Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

(TIỂU LUẬN) phân tích quan điểm hồ chí minh về việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần giá trị, ý nghĩa đối với việt nam ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về việc xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần. Giá trị, ý nghĩa đối với Việt Nam ngày nay.

Họ và tên SV: Lưu Thị Kim Anh
Lớp: Kinh tế phát triển CLC 60
Mã SV: 11180219

HÀ NỘI, NĂM 2019


MỤC LỤC
NỘI DUNG..............................................................................................3
I.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành

phần.......................................................................................................................3
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH..3
1.1.

Quan điểm của C.Mác........................................................................3

1.2.

Luận điểm của Lênin..........................................................................3



II. Quan niệm về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Hồ Chí Minh..........4
1. Tính tất yếu xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần khi lên CNXH ở
Việt Nam............................................................................................................4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.......5
III. Giá trị, ý nghĩa đối với Việt Nam ngày nay.................................................8
1. Thực tiễn.....................................................................................................8
2. Giá trị, ý nghĩa...........................................................................................9
KẾT LUẬN...........................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................16

2


NỘI DUNG
I.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều

thành phần.
1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH

1.1.

Quan điểm của C.Mác
Trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi

của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và khi vận dụng quy luật đó vào phân

tích xã hội tư bản thì C.Mác và Ăngghen đều cho rằng: Phương thức sản xuất
TBCN có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới –
xã hội cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác và Ăngghen dự báo những nét lớn về đặc trưng cơ bản của xã hội
mới đó là:
+ Có lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao.
+ Chế độ tư hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột
người bị thủ tiêu.
+ Nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn
xã hội.
+ Sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội.
+ Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí thức và lao động
chân tay bị xóa bỏ…
Tuy nhiên để xây dựng xã hội mới với những đặc trưng trên cần trải qua
hai giai đoạn: giai đoạn thấp (giai đoạn đầu) và giai đoạn cao (giai đoạn sau).
Sau này Lênin gọi giai đoạn đầu là CNXH, giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản.
1.2.

Luận điểm của Lênin
Vận dụng học thuyết của C.Mác vào công cuộc xây dựng CNXH ở Liên

Xô trước đây, Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH với nội
dung như sau:
3


+ Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào đi lên
CNXH đều phải trải qua kể cả các nước có nền kinh tế rất phát triển.
+ Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền kinh tế
nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác

nhau nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp trong xã hội đã thay
đổi một cách sâu sắc.
Theo Lênin, trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ có sự xen kẽ của “những
yếu tố, những bộ phận nhỏ, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội”. Dựa trên những tư tưởng của C.Mác và Ăngghen về CNXH sau Cách mạng
tháng 10/1917, Lênin đã vận dụng vào xây dựng CNXH thơng qua hai mơ hình:
mơ hình chính sách cộng sản thời chiến và mơ hình chính sách kinh tế mới. Và
mơ hình chính sách kinh tế mới của Lênin là sự đổi mới cả về phương diện lý
luận và chỉ đạo thực tiễn. Điều đó được thể hiện rõ ở nội dung trong đó có nội
dung quan trọng về sở hữu và các thành phần kinh tế. Theo V.I.Lênin, đối với
các nước kinh tế kém phát triển đi lên CNXH thì khơng thể xóa bỏ ngay các hình
thức sở hữu và các thành phần kinh tế, phải sử dụng ngay cả sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa để xây dựng CNXH. Trong chính sách kinh tế mới của Lênin chủ
trương khơng nơn nóng xóa bỏ các thành phần kinh tế, không trực tiếp chuyển
sang nền kinh tế XHCN ngay được mà phải có một thời kỳ quá độ tương ứng với
nó là sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
II.

Quan niệm về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Hồ Chí Minh

1.

Tính tất yếu xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần khi lên CNXH ở

Việt Nam
Hồ Chí Minh ln coi chủ nghĩa Mác – Lênin là “cẩm nang thần kỳ” vì
vậy học thuyết Mác xít đặc biệt là chính sách kinh tế mới của Lênin luôn được
Người quan tâm, tiếp thu và vận dụng vào chiến lược phát triển kinh tế ở Việt
Nam.
4



Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là tất yếu khách quan
mà còn là động lực thúc đẩy, kích thích sự phát triển LLSX xã hội vì:
+ Nâng cao hiệu quả, thúc đẩy kinh tế; tăng năng suất lao động do tồn tại nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lý phù hợp với trình độ
khác nhau của LLSX.
+ Tạo tiền đề đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trạng độc quyền… do sự đa
dạng, phong phú các chủ thể kinh tế
+ Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế q độ, trong đó có
hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những “cầu nối”, “trạm trung gian”
cần thiết để đưa đất nước ta từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
+ Là một trong những nội dung cơ bản của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN nước ta…
2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh đã chỉ

ra rằng: Con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có thể khác với Liên Xơ.
Người viết: “Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xơ.
Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội
(cộng sản) như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta…”.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta cần phải trải qua giai đoạn dân chủ
mới, bởi vì “… đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”. Chính điểm xuất phát thấp này đã quy định tính
chất phức tạp của kết cấu kinh tế – xã hội và sự tồn tại đồng thời của các thành
phần kinh tế khác nhau. Hồ Chí Minh đã nhìn nhận và chỉ ra các loại hình kinh
tế, các hình thức sở hữu khác biệt nhưng được cố kết lại thành một chỉnh thể

kinh tế – xã hội quá độ trong quá trình vận động. Đặc biệt, khi sự tồn tại của các
thành phần kinh tế khác nhau vẫn cịn là một tất yếu khách quan và có vai trò
5


nhất định đối với sự phát triển của nền kinh tế thì cần phải tiếp tục sử dụng, phát
triển chúng theo định hướng XHCN. Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ
mới, có năm thành phần kinh tế khác nhau:
+ Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân
dân).
+ Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
+ Kinh tế của cá nhân, nơng dân và thủ cơng nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
+ Tư bản của tư nhân.
+ Tư bản của Nhà nước (…).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả, cho
nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng
chủ nghĩa tư bản”.
Năm thành phần kinh tế nêu trên tồn tại khách quan trong suốt thời kỳ quá
độ. Do đó, chúng ta cần phải sử dụng chúng một cách triệt để nhằm phát triển
nền sản xuất của xã hội, mà không sợ khuynh hướng phát triển tự phát theo
CNTB của các thành phần kinh tế phi XHCN. Chúng ta cần có những ưu tiên
đúng mức đối với thành phần kinh tế quốc doanh để nó phát triển và trở thành
thành phần kinh tế chủ đạo, đủ sức hướng dẫn các thành phần kinh tế khác vận
động và phát triển theo định hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh cũng nằm trong
quá trình vận động theo các tầng nấc từ thấp đến cao, tương ứng với trình độ
phát triển của LLSX và quy mơ xã hội hóa của nền sản xuất xã hội.
Trong rất nhiều bài viết, bài nói của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
chú ý đến việc thành lập các tổ chức hợp tác xã từ trình độ thấp đến trình độ cao.
Người coi đây là cách thức tổ chức thích hợp với điều kiện một nước mà lực

lượng lao động xã hội phần lớn là nông dân và hoạt động kinh tế chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp như nước ta. Người đã nhấn mạnh rằng: Tất cả đường lối,
6


phương châm, chính sách của Đảng đều nhằm nâng cao đời sống của nhân dân
nói chung, của nơng dân nói riêng. Muốn đạt mục đích đó thì nhất định phải
củng cố và phát triển hợp tác xã cho thật tốt, phải không ngừng nâng cao thu
nhập của xã viên.
Từ sau năm 1945, đặc biệt là trong thời kỳ khôi phục kinh tế ở miền Bắc,
những tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta vận dụng vào
thực tiễn một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo. Có thể nói, trong suốt giai đoạn từ
năm 1955 đến 1960, miền Bắc thực sự bước vào “thời kỳ vàng son“ của q
trình khơi phục và phát triển kinh tế. Những thành tựu kinh tế thu được trong
thời kỳ đó là toàn diện và vững chắc; chất lượng, tốc độ và năng suất lao động
đều vượt xa so với trước chiến tranh (năm 1939) và mấy thập kỷ sau đó. Đó
chính là thắng lợi của đường lối phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Nó trở thành nguồn động lực to lớn thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân, tạo cơ sở vật chất làm nền tảng cho quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Sau thời kỳ khôi phục và cải tạo XHCN, cuối tháng 12/1959, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng CNXH ở miền Bắc. Điều cần
lưu ý là miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH trong hồn
cảnh khách quan đặc biệt: đất nước cịn đang có chiến tranh, ảnh hưởng của chủ
nghĩa giáo điều khá mạnh khi hầu hết các nước thuộc hệ thống XHCN đều áp
dụng ngun bản mơ hình xây dựng CNXH kiểu Liên Xô… Trong điều kiện
phức tạp như vậy, để bảo đảm xây dựng thắng lợi CNXH ở miền Bắc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chủ động và sáng suốt vạch ra một đường lối phát triển kinh tế
độc đáo, sáng tạo và phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Người chỉ rõ:
“Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất

như sau:
+ Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
7


+ Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
+ Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
+ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức không XHCN, làm cho
nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất,
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể “.
Theo quan điểm của Người, việc cải tạo các thành phần kinh tế phi
XHCN, đưa người lao động vào con đường làm ăn tập thể nhằm xóa bỏ lối sản
xuất manh mún, ít hiệu quả và xóa bỏ mọi hình thức bóc lột đối với người lao
động... khơng thể tiến hành một cách nóng vội, mà phải tuân thủ các nguyên tắc:
từng bước, vững chắc và hoàn toàn tự nguyện; phải quán triệt phương châm cải
tạo để sử dụng và sử dụng để cải tạo. Bất cứ một hình thức tổ chức sản xuất nào
cũng phải hướng đến mục tiêu cao nhất là phát triển sản xuất, góp phần nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm lợi ích của các thành phần
kinh tế cũng như của người lao động. Đặc biệt, các thành phần kinh tế quốc
doanh, tập thể cần phải chứng tỏ bằng thực tế sự ưu việt, tính hơn hẳn của
mình so với nền kinh tế cá thể. Sự chỉ đạo có tính ngun tắc đó đã thể hiện tư
duy kinh tế sắc bén của Người. Đáng tiếc là, trong q trình xây dựng CNXH, có
những lúc việc cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế nói chung và sử dụng các
thành phần kinh tế nói riêng vẫn cịn được tiến hành một cách máy móc, rập
khn theo kinh nghiệm của nước ngồi. Vì thế, những tư tưởng đúng đắn của
Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ chưa được
nhận thức đầy đủ và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn.
III.


Giá trị, ý nghĩa đối với Việt Nam ngày nay

1.

Thực tiễn
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao

cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
8


thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN thực chất là xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được bắt đầu từ Đại hội Đảng lần
thứ VI và ngày càng được hoàn thiện. Hai mươi năm đổi mới và phát triển nền
kinh tế theo mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng
kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên
CNXH. Đây là một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế,
vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống
động của Việt Nam.
Đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay đổi cơ
bản và tồn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Sự tăng
lên của sức mạnh tổng hợp quốc gia đã tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp
tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa
tương xứng với khả năng: sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, nhiều vấn đề
xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Xây dựng XHCN là một quá trình, là
một mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong q trình đó, phải từng bước xác
lập, tạo ra những điều kiện, tiền đề của CNXH đồng thời tránh nguy cơ chệch
hướng. Với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại thì phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn
phù hợp.

2.

Giá trị, ý nghĩa
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sản phẩm của quá

trình Đảng và nhân dân ta nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, thể hiện tư duy mới của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Trước đổi mới, trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa
thực sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại ở nước ta trong một
thời gian tương đối dài. Việc cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN được thực
9


hiện một cách gị ép, khơng xem xét, căn cứ vào trình độ phát triển của LLSX.
Những sai lầm này tất yếu dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội
nghiêm trọng vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Trước
tình hình đó, để tìm ra con đường, bước đi phù hợp tiến lên CNXH địi hỏi Đảng
ta phải có những thay đổi lớn trong cả nhận thức và hành động.
Tại Đại hội VI, khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương
đa dạng hố các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng XHCN. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy lý luận và nhận thức
thực tiễn. Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu của nền kinh tế
nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, mà cịn nhận thấy sự cần thiết phải
có chính sách đúng đắn nhằm sử dụng và phát triển các thành phần kinh tế, trong
đó có kinh tế tư nhân nhằm thực hiện những mục tiêu của CNXH. Cùng với sự
vận động của thực tiễn và sự phát triển của nhận thức, lý luận về phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN tiếp tục được Đảng Cộng sản
Việt Nam bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X. Tại Đại hội
X, Đảng ta xác định cơ cấu nền kinh tế nước ta gồm 5 thành phần kinh tế: kinh tế

nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Điểm mới ở đây là đã gộp kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư
bản tư nhân thành thành phần kinh tế tư nhân, đồng thời khẳng định đảng viên
được phép làm kinh tế tư nhân. Văn kiện Đại hội X cũng khẳng định các thành
phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta và chúng bình đẳng với nhau. Điều này có tác dụng tích cực
tạo sự yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong
các thành phần kinh tế phi nhà nước.
Sự phát triển khơng đồng đều của LLSX, tính kế thừa trong phát triển
cũng như đặc điểm cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH,... quy
định sự tồn tại đa dạng, đan xen của các hình thức sở hữu và tương ứng với đó là
10


sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Trong cơ cấu nền
kinh tế đó, kinh tế nhà nước được Đảng xác định là thành phần đóng vai trị chủ
đạo, các thành phần kinh tế khác góp phần quan trọng trong việc huy động mọi
tiềm năng, nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh, phát triển LLSX.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, có những thành
phần kinh tế đã thể hiện tốt vai trị của mình, song cũng có những thành phần
kinh tế còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém.
Về kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế này lấy sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất là cơ sở kinh tế. Kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm các doanh
nghiệp nhà nước mà còn bao gồm các tài sản, công cụ kinh tế quan trọng thuộc
sở hữu nhà nước,... Văn kiện Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo,... Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
Trong những năm qua, tỷ trọng GDP của kinh tế nhà nước có xu hướng
giảm xuống. Trước thực trạng này, đã có nhiều ý kiến cho rằng, kinh tế nhà nước
chỉ cần nắm lấy những yết hầu của nền kinh tế là đủ. Tuy nhiên, đó chỉ là điều

kiện cần nhưng chưa đủ, bởi nếu nắm được yết hầu kinh tế mà các doanh nghiệp
vẫn thua lỗ triền miên, tỷ trọng GDP q thấp thì sẽ khơng thể đem lại sức mạnh
cho kinh tế nhà nước. Vì vậy, kinh tế nhà nước chỉ có thể phát huy được vai trị
chủ đạo của mình khi nó vừa nắm được huyết mạch của nền kinh tế, vừa có năng
suất lao động cao và chiếm tỷ trọng lớn trong GDP.
Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được coi là một thành phần
kinh tế của CNXH. Thành phần kinh tế này tồn tại và phát triển dựa trên hình
thức sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên. Theo V.I.Lênin, đây là mơ hình
dễ tiếp thu nhất của những người nông dân để tiến lên sản xuất lớn XHCN, vì
vậy, sự phát triển kinh tế theo định hướng XHCN ở nước ta đòi hỏi phát triển
mạnh mẽ và vững chắc thành phần kinh tế này.
11


Kinh tế tư nhân bao gồm cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Nhìn chung,
sau hơn 20 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mạnh mẽ và đóng
vai trị ngày càng quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Kinh tế dân doanh trong
những năm gần đây phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh
vực, chiếm 45.7% GDP (trong đó kinh tế hợp tác đóng góp 6.8% GDP). Như
vậy, kinh tế tư nhân đạt 38.9% GDP, tương đương với tỷ trọng GDP của kinh tế
nhà nước.
Trong kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu
nhỏ về tư liệu sản xuất có vai trò quan trọng trong nhiều ngành nghề ở cả thành
thị và nơng thơn, có khả năng huy động vốn và lao động. Đóng góp của kinh tế
cá thể, tiểu chủ trong lĩnh vực nông nghiệp khá lớn, tỷ trọng GDP khá cao nhưng
lại đang giảm liên tục. Sự giảm sút này khơng đáng lo ngại, thậm chí là một dấu
hiệu tích cực, phản ánh sự di chuyển khá mạnh mẽ của nó vào các bộ phận, các
thành phần kinh tế có trình độ cao hơn; thực chất, là sự thu hẹp cách thức sản
xuất nhỏ lẻ để tiến lên những hình thức sản xuất tiến bộ hơn. Đây là một xu thế
tất yếu, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường và q trình cơng nghiệp hố,

hiện đại hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ buộc những thành viên của kinh tế
cá thể, tiểu chủ phải thay đổi, di chuyển vào các bộ phận, các thành phần kinh tế
khác để bảo đảm lợi ích, do đó làm tăng sức cạnh tranh và cơ hội để phát triển
khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất.
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu
hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngồi
nước dưới các hình thức liên doanh, hợp tác. Trong quan niệm của V.I.Lênin,
kinh tế tư bản nhà nước là hình thức kinh tế quá độ đặc biệt quan trọng và cần
thiết để đi lên CNXH. Ông coi nó là thứ CNTB mà hai phần ba là CNXH, là cái
“khơng đáng sợ”, thậm chí cịn là “phịng chờ” để đi vào CNXH.

12


Tuy vậy, các cơ chế, chính sách, điều kiện ở Việt Nam hiện nay chưa tạo
ra sự thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển. Những năm đầu tiên khi
chúng ta mới thực hiện đường lối mở cửa, có lẽ các doanh nghiệp nước ngồi hy
vọng vào việc khai thác những tiềm năng của một thị trường còn rất mới mẻ nên
họ đã đầu tư rất lớn vào Việt Nam, liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với
các doanh nghiệp nước ngoài diễn ra mạnh mẽ, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam ở mức cao. Tuy nhiên, chỉ sau đó một thời gian, số vốn này giảm mạnh.
Chính vì nguồn vốn đầu tư giảm nên tỷ trọng GDP của thành phần kinh tế này
cũng liên tục giảm. Đầu tư nước ngoài là bộ phận phát triển nhất của kinh tế tư
bản nhà nước ở nước ta, nếu đầu tư nước ngồi giảm sút thì tất yếu sẽ làm cho
thành phần kinh tế này kém phát triển, thậm chí là khơng phát triển. Hiện nay,
một số thành phần kinh tế khác đang phát triển rất mạnh mẽ, nên trong tương lai
không xa, nhu cầu liên doanh, liên kết sẽ tăng cao, từ đó sẽ làm cho kinh tế tư
bản nhà nước phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển sang nền sản
xuất lớn XHCN.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là một thành phần kinh tế mới nảy sinh

trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Năm 1987, khi Luật Đầu tư trực tiếp
nước ngồi được ban hành thì kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi mới thực sự có
bước phát triển nhanh chóng. Hiện nay, đã có hàng ngàn cơng ty nước ngồi có
dự án đầu tư ở Việt Nam. Tính từ năm 1988 đến năm 2003, nước ta đã thu hút
được trên 40 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài và đã thực hiện được hơn 20 tỷ
USD. Năm 2005, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đóng góp khoảng
15.9% GDP, năm 2007 khoảng 17%. Từ khi chúng ta gia nhập WTO, nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam tăng đột biến, năm 2007 là
hơn 20 tỷ USD (tăng khoảng 70% so với năm 2006), sáu tháng đầu năm 2008 là
31.6 tỷ USD.

13


Tuy nhiên, sự phát triển của thành phần kinh tế này đã và đang nảy sinh
một vấn đề – đó là sự lệ thuộc vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Rõ ràng, sự
phát triển của thành phần kinh tế này đem lại những lợi ích kinh tế – xã hội rất
lớn, đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng
XHCN ở Việt Nam. Để tận dụng được những đóng góp và hạn chế được những
ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với nền kinh tế – xã hội nước ta, một mặt, chúng
ta phải phát triển mạnh mẽ kinh tế nhà nước để tạo nên sức mạnh thực sự của
Nhà nước; mặt khác, phải có biện pháp hướng thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài vào kinh tế tư bản nhà nước.

14


KẾT LUẬN
Như vậy, cùng với quá trình tổng kết kinh nghiệm và phát triển sáng tạo lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã bước

đầu tìm ra những biện pháp, bước đi mang tính quy luật của q trình đi lên chủ
nghĩa xã hội. Một trong những biện pháp đó, xét về mặt kinh tế, là phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, chúng ta phải tạo môi trường phát triển
thuận lợi, đảm bảo tính độc lập, tự chủ của các thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước phải thực sự đóng vai trị chủ đạo; mặt khác, chúng ta phải tăng
cường vai trò của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, quản lý kinh tế.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I. Lênin. Toàn tập, tập 43, NXB Tiến bộ Matxcơva
2. Hồ Chí Minh. Tồn tập, T7, NXB CTQG
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
4. />5. />
16



×