Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Giải quyết hậu quả pháp lý của những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.81 KB, 14 trang )

LỜI NÓI MỞ ĐẦU
Tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn là
một hiện tượng xã hội đã và đang tồn tại trong xã hội Việt Nam. Nguyên nhân
của tình trạng này có thể là do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, do ý thức
pháp luật của người dân còn thấp, hay vì điều kiện địa lý ở các vùng núi hải đảo
đường sá xa xôi... Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 ra đời đã
không thừa nhận việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn kể từ ngày 01/01/2001. Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy
định: "Nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng
thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng". Tuy nhiên, trên thực tế vẫn
còn rất nhiều trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết
hôn từ trước ngày 01/01/2001. Do vậy em đã chọn đề tài: “ Giải quyết hậu quả
pháp lý của những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng”.
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm và thực trạng hôn nhân ở Việt Nam và thế giới:
1) Khái niệm về hôn nhân, hôn nhân hợp pháp.
Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà trên
nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, nhằm chung sống với nhau suốt đời, xây dựng
gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững (Điều 1 và Điều 18 luật hôn nhân
và gia đình năm 2000).
Về nguyên tắc quan hệ hôn nhân chỉ được coi là hợp pháp khi hai bên nam
nữ thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và cấm kết
hôn, thực hiện đăng ký kết hôn tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đúng
nghi thức.
2) Thực trạng hôn nhân.
Chúng ta biết rằng, với tư cách là một thực thể xã hội, gia đình hình thành
không phụ thuộc vào các thủ tục hành chính do Nhà nước đặt ra.Việc chung
sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn là một hiện tượng xuất hiện khắp
1



nơi trên thế giới. Có nhiều lí do để một người nam và một người nữ không đăng
kí cuộc sống chung của mình.
Trong lịch sử Pháp luật Việt Nam đương đại, quy định về đăng kí kết hôn
không phải luôn được tuân thủ chặt chẽ. Một mặt, do hoàn cảnh chiến tranh nên
việc quản lý hộ tịch gặp nhiều khó khăn. Nhiều cặp vợ chồng, cán bộ, bộ đội kết
hôn trước sự chứng kiến của cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc, của bạn bè, làng
xóm mà không có một thủ tục pháp lý nào khác. Mặt khác, là do phong tục, tập
quán ở những nơi sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số và một số địa phương
còn lạc hậu; có nơi có phong tục, tập quán là việc nam nữ trở thành vợ chồng chỉ
cần có sự đồng ý của già làng, trưởng bản hoặc có sự đồng ý của hai bên cha mẹ
là đủ. Họ không thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đăng kí kết hôn
tại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, thậm chí họ còn không biết đến quy
định về đăng kí kết hôn. Trong những trường hợp này, về mặt chủ quan, người
nam và người nữ vẫn cư xử đúng như cặp vợ chồng đích thực, chăm sóc, giúp
đỡ nhau, sinh con và cùng nhau vun đắp cho cuộc sống gia đình.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, việc không đăng kí kết hôn còn có một
nguyên nhân khác: đó là sự lựa chọn chủ động của hai người trong cuộc, họ
không đăng kí vì họ không muốn làm thủ tục này. Có nhiều lí do cho thái độ xử
sự này: có nhiều người lớn tuổi, những người đã ly dị hoặc ở góa không cảm
thấy tính cần thiết của việc này trước sự chín chắn của mình và cho sự kết hợp
lúc xế chiều của mình hoặc đã mệt mỏi với những mối liên hệ chặt chẽ của cuộc
sống hôn nhân. Hiện nay trong giới trẻ đang tồn tại một xu hướng khác đó là
không muốn đăng kí kết hôn để có thể có một lối ra dễ dàng khi họ không muốn
ràng buộc nhau nữa. Từ đó có thể thấy những người chung sống như vợ chồng
mà không đăng kí kết hôn hiểu rằng họ không phải là vợ chồng trước pháp luật
và họ chủ động chấp nhận tình trạng này. Quan hệ chung sống như vợ chồng
không có đăng kí kết hôn lúc này có thể trở thành một lối sống, một hiện tượng
xuất hiện bên cạnh các cuộc hôn nhân hợp pháp.

2



II. Quan điểm và đường lối giải quyết các trường hợp nam nữ chung
sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn,nhưng không trái pháp luật
ở Việt Nam khi bộ luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực :
1) Quan điểm của pháp luật đối với quan hệ chung sống như vợ
chồng không đăng kí kết hôn và không trái pháp luật trước và sau khi luật
Hôn nhân gia đình năm 2000 có hiệu lực:
Theo nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình
năm 1986 thì công nhận việc chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết
hôn là hợp pháp và giữa họ vẫn phát sinh quan hệ vợ chồng.
Nhưng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 tại Điều 11 có quy định :
“ 1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức
quy định tại Điều 14 của Luật này.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều
không có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì
không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa”.
Như vậy, kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, nam
nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn, dù có đủ điều kiện kết
hôn theo quy định của pháp luật cũng không được công nhận là hôn nhân thực tế
và không có giá trị pháp lý. Điều này thể hiện rõ thái độ của Nhà nước ta là sẽ
chấm dứt việc công nhân “hôn nhân thực tế”.

3



2) Đường lối giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ
chồng không trái pháp luật :
Với tinh thần trên, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc
hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị định số 77/2001/N-CP và
thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/1/2001
đã có những hướng dẫn cụ thể việc giải quyết về mặt pháp luật đối với những
trường hợp vi phạm việc đăng kí kết hôn trước và sau ngày 1/1/2001.
a.

Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987:

Căn cứ vào khoản a điều 3 Nghị quyết số 35 quy định:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng đợc xác lập trước ngày 03
tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có
hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký
kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý
giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000;
Như vậy trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày
3/1/1987 vi phạm thủ tục đăng kí kết hôn sẽ không bị buộc phải đăng kí kết hôn
và theo Điều 1, Điều 2 Nghị định số 77/CP trường hợp này được “nhà nước
khuyến khích và tạo điều kiện cho đăng kí kết hôn”. Việc đăng kí kết hôn của họ
không bị hạn chế về mặt thời gian, họ được miễn lệ phí đăng kí kết hôn.
Không buộc phải đăng kí kết hôn và vẫn thụ lý để giải quyết việc ly hôn nếu
các bên yêu cầu. Điều này được hiểu rằng chúng ta chấp nhận quan hệ “hôn
nhân thực tế” đối với những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước
ngày 3/1/1987. Đối với trường hợp này cách giải quyết như vậy là hợp lý và em
cũng tán thành với các quan điểm sau:
“ - Thứ nhất, quan hệ này được xác lập trong một thời điểm đặc biệt,

trước khi chưa có Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, chúng ta mất một
khoảng thời gian dài đất nước bị chia cắt. Điều này tác động không nhỏ đến vấn
đề đăng kí kết hôn.
4


- Thứ hai, các quan hệ được xác lập trước ngày 3/1/1987, tính đến thời
điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, khoảng thời gian này là
khá dài, mối quan hệ giữa hai bên nam nữ tương đối ổn định. Bởi vậy, công
nhận “hôn nhân thực tế” đối với những trường hợp này là vấn đề cần thiết để ổn
định quan hệ hôn nhân gia đình, tránh những xáo trộn trong đời sống gia đình
của họ.
Tuy vậy, chúng tôi cho rằng cần phải có quy định chặt chẽ hơn về vấn đề này,
không phải mọi trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 3/1/1987 đều
được pháp luật bảo vệ giống như tinh thần quy định tại điểm a, khoản 3 Nghị
quyết 35 mà chỉ những trường hợp vi phạm đăng kí kết hôn nhưng tuân thủ đầy
đủ các điều kiện kết hôn mới được pháp luật bảo vệ.”
b.Trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập từ ngày 03/01/1987 đến ngày
01/01/2001.
Điểm b, khoản 3 Nghị quyết số 35 quy định:
“Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến
ngày 1/1/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật
này thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn trong thời hạn 2 năm kể từ ngày
luật này có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2003, trong thời hạn này mà
họ không đăng kí kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp
dụng các quy định về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải
quyết. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp
luật không công nhận họ là vợ chồng; ”
Như vậy, theo quy định này thì từ ngày 3/1/1987 các bên nam nữ chung sống
với nhau như vợ chồng mà vi phạm thủ tục đăng kí kết hôn thì buộc phải đăng kí

kết hôn và đăng kí trong thời hạn kể từ ngày 1/1/2001 đến ngày 1/1/2003. theo
quy định tại Nghị định 77/2001NĐ-CPthì trong thời hạn này nếu các bên nam
nữ đăng kí kết hôn thì vẫn được thừa nhận quan hệ “hôn nhân thực tế” cho các
trường hợp chưa đăng kí kết hôn có nghĩa là pháp luật vẫn công nhận quan hệ
hôn nhân của họ từ khi họ bắt đầu chung sống với nhau. Đây cũng chính là cách
5


giải quyết linh động nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nam nữ song vẫn đảm bảo
tính thống nhất của quy định “buộc các bên phải đăng kí kết hôn”. Bởi vì nếu
hết thời hạn quy định nói trên mà họ vẫn không đăng kí kết hôn thì pháp luật
không công nhận họ là vợ chồng. Thông tư liên tịch số 01/2001TTLT-TA-VKSBTP có hướng dẫn cách xác định thời điểm nam nữ chung sống như vợ chồng
như sau: “thời điểm nam nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày
họ tổ chức lễ cưới hoặc về sống chung với nhau được người khác hay tổ chức
chứng kiến hoặc ngày họ bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ, cùng
nhau xây dựng gia đình”. Như vậy, xác định được thời điểm nam nữ bắt đầu
chung sống với nhau, chúng ta có cơ sở để ghi nhận ngày hôn nhân có hiệu lực
và ghi vào sổ kết hôn cũng như giấy chứng nhận đăng kí kết hôn. Điều này thực
sự có ý nghĩa cho việc giải quyết quyền lợi cho các bên đương sự. Mặt khác,
theo thông tư liên tịch số 01/2001TTLT-TA-VKS-BTP nếu sau ngày 1/1/2003 họ
mới đăng kí kết hôn thì trong trường hợp này quan hệ vợ chồng của họ chỉ được
công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ đăng kí kết hôn.
c. Trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng
kí kết hôn kể từ ngày 1/1/2001:
Theo khoản 3, điểm c Nghị quyết 35 của Quốc hội :
“ Kể từ ngày 1/1/2001 trở đi, trừ những trường hợp quy định tại
điểm a và b khoản 3 của Nghị quyết này, nam nữ sống chung với
nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn đều không được
pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có ly hôn thì tòa án thụ lý và
tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về

con cái, tài sản thì áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 17 của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.”
Như vậy, theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 việc kết hôn không
đăng kí không được công nhận. Điều này thể hiện thái độ kiên quyết của nhà
nước ta trong việc chấm dứt tình trạng “hôn nhân thực tế”. quy định này là đúng
6


đắn và phù hợp bởi vì mọi quy định của pháp luật cần phải được tuân thủ một
cách chặt chẽ mới đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.
III. Trường hợp chung sống như vợ chồng trái pháp luật vi phạm
điều 9, điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; cách giải quyết của
pháp luật Việt Nam :
 Trường hợp người vi phạm là cán bộ, bộ đội; thời gian xác lập vi phạm
là trước năm 1978 :
Đây là trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ, chồng nhưng khi tập
kết ra Bắc(1954) lại lấy vợ hoặc chồng khác. Như vậy, các trường hợp trên đã vi
phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến
tranh, đất nước bị chia cắt lâu dài, sự vi phạm này không phải do ảnh hưởng của
chế độ hôn nhân phong kiến.Cho nên đường lối giải quyết vấn đề này cũng hoàn
toàn khác. Khi giải quyết trường hợp đặc biệt này cần căn cứ vào Thông tư
60/TATC ngày 22/2/1978 của TANDTC hướng dẫn các Toà án nhân dân địa
phương: “Nay nếu vợ hoặc chồng ở miền Nam vẫn không có quan hệ hôn nhân
mới và vẫn muốn duy trì quan hệ hôn nhân trước đây thì công nhận cả hôn
nhân trước đây và hôn nhân mới là hôn nhân hợp pháp”. Cụ thể có :
-Trường hợp 1: Cuộc hôn nhân này không có sự lừa dối, Thông tư
60/TATC ngày 22/2/1978 của TANDTC: “đây là trường hợp vi phạm khoản 1
Điều 10 Luật hôn nhân gia đình nhưng do ngoại lệ nên không nhất thiết phải xử
huỷ hôn, tuỳ theo trường hợp cụ thể mà Toà án có thể giải quyết khi có yêu cầu
của chủ thể ”.

+Nếu các đương sự thuận tình li hôn thì Toà án giải quyết li hôn cho các
bên như trường hợp hôn nhân hợp pháp theo điều 90 Luật Hôn nhân gia đình
2000.
+Trường hợp người chồng hoặc vợ trước ở miền Nam yêu cầu huỷ việc
kết hôn của vợ, chồng mình với người vợ hoặc chồng ở miền Bắc thì Toà án cần
7


giải thích cho họ thấy rõ nguyên nhân của việc kết hôn này là do hoàn cảnh đất
nước bị chia cắt bởi chiến tranh và khuyên họ nên rút đơn. Nếu không rút đơn
thì “Toà án đưa ra xét xử và trong trường hợp đó không thoả mãn được yêu cầu
của đương sự”.
-Trường hợp 2: Có sự lừa dối, dối trá trong hôn nhân, thì sau khi điều tra,
nếu Toà án có đủ bằng chứng chứng minh người tập kết đã dối trá khi kết hôn
rằng chưa có vợ hoặc chồng ở miền Nam, nhưng sự thật thì đã có. Nếu người vợ
hoặc chồng sau ở miền Bắc bị lừa dối kết hôn yêu cầu Toà án xử huỷ hôn thì Toà
xử huỷ việc kết hôn đó.
 Trường hợp vi phạm điều 9, điều 10 luật hôn nhân và gia đình năm
2000 ngoài trường hợp trên:
-Vi phạm lần đầu: Tiến hành xử phạt như điều 8 Nghị định của chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình số hiệu
87/2001/NĐ-CP.
-Vi phạm lần hai: Tiến hành xử phạt hình sự theo bộ luật hình sự năm 1999
và Thông tư liên tịch của Bộ tư pháp-Bộ công an-Toà án nhân dân tối cao-Viện
kiểm soát nhân dân tối cao số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC
ngày 25 tháng 9 năm 2001 về việc hướng dẫn sử dụng các quy định tại chương
XV của bộ luật hình sự năm 1999.
Vì đây là hành vi vi phạm pháp luật nên không tránh khỏi sự xử lý theo quy
định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP ngày
21.11.2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn

nhân và gia đình: “Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi
đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà
mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ nhưng chưa gây hậu quả nghiêm
trọng”. Khung hình phạt người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 147 Bộ Luật Hình sự – quy định về việc việc xử lý tội vi phạm chế một
vợ, một chồng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt
8


tù từ 3 tháng đến 1 năm, là tội phạm ít nghiêm trọng. Khi quyết định hình phạt
đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 147 Bộ Luật Hình sự, nếu người
phạm tội chưa gây hậu quả nghiêm trọng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có
tình tiết tăng nặng thì toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo, chỉ áp dụng hình
phạt tù, nếu vừa bị xử phạt vi phạm hành chính, vừa gây hậu quả nghiêm trọng,
có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc ít có tình tiết giảm nhẹ. Nếu phạm
tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 147 Luật Hình sự, là trường hợp
người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính, chưa gây hậu quả nghiêm trọng
nhưng đã bị toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung
sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ một chồng mà vẫn duy trì quan hệ
đó; hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc đã gây hậu quả nghiêm trọng, bị toà án
tuyên huỷ việc kết hôn hoặc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng mà
vẫn duy trì quan hệ đó thì người phạm tội bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Trong
trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng
nặng thì toà án có thể áp dụng điều 47 Luật Hình sự phạt dưới 6 tháng tù hoặc
chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ, nếu người phạm tội có nhiều tình
tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ thì hình phạt đến 3 năm tù ( mức cao
nhất của khung hình phạt).
IV . Hậu quả pháp lý của việc không xác lập quan hệ chung sống như
vợ chồng mà không đăng kí kết hôn:

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không thừa nhận việc kết hôn mà
không đăng kí. Theo đó, trường hợp các bên xác lập quan hệ vợ chồng nhưng
không đăng kí; khi có yêu cầu ly hôn Tòa án sẽ thực hiện biện pháp: “ Tuyên bố
không công nhận họ là vợ chồng” và áp dụng quy định hậu quả pháp lý của việc
đăng kí kết hôn trái pháp luật để giải quyết vấn đề tài sản và con chung cho các
bên nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân không đăng kí khi có yêu cầu. Như vậy
theo điều 3 nghị quyết số 35/2000/QH10 ta sẽ xác định được những trường hợp

9


hôn nhân không có giá trị pháp lý và nếu họ có yêu cầu giải quyết vấn đề ly hôn
tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành và giải quyết như sau:
• Về mặt nhân thân:
Tòa án sẽ tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng, kể từ thời điểm đó họ
phải chấm dứt việc sống chung như vợ chồng.
• Về mặt tài sản:
Nếu các bên yêu cầu giải quyết vấn đề tài sản, Tòa áp dụng khoản 3 Điều 17
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết như sau:
Tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó, đương nhiên người có tài sản có
nghĩa vụ chứng minh tài sản đó thuộc về sở hữu riêng của mình. Trên cơ sở đó
Tòa án sẽ giải quyết việc bảo vệ quyền lợi cho người có tài sản riêng. Đối với tài
sản chung, tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên. Khi các bên
không thỏa mãn được và yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án sẽ chia tài sản
chung cho hai bên có tính đến “công sức đóng góp của mỗi bên” và rõ ràng
không phải là “chia đôi một cách bình đẳng”. Tuy nhiên không chỉ căn cứ vào
công sức đóng góp của mỗi bên mà phải xem xét vào nguyên tắc bảo vệ quyền
lợi chính đáng của phụ nữ và con,theo quy định của Điều 17, khoản 3 thì quyền
lợi của phụ nữ và con được “ưu tiên” bảo vệ.
• Đối với con chung:

Khoản 2 Điều 17 quy định : “Quyền lợi của con được giải quyết như trường
hợp cha mẹ ly hôn”.Theo đó đối với trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng
nhưng không đăng kí kết hôn thì quyền lợi của các con cũng được pháp luật bảo
vệ giống như khi cha mẹ ly hôn. Vì vậy, khi hai bên nam nữ bị Tòa tuyên bố
không công nhận là vợ chồng thì họ vẫn có nghĩa vụ đối với con chung. Trường
hợp con dưới 3 tuổi, Tòa án sẽ giao cho người mẹ nuôi.Căn cứ vào khoản 5 Điều
2 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000: “Nhà nước và xã hội không thừa nhận
sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi,
con trong giá thú và con ngoài giá thú.” Hai bên có trách nhiệm cấp dưỡng, hỗ
trợ nhau nuôi con chung ( trong trường hợp này là con ngoài giá thú) trưởng
10


thành; quan trọng là con chung trong trường hợp này cũng có quyền thừa kế hợp
pháp khi người cha, người mẹ qua đời mà không để lại di chúc theo điều 676
Luật Dân sự năm 2005. Như vậy, ngay từ khi sinh ra, con ngoài giá thú được
hưởng đầy đủ các quyền lợi như con trong giá thú, như quyền được khai sinh,
quyền được mang quốc tịch…
Như vậy, có thể nói giải quyết về mặt pháp luật vấn đề “hôn nhân thực tế” là
quy định quan trọng và cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để chúng ta bảo vệ quyền lợi
cho các bên đương sự khi phát sinh tranh chấp. Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định về việc không thừa nhận các trường hợp kết hôn không đăng kí.
Theo đó các văn bản hướng dẫn thi hành luật này đã quy định cụ thể, giải quyết
về mặt pháp luật đối với sự tồn tại của “hôn nhân thực tế” trước đó, theo chúng
tôi như vậy là phù hợp với thực tiễn áp dụng thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000.
V . Một số kiến nghị đề xuất để giải quyết vấn đề chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn :
Theo số liệu điều tra cơ bản về gia đình Việt Nam của trung tâm nghiên cứu
khoa học về gia đình và phụ nữ, năm 2001 tỷ lệ “hôn nhân” không đăng kí kết

hôn vẫn chiếm tỉ lệ gần 7% trong tổng số gia đình.Việc không thừa nhận “hôn
nhân thực tế” của luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 là hoàn toàn
đúng,quyết định này dựa vào một số cơ sở thực tiễn lý luận và thực tế sau :
- Không thừa nhận “hôn nhân thực tế” để đảm bảo tính pháp chế trong việc
thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân, tạo điều kiện cho các Toà
án giải quyết các án kiện về hôn nhân và gia đình được thuận lợi và thống
nhất.
- Sự phát triển về kinh tế, xã hội là một điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc
đăng kí kết hôn.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được chú trọng.

11


- Hệ thống các cơ quan hộ tịch tiếp tục được củng cố cùng với những cải
cách thủ tục hành chính – môi trường thuận lợi cho người dân đăng kí kết
hôn.
Dựa trên tinh thần của bộ Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 em có một số
kiến nghị xin được đề xuất để cải thiện tình hình hôn nhân thưc tế ở Việt Nam :
- Đầu tiên là nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật
trong nhân dân, để người dân hiểu rõ và tự lựa chọn cách sống cho mình.
- Cần có những quy định riêng để điều chỉnh mối quan hệ của các cặp nam
nữ chung sống như vợ chồng để tránh những vấn đề phức tạp giữa các bên
sẽ phát sinh trong trời gian chung sống
- Cần kiên quyết xử lý đối với những trường hợp chung sống trái pháp luật
và buộc họ chấm dứt việc chung sống đó.
- Tạo điều kiện, khuyến khích đăng kí kết hôn cho những trường hợp vi
phạm nhưng còn hạn chế về mặt nhận thức.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa, phong tục tập quán đều có ảnh

hưởng nhất định, chi phối đến việc chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ.
Việc chung sống đó sẽ còn tồn tại như một hiện tượng xã hội khách quan không
phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước. Vấn đề là ở chỗ Nhà nước cần có quan điểm,
phương hướng giải quyết rõ ràng cụ thể đối với từng dạng sống chung khi có
tranh chấp xảy ra, sao cho vừa đảm bảo được quyền lợi chính đáng của các bên
đương sự, vừa bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, không để bất cứ hiện
tượng nào không phù hợp các chuẩn mực xã hội mà không được pháp luật điều
chỉnh.

12


DANH MỤC TÀI KIỆU THAM KHẢO:
1. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000;
2. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005;
3. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002;
4. Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Tập 1, Nxb. Trẻ, TPHCM, 2002;
5. Bộ môn luật hôn nhân và gia đình, "Giải quyết hôn nhân thực tế theo
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000", Đề tài khoa học cấp trường, Trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2003;
6. Bùi Thị Mừng, Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong Luật HNGĐ Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003.
7. Diendanphapluat.vn
8. Luatsu360.com.vn
9. Thuvienphapluat.vn
10.Vietbao.vn
11.Hongha.vn
12.Vnespress.net


13


14



×