một thế hệ mới đang chứa trong nó rất nhiều vấn đề mâu thuẩn bất
ổn cho xã hội.
1.2.5.2. Giáo dục đạo đức cho học sinh
Cung cấp cho các em những tri thức đạo đức cơ bản về các chuẩn
mực hành vi, trên cơ sở đó hình thành niềm tin đạo đức cho các em, giáo dục
đạo đức trong các mối quan hệ sau:
- Quan hệ với xã hội và cộng đồng.
- Quan hệ với công việc, lao động: chăm chỉ, kiên trì…
- Quan hệ với mọi người: trong gia đình, trong trường, trong lớp, và
cộng đồng xã hội …
- Quan hệ với tài sản xã hội, tài sản của người khác.
- Quan hệ với thiên nhiên: môi trường sống, môi trường tự nhiên…
- Quan hệ với bản thân: khiêm tốn, thật thà, tự trọng…
Trong các mối quan hệ đó cần giáo dục cho các em :
* Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức: là thức tỉnh những rung động,
những xúc cảm đối với hiện thực xung quanh. Biết yêu gia đình, yêu lớp học,
yêu quê hương, yêu đất nước…Có thái độ rõ ràng với biểu hiện tiêu cực, hành
vi sai trái…
24
* Giáo dục hành vi thói quen đạo đức:
- Luôn kính trọng người trên, thầy cô giáo, nhân viên nhà trường. có ý
thức xây dựng tập thể, đoàn kết với các bạn.
- Thực hiện nghiêm túc nội qui nhà trường; chấp hành tốt pháp luật, qui
dịnh về trật tự-an toàn xã hội, an toàn giao thông, tích cực tham gia đấu tranh
phòng, chống BLHĐ, tệ nạn xã hội và tiêu cực trong nhà trường…
1.2.5.3. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Khái niệm kỹ năng sống (KNS):
Kỹ năng sống là năng lực, khả năng tâm lý xã hội cùa con người có thể
ứng phó với những thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tình huống và
giao tiếp có hiệu quả.
Quan niệm rộng nhất là quan niệm do Tổ chức Văn hóa, Khoa học và
Giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) đưa ra, dựa trên cơ sở là 4 mục
tiêu cơ bản của việc học: Học để biết – Học để làm – Học để là chính mình –
Học để cùng chung sống. Dựa vào đó, UNESCO định nghĩa “KNS là năng
lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống
hàng ngày”.
Theo quan niệm này, KNS được phân loại thành:
+ Các kỹ năng cơ bản: kỹ năng đọc, viết, tính toán cho các chức năng hàng
ngày. Những kỹ năng này không mang đặc trưng tâm lý nhưng là nền tảng
cho những năng lực thực hiện các chức năng của cuộc sống.
+ Các kỹ năng chung (kỹ năng nhận thức, kỹ năng cảm xúc, kỹ năng xã hội)
như các kỹ năng ra quyết định, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng giao tiếp…
+ Các kỹ năng trong tình huống, ngữ cảnh, vấn đề cụ thể của đời sống xã
hội, như:
• Các vấn đề về giới, giới tính.
25