Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

(TIỂU LUẬN) tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.23 KB, 15 trang )


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………………………………………………………………………..………2
NỘI DUNG CHÍNH…………………………………………………………………………………………………………...………..4
I. Lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất…..4
1. Lực lượng sản xuất…………………………………………………………………………………………………………...………..4
2. Quan hệ sản xuất……………………………….……………………………………………………………………………...………..5
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất……………..……....………..6
II. Tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội …………………..…...………..8
1. Nền kinh tế Việt Nam từ khi bắt đầu đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội đến thời kỳ Đổi
mới (1986)……………………………….……………………………………………………………………………...………………………8
2. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ………………………………………………………...………………………9
3. Tính tất yếu của q trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội……………………………………...………..…………10
KẾT LUẬN …………………………….……………………………………………………………………………...……………………13
TÀI LIỆU THAM KHẢO…….……………………………………….…………………………………...……………………14

1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất định,
tức là có một cách sinh sống, sản xuất riêng của mình, gọi là phương thức sản xuất. Theo
chủ nghĩa Mác - Lênin, trong lịch sử phát triển xã hội loài người đã trải qua 4 hình thái
kinh tế xã hội: thời kỳ công xã nguyên thủy, thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thời kỳ phong kiến,
thời kỳ tư bản chủ nghĩa và đang trong quá trình xây dựng thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Trong
mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy định bởi một phương thức sản xuất nhất định. Và
trong phương thức sản xuất thì sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất với một
trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng làm cho sản xuất vật chất phát triển. Mà
sản xuất vật chất chính là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì vậy, lực lượng


sản xuất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố quan trọng quyết định nên tính chất và kết cấu
của xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự
vận động và phát triển của phương thức sản xuất. Trong đó, lực lượng sản xuất đóng vai
trị quyết định và mỗi loại hình quan hệ sản xuất được xác lập dựa trên cơ sở thích ứng với
một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất
cũng hình thành nên những tác động trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Vậy nên, nếu
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ tạo động lực
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu khơng phù hợp sẽ kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất và gây ra bất ổn cho xã hội. Qua đây ta nhận thấy rằng quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản, phổ
biến của sự vận động và phát triển xã hội, chi phối mọi phương thức sản xuất, không loại
trừ một quốc gia dân tộc nào. Điều này đòi hỏi chúng ta muốn phát triển kinh tế đất nước
một cách hiệu quả thì phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất để hành động phù hợp với quy luật khách quan.
Ngay sau khi giành độc lập, hịa bình lập lại ở miền Bắc, năm 1954 Đảng ta đã lựa
chọn con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt
về khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong
kiến, lực lượng sản xuất rất thấp, chưa có điều kiện để phát triển, nhà nước duy trì quan hệ

2


sản xuất cố hữu đó là chính sách bao cấp tập trung dân chủ trong khi xã hội tồn tại khách
quan nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Chính vì vậy, nền kinh tế nước ta chậm phát triển
và rơi vào tình trạng khủng hoảng trong những năm đầu thập kỷ 80. Điều quan trọng là
Đảng ta nhận thức được điều này và nhanh chóng đổi mới thơng qua Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI với chủ trương “xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và đi theo định hướng xã hội chủ

nghĩa.”1 Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của nước ta, tạo điều kiện để lực lượng sản xuất phát triển phù hợp với quan hệ sản xuất.
Để Việt Nam tiến thẳng lên thời kỳ xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển của tư
bản chủ nghĩa thì quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ là một tất yếu khách quan. Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài “Vận dụng lý luận
về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, hãy phân tích
tính tất yếu của q trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.”
Vì đây là bài tiểu luận đầu tiên của em, vốn kiến thức cịn hạn chế nên khơng tránh
khỏi những thiếu sót, em kính mong nhận được sự góp ý cũng như giúp đỡ từ thầy để tiểu
luận được hồn thiện hơn và em có thể củng cố thêm vốn hiểu biết của mình. Em xin chân
thành cảm ơn!

1

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII.

3


NỘI DUNG CHÍNH
I. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội được quy định bởi một phương thức sản xuất
nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật
chất, là sự thống nhất giữa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
tương ứng ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội lồi người. Nói cách khác, lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố quan trọng quyết định nên tính chất và kết
cấu của xã hội.
1. Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc lực lượng sản xuất được xem
xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật và mặt kinh tế xã hội. Lực lượng sản xuất
là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định.
Lực lượng sản xuất là một bao gồm hai yếu tố: người lao động và tư liệu sản xuất
cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra sức sản xuất để cải biến thế giới tự nhiên
và sáng tạo của cải vật chất theo mục đích của con người. Trong đó, người lao động là con
người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá
trình sản xuất; là chủ thể sáng tạo và đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã
hội. Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động, là điều kiện vật chất
cần thiết để tổ chức sản xuất. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất
mà con người lao động dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng để phù
hợp với mục đích của con người. Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất
mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động, bao gồm phương tiện lao động
và cơng cụ lao động. Trong đó, cơng cụ lao động giữ vai trị quan trọng, là tri thức được
vật thể hóa do con người sáng tạo ra, quyết định đến năng suất lao động và chất lượng của
sản phẩm. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đang diễn ra mạnh mẽ, cơng cụ lao động được trí tuệ hóa ngày càng có vai trị đặc biệt

4


quan trọng. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản
xuất, là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế xã hội trong lịch sử và là tiêu chuẩn
để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Chính vì vậy C.Mác đã khẳng định: “Những
thời đại kinh tế khác nhau khơng phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản
xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”2.
Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và

công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố giữ vai trị quyết
định vì người lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc
của sự phát triển sản xuất. Suy cho cùng, các tư liệu sản xuất cũng chỉ là sản phẩm lao
động được tạo ra và sử dụng bởi con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư
liệu sản xuất cũng phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động. C.Mác đã khẳng
định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản
thân giai cấp cách mạng”3. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn
thể nhân loại là cơng nhân, là người lao động”4. Cùng với người lao động thì cơng cụ lao
động là yếu tố cơ bản, quan trọng không thể thiếu, là một nhân tố quyết định năng suất lao
động xã hội.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình độ và là
nguyên nhân sâu xa và động lực cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. Ngày nay,
trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, sản xuất ra hàng hoá và của cải đặc biệt. Cả con người và cơng cụ
lao động được trí tuệ hố, nền kinh tế của nhiều quốc gia phát triển đang dần trở thành nền
kinh tế tri thức. Lực lượng sản xuất vẫn phát triển trong mối quan hệ biện chứng với quan
hệ sản xuất.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật

C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t. 23, Sđd, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr. 269.
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tồn tập, t. 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr.257.
4
V. I. Lênin, Toàn tập, t. 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1977. tr.430.

2
3

5



chất. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan
hệ sản xuất, ln có vai trị quyết định các quan hệ khác. Vì lực lượng xã hội nào nắm
phương tiện vật chất chủ yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá trình
sản xuất và phân phối sản phẩm. Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất có vai trị quyết định
trực tiếp đến quy mơ, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm
hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động có vai
trị đặc biệt quan trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người; là chất “xúc tác kinh tế” thúc
đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất, làm năng động hóa tồn bộ đời sống kinh tế xã hội. Ngược
lại, nó cũng có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.
Các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại,
chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trị
quyết định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một
cách khách quan và là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất quy định sự vận động và phát triển của các phương thức sản xuất
trong lịch sử. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản
xuất có tác động biện chứng. Trong đó vai trị quyết định thuộc về lực lượng sản xuất, mỗi
loại hình quan hệ sản xuất được xác lập trên cơ sở thích cùng với một trạng thái, trình độ
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, còn quan hệ sản xuất sẽ có những tác động trở
lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát
triển xã hội loài người.
a. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là nội dung của các q trình sản xuất, có tính năng động, cách
mạng, thường xuyên vận động và phát triển, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của

quá trình sản xuất và có tính ổn định tương đối. Sự vận động, phát triển không ngừng của
6


lực lượng sản xuất là do trong quá trình sản xuất, người lao động là chủ thể sáng tạo, luôn
luôn tìm cách cải tiến cơng cụ lao động, tích lũy kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học
để lao động đạt hiệu quả cao hơn.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
một đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Bởi khi lực lượng sản xuất phát triển không
ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất và quan hệ sản
xuất từ chỗ “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất sẽ trở thành “xiềng xích” kìm
hãm sự phát triển đó. Điều này đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã hội là phải xóa bỏ quan
hệ sản xuất cũ để thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Như C.Mác đã từng nói: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với
những lực lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, lồi người thay đổi
phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của
mình, lồi người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình.”5
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong
lịch sử, quyết định đến nội dung, tính chất của quan hệ sản xuất.
b. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
một đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Đó là trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là
“hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản
xuất phát triển. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục
đích, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống động lực thúc đẩy
sản xuất phát triển, đem lại năng suất chất lượng và hiệu quả của nền sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất thì đều là khơng phù hợp. Khi đó, sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ bị kìm
hãm, thậm chí là bị phá hoại. Ngược lại, khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì nên sản xuất phát triển đúng hướng, thúc đẩy lực lượng sản

xuất phát triển.

5

C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr. 187.

7


Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến tác động đến tồn bộ tiến trình lịch sử nhân loại, làm cho lịch sử xã hội
loài người là lịch sử kế tiếp nhau của những phương thức sản xuất. Có thể thấy rằng, quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật kinh tế cơ
bản, phổ biến, chi phối mọi phương thức sản xuất, không loại trừ một quốc gia dân tộc
nào. Điều đó địi hỏi chúng ta mỗi phát triển kinh tế đất nước thì phải nhận thức đúng đắn
mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để hành động phù
hợp với quy luật khách quan.

II. TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN
KINH TẾ HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Nền kinh tế Việt Nam từ khi bắt đầu đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội đến thời kỳ
Đổi mới (1986)
Ngay sau khi giành độc lập, hịa bình lập lại ở miền Bắc, năm 1954 Đảng ta đã lựa
chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Mặc dù chủ
trương này đã được xác định từ đầu thế kỉ XX, trong Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã
chỉ rõ: “Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân sẽ tiến lên chủ nghĩa xã
hội”, nhưng phải đến thời gian này mới có điều kiện để thực hiện. Tuy nhiên, xuất phát từ
một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất của nước ta rất thấp, chưa
có điều kiện để phát triển. Nhà nước còn thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập

trung quan liêu bao cấp, chỉ công nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế: thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu
tập thể của nhân dân lao động. Đồng thời nhà nước không chấp nhận các hình thức sở hữu
khác trong xã hội như sở hữu hỗn hỗn hợp, sở hữu quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của
nền kinh tế nhiều thành phần, tuyệt đối hóa vai trị của chế độ cơng hữu, dân đến chủ
trương cải tạo và sớm xóa bỏ sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế phi chủ nghĩa,
trong khi nó đang tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Những điều này là do chúng ta đã chủ quan, nóng vội, duy ý chí trong công cuộc
đổi mới đất nước, dẫn đến việc nhận thức và vận dụng chưa đúng đắn quy luật quan hệ sản

8


xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong khi lực lượng sản
xuất còn kém phát triển lại tập trung xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở trình độ
cao, muốn dùng quan hệ sản xuất tiên tiến để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Chính vì vậy, sản xuất bị kìm hãm, năng suất lao động quá thấp, đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn, nền kinh tế nước nhà chậm phát triển và rơi vào tình trạng khủng hoảng
trong những năm đầu thập kỷ 80.
Điều quan trọng là Đảng ta đã nhận thức được điều này và nhanh chóng đổi mới
thơng qua Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI. Tại Đại hội, Đảng đã tổng kết được những
bài học lớn và đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp hơn. Đại hội đã chỉ rõ: “Theo
quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
q trình cải tạo xã hội chủ nghĩa phải có bước đi và hình thức thích hợp. Kinh nghiệm
thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất
lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi q xa so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.”6 Để đổi mới và phát triển đất nước, Đảng
đã đưa ra chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều
thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiều chế độ sở hữu khác nhau. Đây là một chủ
trương đúng đắn, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, thể hiện sự

nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời đặt cơ sở và nền tảng quan trọng để các
nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề từng bước phát triển nền kinh tế của đất nước.
2. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, là kiểu quan hệ kinh tế đặc trưng bởi những
hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Do đó, thành phần kinh tế tồn tại dưới
những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, dựa trên quan hệ sản xuất để xác định từng
thành phần kinh tế cụ thể. Theo Lênin, thuật ngữ thành phần kinh tế có hàm nghĩa quan hệ
sản xuất (trong đó cơ bản là quan hệ sở hữu) ứng với một trình độ phát triển lực lượng sản
xuất nhất định đại diện cho một phương thức sản xuất đã lỗi thời, nhưng chưa bị xóa bỏ,
hoặc đang trong quá trình phát triển để trở thành phương thức sản xuất thống trị (với nghĩa
phổ biến). Việc xác định thành phần kinh tế là để có chính sách đúng đắn đối với chúng.

6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Tồn tập, tập 47, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2006. tr.390

9


Cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần là cơ cấu kinh tế trong đó các thành phần kinh
tế cùng tồn tại và phát triển như một tổng thể. Các thành phần kinh tế khơng tồn tại biệt lập
mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, vừa có quan hệ hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau để tạo thành một cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần
kinh tế. Qua quá trình vận dụng lý luận và dựa trên thực tiễn tình hình đất nước, tại Hội
nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3 - 1989) Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán
chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự
do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa
hợp tác với nhau bổ sung cho nhau vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước

pháp luật.”7
Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã nêu rõ, hiện nay nền kinh tế nước ta có
4 thành phần kinh tế được nhà nước chú trọng là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác
xã; kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Trong đó kinh tế nhà nước đóng
vai trị chủ đạo, kinh tế tập thể khơng ngừng được củng cố và phát triển, hai thành phần
này ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là
một trong những động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi được khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước nhằm tạo ra sự
tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế và giữ được sự ổn định về chính trị gắn với cơng bằng xã
hội.
3. Tính tất yếu của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, phù hợp với tình hình
kinh tế - xã hội của Việt Nam và thể hiện sự nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật về
mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 06-NQ/TW, Hội nghị BCHTW lần thứ 6, khóa VI, ngày 29/03/1989

10


Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại của nhiều chế độ sở
hữu nhiều hình thức sở hữu là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Nước ta vừa
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, lập lại hòa bình ở miền Bắc, từ một nước vốn
là nửa thuộc địa nửa phong kiến đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, được tiếp thu một di sản

của nền sản xuất bao gồm nhiều thành phần kinh tế, từ thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ
đến tư bản tư nhân và tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) và chế
độ sở hữu xã hội (chế độ công hữu). Những thành phần kinh tế này vẫn đóng vai trị quan
trọng trong việc phát triển trình độ lực lượng sản xuất của nước ta nên việc tiếp tục duy trì
là cần thiết. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần phải tiến hành xây dựng và phát triển các
thành phần kinh tế mới như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể để phù hợp với con đường đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế, để đạt được hiệu quả cao trong phát triển kinh
tế, sự tồn tại nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là tất yếu khách quan.
Thứ hai, quan hệ sản xuất và quan hệ sở hữu phải phù hợp với trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất. Vì thế, mỗi thành phần kinh tế với mỗi hình thức sở hữu
khác nhau sẽ phản ánh một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do trình độ lực lượng sản xuất cịn kém, phát triển không
đồng đều giữa các ngành và vùng kinh tế , dẫn đến việc xuất hiện nhiều hình thức sở hữu
khác nhau. Vì vậy, tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế là một tất yếu khách
quan.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đánh dấu một bước phát triển mới trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Một trong bảy phương hướng cơ bản được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) là: “Phù
hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa từ thấp đến cao với đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước.”8

Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà
Nội.1991. tr. 21.
8

11



Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần khơng chỉ
là một tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà cịn đóng góp vai
trị to lớn cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế thúc đẩy năng suất lao động của toàn
xã hội, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả của toàn nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, nền kinh tế nhiều thành phần làm đa dạng, phong phú hơn chủ thể kinh tế,
tạo tiền đề đẩy mạnh sự cạnh tranh, hạn chế tình trạng độc quyền. Điều này không những
giúp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong q trình tồn cầu
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, mà còn thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững,
phát triển đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân.
Thứ ba, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh tế của nhiều
cá nhân, góp phần giúp khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cũng như tiềm năng
của đất nước.
Thứ tư, đa dạng thành phần kinh tế tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình
thức kinh tế quá độ, trong đó có kinh tế tư bản nhà nước - cầu nối để đưa nước ta tiến lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Cuối cùng, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là nội dung cơ bản,
quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một bước đột
phá trong đổi mới tư duy kinh tế, giúp nước ta giải phóng được sức sản xuất vốn bị kìm
hãm trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước kia, từ đó huy động tổng hợp các
nguồn lực để xây dựng đất nước. Qua 35 năm thực hiện Đổi mới, các thành phần kinh tế ở
Việt Nam đều phát huy tính hiệu quả của mình, thể hiện rõ tính đúng đắn trong thực hiện
nền kinh tế nhiều thành phần, dưới cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

12



KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản, phổ biến nhất của sự vận động và phát triển xã hội, chi phối đến mọi mặt
của đời sống và có tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sự phát triển của xã hội lồi
người. Vận dụng cơ sở lý luận của quy luật này, ta đã nhận thức được tính tất yếu khách
quan của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Để từ đó Đảng và Nhà nước đã đưa ra
chủ trương đúng đắn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua 35 năm thực hiện Đổi mới, nền
kinh tế Việt Nam đã có nhiều bước chuyển mình, tăng trưởng nhanh và bền vững, dần hội
nhập sâu rộng kinh tế quốc tế, đời sống của nhân dân được cải thiện. Thực tiễn này đã cho
thấy nước ta đang đi trên con đường đúng đắn, từng bước hoàn thành cơ chế kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức đầy đủ, chính xác quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong việc vận dụng và thực hiện
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, và là cơ sở khoa học quan trọng
để hiểu một cách sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó,
ta càng thêm tin tưởng vào sự dẫn dắt, lãnh đạo của Đảng, có thêm kiến thức để phát hiện
và đấu tranh chống những quan điểm tư tưởng, sai trái, phản động trong thời điểm hiện tại.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t. 23, Sđd, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr.
269.
3. C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, t. 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr.257.
4. V. I. Lênin, Toàn tập, t. 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1977. tr.430.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr. 187.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 47, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội. 2006. tr.390
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 06-NQ/TW, Hội nghị BCHTW lần thứ 6, khóa
VI, ngày 29/03/1989
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.1991. tr. 21.
9. GS. TS Phạm Văn Đức (chủ biên), Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Hà Nội. 2019.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2005.
11. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. GS. TS Hồng Chí Bảo (chủ biên), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành cho
bậc đại học - chuyên lý luận chính trị). Hà Nội. 2019.
13. Kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
/>u-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567515.html; 31/10/2020.
14. Kinh tế nhiều thành phần: Phát huy sức mạnh toàn bộ lực lượng:
/>c-luong.html; 21/06/2021

14



×