LUẬT
GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HỢP ĐỒNG THÊ CHÂP
QUYỀN TÀI SẢN VÔ HIỆU
DO VI PHẠM THỦ TỤC CÔNG CHỨNG
- BẤT CẬP VÀ ĐỊNH HUỚNG hồn thiện
• NGUYỄN HỒNG LONG
TĨM TẮT:
Thế chấp tài sản (TCTS) là biện pháp bảo đảm được sử dụng phổ biến để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ của bên thế châp đối với bên nhận thế chấp. Đối tượng của biện pháp TCTS rất đa dạng,
bao gồm nhiều loại tài sản khác nhau, một trong số đó là các quyền tài sản (QTS). Thực tiễn đã
chứng minh, biện pháp thế chấp quyền tài sản (TCQTS) tiềm ẩn nhiều rủi ro về pháp lý bởi tính
chất phức tạp của loại tài sản này. Bài viết nêu những bất cập, cũng như đề xuất một số giải pháp
nhằm giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng thế chấp quyền tài sản vô hiệu do vi phạm thủ tục
cơng chứng tại Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: thế châp tài sản, quyền tài sản, hợp đồng thế chấp quyền tài sản, bồi thường thiệt hại.
1. Hựp đồng thế chấp quyền tài sản vô hiệu
nội dung và điều kiện về hình thức). Ngược lại,
do vi phạm thủ tục cơng chứng
Theo quy định tại Điều 317 BLDS năm
một hợp đồng TCTS được xác định là vô hiệu khi
vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự. Khi hợp đồng TCTS vô hiệu,
hậu quả pháp lý của nó được giải quyết theo Điều
2015,“TCTS là một biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ được hình thành từ sự thỏa thuận giữa
bên thế chấp và bên nhận thế chấp”. Nói cách
khác, biện pháp TCTS khi được xác lập sẽ tồn tại
dưới dạng hợp đồng. Đê’ hợp đồng TCTS phát
sinh hiệu lực pháp luật, nó phải tuân thủ đầy đủ
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự tại
Điều 117 (bao gồm: điều kiện về chủ thể, điều
kiện về ý chí tự nguyện, điều kiện về mục đích và
131 BLDS nam 2015.
TCQTS là một trường hợp đặc biệt của TCTS,
nếu như đối tượng của TCTS là tài sản nói chung
thì đơi tượng của TCQTS là các QTS (một dạng
tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS
năm 2015). Dưới góc nhìn của tác giả, QTS được
nhìn nhận là một quan hệ pháp luật. Trong quan
SỐ 14-Tháng 6/2022
41
TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG
hệ này, chủ thể quyền sẽ nhận được một lợi ích
vật chất nhất định, lợi ích vật chát đó có thể định
Do các bên chủ thể khi xác lập TCQTS vi phạm
giá được bằng tiền. Quan điểm này đi ngược lại
phạm điều kiện về chủ thể, bị lừa dốì, ép buộc, đe
với các quan điểm truyền thống về QTS khi luôn
doạ khi giao kết hợp đồng...); hoặc (ii) Do lỗi của
coi QTS - một bộ phận cấu thành trong nội hàm
công chứng viên khi công chứng hợp đồng thế
khái niệm quyền sở hữu là phải đôi tượng của
chấp QTS trong trường hợp pháp luật có quy định
quyền sở hữu. Với góc nhìn tách biệt giữa tài sản đôi tượng của quyền sở hữu với các quyền năng
của chủ thể được thực hiện trên tài sản, tác giả
bắt buộc phải cơng chứng. Đốì với trường hợp hợp
đồng TCQTS bị Tịa án tun vơ hiệu do các bên
chủ thể khi xác lập đã vi phạm điều kiện có hiệu
nhìn nhận QTS mang bản chát là những quyền
năng của chủ thể quyền trong việc chi phôi, kiểm
lực của hợp đồng thế châp, dẫn đến hậu quả bên
nhận thế chấp không được cơng nhận quyền ưu
sốt tài sản, các quyền năng lại đem lại lợi ích
thực tế cho chủ thể quyền. Hạn chế của quan
tiên trên tài sản thế chấp, khi đó quan hệ nghĩa vụ
điểm này là phạm vi nội hàm của QTS rất hẹp,
thiếu vắng những QTS phát sinh từ các hợp đồng,
bởi lẽ trong quan hệ hợp đồng, quyền của một chủ
thể chỉ đạt được thông qua hành vi thực hiện nghĩa
vụ của bên có nghĩa vụ.
Khi nghiên cứu về các QTS theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành, theo tác giả bài
viết, dựa trên căn cứ xác lập quyền, các QTS có
thể được phân làm 3 nhóm: Nhóm 1, các QTS phát
sinh từ giao dịch dân sự. Nhóm QTS này có thể
được phát sinh từ các hợp đồng hoặc hành vi pháp
lý đơn phương, mang đặc điểm của quyền đơ'i
nhân, bao gồm: quyền địi nợ phát sinh từ hợp
đồng vay tài sản, quyền yêu cầu thanh toán phát
sinh từ hợp đồng mua bán tài sản, QTS phát sinh
từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quyền đốì với
phần vốn góp trong doanh nghiệp...; Nhóm 2, các
QTS phát sinh từ hoạt động lao động sáng tạo của
con người (QTS đối với các đối tượng của quyền
sở hữu trí tuệ), các quyền này được ghi nhận trong
luật sở hữu trí tuệ, bao gồm: QTS trong phạm vi
của quyền tác giả và các quyền liên quan; QTS
đối với đối tượng sở hữu cơng nghiệp và QTS đốì
với giống cây trồng; Nhóm 3, các QTS phát sinh
trên cơ sở quy định của Luật, các QTS dạng này
mang đặc điểm của quyền đốì vật, bao gồm:
quyền sử dụng đất, quyền bề mặt, quyền hưởng
dụng và quyền đôi với bất động sản liền kề.
Trên thực tế, một hợp đồng TCQTS có thể bị
Tịa án tun vơ hiệu bởi những ngun nhân: (i)
42
SỐ 14-Tháng Ĩ/2022
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thế chấp (vi
chính được xác định là nghĩa vụ khơng có bảo
đảm. Đốì với trường hợp hợp đồng TCQTS pháp
luật có quy định bắt buộc phải cơng chứng (ví dụ:
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất), khi bị Tòa
án tuyên vô hiệu do lỗi của công chứng viên, theo
quy định của Luật Công chứng năm 2014, chủ thể
bị thiệt hại trong hợp đồng thế chấp có quyền yêu
cầu tổ chức hành nghề công chứng phải bồi
thường thiệt hại.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công
chứng trong trường hựp hựp đồng thế chấp
quyền tài sản bị Tịa án tun vơ hiệu
Để có thể yêu cầu TCHNCC bồi thường thiệt
hại khi hỢp đồng TCQTS bị Tịa án tun vơ hiệu,
chủ thể bị thiệt hại phải chứng minh được các yếu
tố sau:
Thứ nhát, CÓ hành vì vi phạm pháp luật của
cơng chứng viên khi thực hiện công chứng hợp
đồng thê'chấp quyền tài sản.
Công chứng là việc cơng chứng viên của một
TCHNCC chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của
hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản
(sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính
xác, hợp pháp, khơng trái đạo đức xã hội của bản
dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước
ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt
(sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của
pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức
tự nguyện yêu cầu công chứng. Khi hợp đồng,
giao dịch được công chứng sẽ có hiệu lực thi hành
LUẬT
đối với các bên liên quan. Hành vi vi phạm pháp
việc xác minh chủ thể sở hữu tài sản trên giấy tờ
luật của công chứng viên khi công chứng hợp
đồng TCQTS rất đa dạng như: thực hiện công
với chủ thể ký kết hợp đồng thế chấp...).
Thứ ba, có thiệt hại xảy ra.
Xuất phát từ mục đích của việc áp dụng trách
chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của
hợp đồng vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội;
nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm khôi phục lại
xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp
tình trạng tài sản cho người bị thiệt hại, do đó nếu
đồng thế chấp thực hiện giao dịch giả tạo hoặc
khơng có thiệt hại xảy ra sẽ không đặt ra vấn đề
hành vi gian dối khác nhằm trục lợi; gây áp lực, đe
dọa hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để
giành lợi thế cho mình hoặc cho tổ chức mình
trong việc hành nghề công chứng;...
bồi thường. Thiệt hại ở đây được hiểu là những
tổn thất thực tế tính được bằng tiền mà một chủ
thể phải gánh chịu khi hợp đồng TCQTS bị Tịa
án tun vơ hiệu do vi phạm về thủ tục cơng
Thứ hai, có lỗi của cơng chứng viên khi thực
hiện công chứng hợp đồng thế chấp quyền tài sản.
chứng. Hiện nay, vấn đề khó khăn nhất đơi với
Dưới góc độ lý luận, lỗi được xác định bởi sự
thống nhất giữa (hai) yếu tố: ý chí bên trong của
chủ thể và hành vi của chủ thể (biểu hiện bên
hợp đồng TCQTS bị vơ hiệu là việc xác định thiệt
ngồi của lỗi). Lỗi xét về ý chí bên trong của
TCHNCC. Có ý kiến cho rằng, khi hợp đồng
người thực hiện hành vi là thái độ tiêu cực của
người thực hiện hành vi đốì với hậu quả của hành
vi do chính người đó thực hiện. Lỗi phải được biểu
TCQTS bị Tịa án tun vơ hiệu khơng có thiệt
hại xảy ra cho bên nhận thế chấp, bởi khi hợp
hiện ra bên ngoài dưới dạng hành vi trái pháp luật
cụ thể. Có thể chia lỗi thành 2 (hai) loại: lỗi cố ý
trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện
pháp TCQTS vẫn phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ
đối với bên nhận thế chấp. Bên nhận thế chấp chỉ
mất đi quyền ưu tiên xử lý tài sản thế chấp. Bên
và lỗi vô ý. Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận
thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho
người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn cho
thiệt hại xảy ra hoặc khơng mong mn nhưng để
các Tịa án khi giải quyết hậu quả pháp lý của
hại. Bởi, nếu không xác định được thiệt hại thì
khơng thể áp trách nhiệm bồi thường cho
đồng TCQTS bị tun vơ hiệu, bên có nghĩa vụ
cạnh đó, có ý kiến lại cho rằng khi hợp đồng
TCQTS bị Tịa án tun vơ hiệu, tại thời điểm đó
mặc cho thiệt hại xảy ra. Lỗi vơ ý là trường hợp
có thể chưa phát sinh thiệt hại cho bên nhận thế
một người không thấy trước hành vi của mình có
khả năng gây thiệt hại mặc dù pháp luật yêu cầu
phải biết hoặc có thể thấy trước hành vi của mình
chấp. Tuy nhiên, do đã mất quyền ưu tiên xử lý
có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại
sẽ khơng xảy ra hoặc xảy ra thì có thể ngăn chặn
được. Lỗi của công chứng viên khi thực hiện cơng
chứng hợp đồng TCQTS có thể tồn tại dưới 2 (hai)
dạng: (i) Lỗi cố ý (công chứng viên biết rõ mục
đích và nội dung của hợp đồng thế chấp vi phạm
điều cấm pháp luật; công chứng viên biết rõ bên
thế chấp không đủ năng lực chủ thể để giao kết
hợp đồng mà vẫn công chứng...); hoặc (ii) Lỗi vô ý
(công chứng viên bị các chủ thể giao kết hợp đồng
thế chấp “lừa dối” dẫn đến hiểu sai về chủ thể, về
đối tượng của hợp đồng thế chấp nên đã công
chứng hợp đồng; công chứng viên chủ quan trong
tài sản thế chấp, nếu bên được bảo đảm không
chủ động thực hiện nghĩa vụ hoặc bên được bảo
đảm có khả năng thực hiện nghĩa vụ nhưng chây
ỳ, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì rõ ràng đã gây
ra những thiệt hại cho bên nhận thế chấp.
Thứ tư, có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm pháp luật của công chứng viên với thiệt hại
xảy ra.
Để có thể yêu cầu TCHNCC bồi thường thiệt
hại ngoài việc phải chứng minh các yếu tô: hành
vi công chứng hợp đồng thế chấp của cơng chứng
viên là trái pháp luật; cơng chứng viên có lỗi khi
cơng chứng hợp đồng; có thiệt hại xảy ra. Chủ thể
yêu cầu bồi thường thiệt hại còn phải chứng minh
được môi liên hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
SỐ 14-Tháng Ó/2022
43
TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG
pháp luật của cơng chứng viên khi thực hiện công
chứng hợp đồng thế chấp với thiệt hại xảy ra. ở
dụng đất 192 m2 của hộ gia đình ông CH và bà X
theoHỢp đồng thê' chấp sô' LD1018700008/HĐTC
đây, hành vi vi phạm pháp luật của công chứng
viên được xác định là nguyên nhân trực tiếp dẫn
ngày 08/07/2010 được Phịng cơng chứng sơ' 5
đến thiệt hại, cịn thiệt hại phải là hậu quả do
17/06/2011, các bên đã sửa đổi, bổ sung Hợp đồng
chính hành vi vi phạm pháp luật của công chứng
viên gây ra.
3. Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật
Hiện nay, việc giải quyết hậu quả pháp lý của
thế chấp sô' PL01-LD1018700008/HĐTC được
các giao dịch dân sự vô hiệu được hướng dẫn bởi
Nghị quyết sô' 01/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng
thẩm phán TAND Tối cao ban hành ngày
16/04/2003. Qua một thời gian dài thực hiện, Nghị
quyết số 01/2003/NQ-HĐTP đã bộc lộ nhiều bất
cập, hạn chế cần phải được sửa đổi, bổ sung. Liên
chứng nhận công chứng sô' 785/TC-CC5. Ngày
Phịng Cơng chứng sơ' 5 chứng nhận cơng chứng
sơ' 834/TC-CC5; Giá trị tài sản định giá tại thời
điểm thê' chấp tăng lên là 3.840.000.000 đồng,
đảm bảo cho nghĩa
1.500.000.000 đồng.
vụ
trả
nợ
tăng
lên
Hết thời hạn của hợp đồng vay, khách hàng
không trả được nợ, Sacombank đã khởi kiện vụ án
tranh chấp hợp đồng tín dụng đô'i với ông c, bà N
quan đến vấn đề nghiên cứu, tác giả nhận thấy
chưa có quy định cụ thể để giải quyết hậu quả
tại TAND huyện TN, thành phơ' HP. Q trình giải
quyết vụ án, Tịa án đã tiến hành giám định chữ
ký, xác định chữ ký trong hợp đồng thê' chấp và
các văn bản sửa đổi, bổ sung không phải chữ ký
pháp lý của hợp đồng TCQTS vô hiệu, đã ảnh
của bà X. Bản án sơ thẩm sô' 26/2014/KDTM-ST
hưởng không nhỏ đến hoạt động xét xử của các
Tịa án địa phương. Trong q trình xét xử, một số
ngày 09/5/2014 của TAND huyện TN và Bản án
phúc thẩm số 26/2014/KDTM-PT ngày 05/9/2014
Tòa án địa phương tỏ ra lúng túng nên đã đưa ra
những phán quyết gây nhiều tranh cãi. Bản án số
của TAND thành phô' HP đã tuyên không chấp
nhận yêu cầu phát mại tài sản của ông CH, bà X
17/2020/DS-ST ngày 25/09/2020 của TAND quận
NQ, Thành phô' HP là một minh chứng.
Nội dung vụ việc: Ông Trần Văn c, bà Nguyễn
là quyền sử dụng 192 m2 đất, do hợp đồng thê'
Thị N đã ký các hợp đồng tín dụng để vay vốn tại
Ngân hàng TMCP Sài Gịn Thương tín
(Sacombank) đồng thời thế chấp tài sản của mình
và tài sản của người thứ ba để bảo đảm cho các
khoản vay, cụ thể: (i) Hợp đồng tín dụng số
LD0915917639 ngày 10/06/2009 vay số tiền
1.000.000.000 đồng. Để đảm bảo cho khoản vay
trên ông c bà N đã thế chấp quyền sử dụng 200
m2 đất và tài sản trên đất của hộ gia đình ơng c
và bà N theo Hợp đồng thế chấp sơ'
LD0915917639/HĐTC ngày 10/06/2009 được
Phịng Cơng chứng sơ' 5 chứng nhận công chứng
sô' 527/TC-CC5. Giá trị tài sản định giá tại thời
điểm thê' chấp là 1.455.000.000 đồng; (ii) Hợp
đồng tín dụng ngày 08/7/2010 vay 300.000.000
triệu đồng. Để bảo đảm cho khoản vay của ông c
và bà N, ông CH và bà X đã thê' chấp quyền sử
44
SỐ 14-Tháng Ó/2022
chấp vô hiệu và buộc Sacombank phải giải chấp
tài sản của ông CH, bà X.
Tháng 03/2020 Sacombank đã khởi kiện ra
TAND quận NQ để u cầu Phịng Cơng chứng sơ'
5 phải bồi thường thiệt hại, bao gồm các khoản
tiền: (i) nợ gốc 1.500.000.000 đồng trong hợp đồng
tín dụng; (ii) tiền nợ lãi trong hạn, nợ lãi quá hạn
đô'i với khoản nợ gơ'c trong hợp đồng tín dụng của
ơng c, bà N từ khi ký hợp đồng tín dụng đến ngày
mở phiên tòa 25/9/2020, cụ thể: lãi trong hạn
1.805.337.500 đồng và lãi quá hạn 902.668.750
đồng. Tại phiên tòa, Sacombank đã rút lại một
phần yêu cầu khởi kiện đối với phần nợ lãi trong
hạn và nợ lãi quá hạn của hợp đồng vay.
Bản án sô' 17/2020/DS-ST ngày 15/09/2020 của
TAND quận NQ, Thành phố HP quyết định: (i)
Khơng chấp nhận tồn bộ u cầu khởi kiện bồi
thường thiệt hại do hợp đồng thê' chấp sô'
LD1018700008/HĐTC ngay 08/07/2010 và thỏa
LUẬT
thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp PL01-
hợp đồng TCQTS đã được cơng chứng bị Tịa án
LD1018700008/HĐTC ngay 17/06/2011 vô hiệu
của nguyên đơn Sacombank đối với bị đơn Phịng
Cơng chứng số 5 thành phố HP, bởi khơng có căn
cứ để tính được thiệt hại trên thực tế. (ii) Buộc ông
tuyên vô hiệu, đồng nghĩa với việc bên nhận thế
chấp mất quyền ưu tiên xử lý tài sản thế chấp.
Nghĩa vụ của bên thế chấp trở thành nghĩa vụ
c và bà N vẫn có nghĩa vụ trả khoản nợ cho
khơng có bảo đảm. Trên lý thuyết, nếu bên thế
chấp vẫn thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với bên
Sacombank, bao gồm: nợ gốc, lãi trong hạn và lãi
nhận thế chấp thì khơng có thiệt hại xảy ra. Tuy
q hạn.
Theo tác giả, bản án này tồn tại một số điểm
nhiên, nhiều trường hợp bên thế chấp khơng cịn tài
sản để thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận thế
chưa hợp lý: (i) Theo quy định tại Điều 38 Luật
chấp, gây thiệt hại cho bên nhận thế chấp. Vì vậy,
pháp luật đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Công chứng năm 2014,“TCHNCC phải bồi thường
thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân,
tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên
hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức
mình gây ra trong q trình cơng chứng”. Trong vụ
việc, hợp đồng thế chấp số LD1018700008/HĐTC
ngày 08/07/2010 và Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung
Hợp đồng thế chấp PL01-LD1018700008/HĐTC
của TCHNCC khi cơng chứng viên có lỗi trong hoạt
động công chứng là cần thiết. Tuy nhiên, việc quy
định cụ thể phạm vi trách nhiệm bồi thường như thế
nào, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường là bao
lâu để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các bên chủ
thể trong quan hệ TCQTS là điều rất khó khăn.
Cuối cùng, dựa trên nội dung vấn đề đã nghiên
ngày 17/06/2011 giữa các bên đã bị Bản án sơ thẩm
cứu, tác giả kiến nghị TAND Tối cao cần sớm ban
số 26/2014/KDTM-ST ngày 09/5/2014 của TAND
huyện TN và Bản án phúc thẩm số
hành Nghị quyết hướng dẫn giải quyết hậu quả
26/2014/KDTM-PT ngày 05/9/2014 của TAND
Thành phố HP tuyên vô hiệu, hậu quả dẫn đến
Sacombank mất quyền xử lý tài sản bảo đảm. Vì
theo hướng:
“1. Khi hợp đồng TCTS đã được công chứng bị
vậy, việc Sacombank khởi kiện u cầu Phịng
Cơng chứng số 5 phải bồi thường là có căn cứ pháp
luật, (ii) Việc TAND quận NQ nhận định khơng có
thiệt hại khi hợp đồng thê chấp đã công chứng bị
tuyên vô hiệu, từ đó làm căn cứ khơng chấp nhận
tồn bộ u cầu của Ngân hàng Sacombank là
không hợp lý. Bởi Sacombank sẽ mất đi quyền bán
phát mại tài sản thế chấp, điều này đồng nghĩa với
khoản nợ của vỢ chồng ông c và bà N không biết
khi nào mới được thực hiện.
Qua việc phân tích bản án, có thể nhận thây, khi
pháp lý của hợp đồng thế chấp tài sản vơ hiệu
Tịa án tun vơ hiệu thì TCHNCC quản lý cơng
chứng viên đã thực hiện công chứng phải bồi
thường thiệt hại.
2. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án
ấn định thời hạn thực hiện nghĩa vụ của bên được
bảo đảm, khi hết thời hạn đó, nếu bên được bảo
đảm khơng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với bên
nhộn hảo đảm thì TCHNCC phủi bồi thường bơ
sung phần cịn thiếu.
3. Thiệt hại được yêu cầu bồi thường là toàn bộ
phạm vi nghĩa vụ mà bên được bảo đảm chưa thực
hiện được đối với bên nhận bảo đảm ” ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Ngọc Điện (2005). cần xây dựng khái niệm quyền tài sản trong Luật Dân sự. Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp. 3,16-21.
2. Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2016). Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2015. Hà Nội: NXB Cơng an
Nhân dân.
SƠ' 14-Tháng Ĩ/2022
45
TẠP CHÍ CƠNG THIÍƠNG
3.
Chính phủ (2017). Nghị định số 102/2017/NĐ-CP về Đăng ký biện pháp bảo đảm.
4.
Quốc hội (2014). Luật số53/2014/QHỈ3: Luật Cơng chứng, ban hành ngày 20/6/2014.
5. Tịa án Nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng: Bản án sơ thẩm số 26/2014/KDTM-ST ngày
09/5/2014;
6.
Tòa án Nhân dân quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng: Bản án sơ thẩm số 17/2020/DS-ST ngày 15/09/2020.
Ngày nhận bài: 5/5/2022
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 22/5/2022
Ngày chấp nhận đăng bài: 10/6/2022
Thông tin tác giả:
NCS. ThS. NGUYỄN HOÀNG LONG
Giảng viên khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội
SOLVING LEGAL CONSEQUENCES OF THE MORTGAGE
AGREEMENT OF PROPERTY RIGHTS WHICH IS BEING VOID
AS IT VIOLATES CURRENT NOTARIZATIONPROCEDURES
- INADEQUACIES AND SOLUTIONS
• Ph.D student, Master. NGUYEN HOANG LONG
Lecturer, Faculty of Civil Law, Hanoi Law University
ABSTRACT:
Property mortgage is a commonly used measure to secure the performance of obligations of
the mortgagor to the mortgagee. The subject of property mortgage is very diverse, including
many different types of assets. The property rights are also a subject of property mortgage. The
fact show that the mortgage of property rights has many potential legal risks due to the complex
nature of this type of property. This paper points out the inadequacies and proposes some
solutions to settle the legal consequences of the mortgage agreement of property rights which is
being void as it violates current notarization procedures in Vietnam.
Keywords: mortage a property, property rights, mortgage agreement, compensation for
damage.
46
So 14 - Tháng 6/2022