Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Thực trạng việc tham gia, phê chuẩn và ảnh hưởng Công ước Luật biển tới hoạt động khai thác thủy sản xuất khẩu Thủy sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.78 KB, 46 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

Đề tài:
Thực trạng việc tham gia, phê chuẩn và ảnh hưởng
Công ước Luật biển tới hoạt động khai thác thủy sản
xuất khẩu của Việt Nam

Giảng viên: Lê Quốc Cường
Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Lớp học phần: 2226FECO2041
Học phần: Quản lí mơi trường trong thương mại quốc tế

Hà Nội, tháng 11 năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 4
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC LUẬT BIỂN 1982 5
1.1. Lịch sử hình thành của Cơng ước ........................................................................ 5
1.2. Nội dung cơng ước UNCLOS 1982 có ảnh hưởng đến khai thác thủy sản ....... 6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH THAM GIA, PHÊ CHUẨN VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982 ĐẾN KHAI THÁC THỦY SẢN
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM ....................................................................................... 9
2.1. Khái quát quá trình tham gia, phê chuẩn và thực hiện Công ước Luật biển
1982 tại Việt Nam ............................................................................................................... 9
2.1.1. Khái qt về q trình tham gia Cơng ước Luật biển 1982 của Việt Nam 9
2.1.2. Quá trình Việt Nam thực hiện Công ước Luật biển ................................... 15
2.2. Tổng quan hoạt động khai thác thủy sản xuất khẩu của Việt Nam ................ 19
2.2.1. Hoạt động khai thác thủy hải sản ................................................................. 20


2.2.2. Hoạt động xuất khẩu thủy sản khai thác ..................................................... 23
2.3. Ảnh hưởng của Công ước UNCLOS 1982 tới hoạt động khai thác thủy sản
xuất khẩu của Việt Nam................................................................................................... 24
2.3.1. Tác động của Công ước đến tài nguyên và môi trường trên biển: ............ 25
2.3.2. Tác động của Công ước đến công tác quản lý Nhà nước: .......................... 29
2.4. Đánh giá hoạt động khai thác thủy sản xuất khẩu của Việt Nam khi tham gia
Công ước Luật biển của Việt Nam .................................................................................. 36
2.4.1. Một số thành công .......................................................................................... 36
2.4.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ....................................................... 39
Chương III. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THAM
GIA CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982 ............................................................................. 41
3.1. Về ban hành văn bản quy phạm pháp luật ....................................................... 41
3.2. Về xây dựng, tổ chức bộ máy .............................................................................. 42
3.3. Về tổ chức quản lý. ............................................................................................... 43
3.4. Về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm ............................................................ 44
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 46

2


Tóm tắt
Bài viết tập trung nghiên cứu Cơng ước Luật biển 1982, q trình tham gia, phê chuẩn
Cơng ước của Việt Nam và phân tích sự ảnh hưởng của Cơng ước tới hoạt động khai thác
thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Qua những giới thiệu tổng quan về Công ước, nhóm
chúng em tập trung phân tích các khía cạnh mà Công ước ảnh hưởng đến hoạt động khai
thác thủy sản xuất khẩu. Trên cơ sở đó, đưa ra đánh giá chung về tác động của Công ước
và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả khi tham gia Cơng ước. Thơng qua bài
thảo luận, nhóm chúng em đã đánh giá được thành công, hạn chế và nguyên nhân của những
ảnh hưởng của Công ước đến hoạt động khai thác thủy sản xuất khẩu, đồng thời cũng đưa

ra những giải pháp cụ thể về phía nhà nước để ngày càng tạo điều kiện cho hoạt động khai
thác phát triển

3


MỞ ĐẦU
Ngày nay, các vấn đề về môi trường đã trở thành một phần không thể thiếu trong cả
cuộc sống thường ngày và là vấn đề đáng quan tâm trong hoạt động kinh doanh, kinh tế của
đất nước. Môi trường trở thành rào cản phi thuế quan và tiêu chuẩn cần thiết cho hoạt động
thương mại quốc tế, đẩy mạnh việc các nước phải có biện pháp để cải thiện các lỗ hổng luật
pháp, và tăng cường hoạt động quản lý của quốc gia.
Trong hơn 10 năm trở lại đây, ngành Thủy sản đã có những bước phát triển nhanh và
ổn định, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Ngành thủy sản
đã trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần chuyển đổi cơ cấu nơng nghiệp nơng thơn,
tham gia xóa đói giảm nghèo, cải thiện cuộc sống của cộng đồng cư dân không chỉ vùng
nông thôn ven biển, mà cả ở các vùng núi, trung du và Tây nguyên. Sự hiện diện dân sự
của tàu thuyền khai thác hải sản trên biển đã đóng góp vào việc giữ gìn an ninh, bảo vệ chủ
quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc. Ngành Thủy sản đã khẳng định, lấy xuất khẩu là động
lực và ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực này. Nhờ đó, thế mạnh của nghề cá nhân dân được phát
triển mạnh qua các mơ hình kinh tế ngồi quốc doanh, thu hút các thành phần kinh tế đầu
tư để phát triển. Việc ngành thuỷ sản chú trọng đầu tư ngày một nhiều hơn và đúng hướng
đã hình thành tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế thuỷ sản, tạo nên sự chuyển biến
mạnh mẽ trong sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực, mở rộng quy mô sản xuất, kinh
doanh, các lĩnh vực khai thác và nuôi trồng thuỷ sản được định hướng phát triển phục vụ
xuất khẩu đã tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho lao động nghề cá cả nước, góp
phần gia tăng giá trị xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3260 km, Việt Nam có nhiều lợi ích lớn
gắn liền với biển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển cả, Việt Nam đã tích cực tham gia
vào quá trình thương lượng xây dựng Cơng ước Luật biển năm 1982 và có nhiều nỗ lực

trong việc thực thi Cơng ước Luật biển 1982; luôn đề cao tôn chỉ và mục tiêu của Cơng
ước, đồng thời có những hành động thiết thực vào việc thực hiện Cơng ước.
Nhóm em chọn đề tài “Thực trạng việc tham gia, phê chuẩn và ảnh hưởng Công ước
Luật biển tới hoạt động khai thác thủy sản xuất khẩu của Việt Nam” với mong muốn thơng
qua việc phân tích sự tham gia, phê chuẩn Cơng ước Luật biển và phân tích sự ảnh hưởng
của Cơng ước đến hoạt động khai thác thủy sản xuất khẩu của Việt Nam, từ đó đưa ra một
số kiến nghị, giải pháp để nâng cao mức độ hoàn thiện về chính sách, pháp luật, từ đó tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động khai thác thủy sản xuất khẩu, đáp ứng với yêu cầu mà
Công ước và thị trường quốc tế đặt ra.
4


CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC LUẬT BIỂN 1982
1.1. Lịch sử hình thành của Cơng ước
Luật biển Quốc tế phát triển cùng với sự đấu tranh và điều hòa giữa hai nguyên tắc
lớn là tự do biển cả và chủ quyền của quốc gia trên biển. Đến đầu thế kỷ XX, nhiều quốc
gia biểu lộ ý muốn mở rộng quyền tuyên bố chủ quyền khai thác các nguồn tài nguyên
khoáng sản, bảo vệ nguồn cá và có các phương tiện để thực thi kiểm sốt ơ nhiễm. Hội
Quốc liên đã tổ chức một Hội nghị năm 1930 tại Hague để bàn về điều này từ ngày 13/3
đến 12/4/1930 với 47 quốc gia tham dự, việc pháp điển hóa Luật Biển với các vấn đề:
nguyên tắc tự do hàng hải, chế độ pháp lý của lãnh hải, đường cơ sở, quy định qua lại không
gây hại của tàu thuyền và chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải. Hội nghị tuy thất bại
trong việc đưa ra một bề rộng lãnh hải chung, nhưng đã công nhận lãnh hải của các quốc
gia rộng ít nhất là 3 hải lý (mỗi hải lý bằng l.852 m) và là một bộ phận của lãnh thổ quốc
gia, hình thành quy định về vùng tiếp lãnh hải (1).
Hội nghị lần thứ I của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1958 tổ chức tại Giơnevơ từ
ngày 24/2 đến ngày 29/4/1958. Hội nghị đã đạt được những bước tiến quan trọng về lập
pháp, cho ra đời 4 Công ước: Công ước về Lãnh hải (có hiệu lực từ ngày 10/9/1964 với 48
quốc gia là thành viên); Công ước về Biển cả (có hiệu lực từ ngày 30/9/1962 với 59 quốc
gia là thành viên); Công ước về Đánh cá và Bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả (có

hiệu lực từ ngày 20/3/1966 với 54 quốc gia là thành viên). Các Cơng ước này đã pháp điển
hóa nhiều ngun tắc và quy phạm của luật tập quán (như: qua lại không gây hại trong lãnh
hải) và đã đưa ra nhiều khái niệm mới (như khái niệm Thềm lục địa). Nhưng các Công ước
này thất bại trong việc thống nhất bề rộng lãnh hải (các quốc gia yêu sách tới 5 loại bề rộng
lãnh hải khác nhau) và trong việc đưa ra một khái niệm mơ hồ về xác định ranh giới của
Thềm lục địa.
Đến năm 1960, Hiên Hợp quốc tổ chức Hội nghị về Luật Biển lần thứ II; sau 6 tuần
Hội nghị ở Geneva từ ngày 17/3 đến 26/4/1960, các quốc gia đã không đạt được thêm những
thỏa thuận mới do khơng tìm được tiếng nói chung về vấn đề bề rộng lãnh hải, tàu quân
sự, ... Vào năm 1967, vấn đề về các tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra trong
Liên Hợp quốc.
Và Hội nghị Liên Hợp quốc lần thứ III về Luật Biển (tiếng Anh: Third United Nations
Convention on Law of the Sea- viết tắt là: UNCLOS III) được tại chức tại New York năm
1973 đã cố gắng giảm khả năng các nhóm quốc gia thống trị đàm phán, Hội nghị dùng một
quy trình đồng thuận thay cho bỏ phiếu lấy đa số; Hội nghị có 11 phiên họp, kéo dài trong
5


9 năm từ tháng 12/1973 đến tháng 12/1982. Hội nghị đã đóng góp quan trọng vào tiến trình
pháp điển hóa Luật Biển Quốc tế. Cộng đồng Quốc tế đã thừa nhận một nguyên tắc mới do
Đại sứ Malta đưa ra tại phiên họp thứ 22 Đại Hội đồng Liên Hợp quốc ngày 17/8/1967, coi
vùng biển nằm ngoài vùng tài phán quốc gia là di sản chung của nhân loại. Hội nghị đã cho
ra đời Công ước Luật Biển 1982 - UNCLOS 1982. Một loạt các quy phạm mới được bổ
sung vào Dự thảo Công ước, được thông qua với 130 phiếu. Văn bản cuối cùng được ký
kết tại thành phố Môn-tê-gô-bay của Gia-mai-ca ngày 10/12/1982 bởi 117 quốc gia và thực
thể, trong đó có Việt Nam. Cơng ước Luật Biển 1982 thực sự là một bản Hiến pháp mới về
biển của cộng đồng Quốc tế. Mỹ và số đông các nước công nghiệp phát triển, trừ Pháp,
không ký kết và phản đối Phần XI của Công ước về chế độ quản lý và khai thác đối với khu
vực đáy đại dương được coi là tài sản chung của nhân loại, đặc biệt là thể thức điều hành
của Cơ quan Quyền lực Đáy đại dương. Và để công ước thực sự có tính phổ cập và tạo điều

kiện cho các cường quốc tham gia, theo sáng kiến của Tổng Thư ký Liên Hợp quốc, một
thỏa thuận mới đã được ký kết vào ngày 29/7/1994 cho phép thay đổi nội dung của Phần
XI của Công ước.
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) có hiệu lực từ ngày
16/11/1994, một năm sau khi Guyana - nước thứ 60 ký Cơng ước. Đến nay đã có 161 nước
phê chuẩn. Cơng ước có 17 phần, gồm 320 điều khoản; 9 phụ lục với hơn 100 điều khoản
và 4 nghị quyết kèm theo
1.2. Nội dung cơng ước UNCLOS 1982 có ảnh hưởng đến khai thác thủy sản
a. Vấn đề khai thác môi trường biển.
Vấn đề ô nhiễm môi trường biển hiện đang là một trong những mối quan tâm hàng
đầu của toàn thể cộng đồng thế giới. Chiếm diện tích khoảng 3/4 bề mặt trái đất, biển và
đại dương có tầm quan trọng to lớn đối với sự tồn vong của loài người. Ơ nhiễm mơi trường
biển khơng chỉ gắn kết với các hoạt động biến đổi của tự nhiên mà còn gắn liền đi đôi với
các hoạt động của con người- có thể trực tiếp làm ơ nhiễm mơi trường biển hoặc cũng có
thể gián tiếp gây ra các hiện tượng tự nhiên làm ơ nhiễm mơi trường biển.
Vì lý do trên, khai thác tài nguyên luôn luôn phải đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường,
nếu khai thác mà khơng chú trọng đến mơi trường thì tài ngun nhanh cạn kiệt và kéo theo
hàng loạt các vấn đề về mơi trường như suy thối, ơ nhiễm…, khơng đảm bảo phát triển
bền vững. Chính vì vậy, ngồi những vấn đề quan trọng nêu trên, Công ước Luật Biển 1982

6


cũng đặc biệt chú trọng đến việc khai thác tài ngun thiên nhiên, bảo vệ và giữ gìn mơi
trường biển.
b. Vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Nguyên tắc bảo vệ và khai thác hợp lý các sinh vật sống trên biển: Liên quan đến nội
dung của nguyên tắc này, Phần 7 Mục 2 từ Điều 116 đến Điều 120 Công ước Luật Biển
1982 đã xây dựng những quy định cơ bản về việc bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh
vật của biển cả.Nội dung của nguyên tắc này bao hàm việc các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ

các sinh vật sống trên biển. Trong trường hợp tiến hành khai thác, việc khai thác sinh vật
sống này phải được tiến hành một cách khoa học, hợp lý để bảo tồn và phát triển bền vững.
Điều 193 Công ước Luật Biển 1982 quy định: “Các quốc gia có quyền thuộc chủ
quyền khai thác các tài nguyên thiên nhiên của mình theo chính sách về mơi trường và theo
đúng nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ mơi trường biển của mình”. Và Điều 140 của Cơng ước
quy định về Công bằng trong quản lý khai thác và phân chia tài nguyên Vùng: “Các hoạt
động trong Vùng được tiến hành là vì lợi ích của tồn thể lồi người, khơng phụ thuộc vào
vị trí địa lý của các quốc gia dù là quốc gia có biển hay khơng có biển và có lưu ý đặc biệt
đến các lợi ích và nhu cầu của các nước đang phát triển và các dân tộc chưa giành được
một nền độc lập đầy đủ hay một chế độ tự trị khác được Liên Hợp quốc thừa nhận theo
đúng Nghị quyết 1514 (XV) và các Nghị quyết tương ứng khác của Đại hội đồng”.
Việc thăm dò, khai thác tài nguyên của Vùng được tiến hành thông qua một tổ chức
quốc tế, gọi là: Cơ quan quyền lực Quốc tế; cơ quan này bảo đảm việc phân chia công bằng,
trên cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các các lợi ích khác do những
hoạt động tiến hành trong Vùng thông qua bộ máy của mình.
Các Cơ quan quyền lực Quốc tế có quyền định ra các quy tắc, quy định và thủ tục
thích hợp cho việc sử dụng Vùng vào mục đích hịa bình, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô
nhiễm môi trường biển; bảo vệ sự sống của con người, bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên
thiên nhiên của Vùng, phòng ngừa những thiệt hại đối với hệ động vật và hệ thực vật.
c. Vấn đề bảo vệ và giữ gìn mơi trường biển.
Điều 1, khoản 4 Công ước Luật Biển 1982 đã đưa ra khái niệm khá tồn diện về ơ
nhiễm mơi trường biển: “Ơ nhiễm môi trường biển là việc con người trực tiếp hoặc gián
tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sơng, khi
việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây nguy hiểm cho sức khỏe của con
người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và việc sử dụng
7


biển một cách hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng nước biển về phương tiện sử dụng
nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển”.

Điều 192 Công ước Luật Biển 1982 đã khẳng định: “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ
và gìn giữ mơi trường biển”. Đây là nghĩa vụ xuất phát từ quyền lợi của Quốc gia ven biển
(QGVB) cũng như cộng đồng quốc tế trong các vùng biển của QGVB. Nghĩa vụ này khơng
đi ngược lại với lợi ích chính đáng của các QGVB mà luôn gắn liền với quyền chủ quyền
của các QGVB trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình nhưng họ vẫn phải thi
hành các chính sách về môi trường để bảo vệ môi trường biển. Điều 235, khoản 1 Công
ước Luật Biển 1982 ghi: “Các quốc gia có trách nhiệm quan tâm đến việc hồn thành các
nhiệm vụ quốc tế của mình về vấn đề bảo vệ và gìn giữ mơi trường biển, các quốc gia có
trách nhiệm thực thi theo đúng pháp luật quốc tế”.
Công ước Luật Biển 1982 không chỉ quy định nghĩa vụ của các nước trong việc bảo
vệ môi trường biển trong phần quy định về các vùng biển như bảo tồn và quản lý tài nguyên
sinh vật của biển cả hay bảo vệ môi trường và sự sống của con người ở Vùng, mà còn dành
một phần riêng với 46 điều đề cập tới vấn đề bảo vệ và gìn giữ mơi trường biển.
d. Nghiên cứu khoa học biển, phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển.
Công ước Luật Biển 1982 đã quy định những vấn đề cơ bản như quyền tiến hành
nghiên cứu khoa học biển; nghĩa vụ của các QGVB trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho
các quốc gia khác tiến hành nghiên cứu khoa học biển; các thiết bị, phương tiện phục vụ
công tác nghiên cứu khoa học biển; giải quyết tranh chấp về nghiên cứu khoa học biển…
Nội dung cụ thể của Công ước về nghiên cứu khoa học biển được Công ước quy định tại
phần XIII, từ Điều 238 đến Điều 265.

8


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH THAM GIA, PHÊ CHUẨN VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982 ĐẾN KHAI THÁC THỦY SẢN
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
2.1. Khái quát quá trình tham gia, phê chuẩn và thực hiện Cơng ước Luật biển 1982
tại Việt Nam
2.1.1. Khái quát về quá trình tham gia Công ước Luật biển 1982 của Việt Nam

Quá trình xây dựng Cơng ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 đã diễn ra nhiều
năm với sự nỗ lực của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức quốc
tế phi chính phủ.
Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3260 km, Việt Nam có nhiều lợi ích lớn
gắn liền với biển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của biển cả, Việt Nam đã tích cực tham gia
vào quá trình thương lượng xây dựng Cơng ước Luật biển năm 1982 và có nhiều nỗ lực
trong việc thực thi Cơng ước Luật biển 1982; luôn đề cao tôn chỉ và mục tiêu của Cơng
ước, đồng thời có những hành động thiết thực vào việc thực hiện Công ước.
Ngày 27/7/1994, Việt Nam nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn Công ước của LHQ về
Luật Biển năm 1982 tới Ban Thư ký LHQ. Được coi là "Hiến pháp về biển và đại dương".
Từ trước khi Công ước Luật biển 1982 ra đời, Việt Nam đã tích cực vận dụng các quy
định liên quan của luật pháp quốc tế để xây dựng các văn bản pháp quy về biển. Căn cứ
vào xu thế phát triển tiến bộ của luật biển quốc tế, năm 1977 Việt Nam ban hành “Tuyên
bố của Chính phủ về các vùng biển Việt Nam” xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200
hải lý, cho phép mở rộng quyền của Việt Nam ra biển, không chỉ giới hạn trong quyền đánh
cá mà cịn có các quyền chủ quyền và quyền tài phán khác. Với Tuyên bố này, Việt Nam
cũng như các nước Kenya, Myanmar, Cuba, Yemen, Dominic, Guatemala, Ấn Độ, Pakistan,
Mexico, Xây-sen được coi như những nước đi tiên phong trong việc đưa khái niệm vùng
đặc quyền kinh tế trở thành khái niệm có giá trị tập quán và sau này trở thành một nội dung
quan trọng của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.
Việt Nam là quốc gia tham gia Hội nghị lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển
tại Montego Bay, Jamaica. Ngay sau khi Công ước Luật biển 1982 được thông qua, ngày
30/4/1982, Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Cơng ước. Trước khi Cơng
ước có hiệu lực, ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn
văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt

9



Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý cơng bằng,
khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.
Nghị quyết phê chuẩn khẳng định chủ quyền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với
vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các
quy định của Công ước Luật Biển 1982 và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế; yêu cầu
các nước khác tơn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Nghị quyết khẳng định chủ
trương của Việt Nam giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất
đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hịa bình trên tinh thần bình
đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật
Biển 1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được quy định bởi những nguyên tắc của Công ước
Luật biển 1982.
Vận dụng các quy định của Công ước Luật biển 1982, Việt Nam đã từng bước hoàn
thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho công tác quản lý biển và các hoạt động
kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác
với các nước, vì hịa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Ngày 21/06/2012, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật biển Việt Nam. Luật biển
Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các quy định của Công ước Luật biển 1982, có tham
khảo các thơng lệ quốc tế và thực tiễn của các nước. Luật biển Việt Nam gồm 7 chương
với 55 điều, đề cập đến các nguyên tắc quản lý và sử dụng biển; phạm vi và quy chế các
vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các
đảo, quần đảo; các hoạt động trong các vùng biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ;
bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển;
tuần tra kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế về biển. Với việc thông qua Luật biển, Việt
Nam đã làm cho các quy định của luật pháp về biển của mình hài hịa với các quy định của
Công ước Luật biển 1982. Việc Luật biển Việt Nam khẳng định chủ truong giải quyết các
tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hịa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Luật
biển 1982 càng khẳng định rõ Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, thể hiện quyết tâm của Việt Nam phấn đấu

vì hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới.
Trước đó, ngày 14/6/2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật hàng hải Việt
Nam sửa đổi, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006, điều chỉnh các hoạt động giao thông hàng
10


hải trên biển, chế độ ra vào các cảng biển Việt Nam. Ngồi ra, Việt Nam đã thơng qua một
số bộ luật khác liên quan đến quản lý và sử dụng biển như Luật Dầu khí (1993), Luật Tài
nguyên nước (1998), Luật Bảo vệ môi trường (1993), Luật Biên giới quốc gia (2003), Luật
Thủy sản (2004) và nhiều pháp lệnh, nghị định khác.
Căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã và đang tiến
hành quản lý có hiệu quả và triển khai các hoạt động kinh tế biển trong vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa của mình phục vụ phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân
dân. Chính phủ Việt Nam ln bảo vệ những lợi ích hợp pháp của các đối tác nước ngoài
trong hợp tác kinh tế, quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên biển phù hợp với các quy
định của Công ước 1982. Việt Nam cũng đã chủ động và hợp tác cùng các bên liên quan
trong việc bảo vệ môi trường biển, cứu hộ, cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và triển
khai các biện pháp phòng chống tội phạm trên biển, nhất là cướp biển, góp phần thực hiện
đầy đủ các quy định của Công ước Luật biển 1982.
Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường biển là vấn đề ln được Chính
phủ Việt Nam hết sức coi trọng và đã được quy định trong các văn bản pháp luật liên quan
đến quản lý biển của Việt Nam trong các lĩnh vực khác nhau như: vận tải biển, dầu khí,
ni trồng khai thác thủy hải sản và kiểm sốt và tuần tra biển. Việt Nam cũng là quốc gia
đã chủ động đưa ra nhiều sáng kiến liên quan khai thác bền vững nguồn tài nguyên biển và
đại dương, liên quan đến bảo vệ môi trường biển, chống nước biển dâng cao.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác tìm kiếm và cứu nạn mà Cơng ước Luật
Biển 1982 đặt ra cho các quốc gia ven biển, Việt Nam đã thành lập Uỷ ban quốc gia tìm
kiếm cứu nạn theo quyết định số 780/TTg ngày 23 tháng 10 năm 1996 của Thủ tướng Chính
phủ. Uỷ ban có nhiệm vụ chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc tìm kiếm-cứu nạn người và phương
tiện (tàu bay, tàu thuyền, thiết bị dầu khí…) bị lâm nạn trên khơng, trên biển và vùng trách

nhiệm tiếp giáp giữa Việt Nam với các nước. Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của Công
ước về Tìm kiếm Cứu nạn và đang chuẩn bị để đàm phán với các nước liên quan về phân
định vùng tìm kiếm cứu nạn trên vùng biển.
Với chủ trương nhất quán thơng qua các biện pháp hịa bình giải quyết tranh chấp, bất
đồng trên biển, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả Cơng ước Luật
Biển 1982 giải quyết các tranh chấp về phân định biển với các nước láng giềng, trong đó
ln đề cao ngun tắc cơng bằng để tìm ra giải pháp hợp lý, cụ thể là: Việt Nam đã ký với
Thái Lan Hiệp định về Phân định biển ngày 09/8/1997; ký với Trung Quốc Hiệp định về

11


Phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác Nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000;
ký với Indonesia Hiệp định về Phân định Thềm lục địa ngày 26/6/2003.
Việt Nam đang đàm phán phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc,
đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia và đang chuẩn đàm phán về vấn
đề trên biển với các nước láng giềng khác. Thực tiễn đàm phán, ký kết các văn kiện phân
định biển của Việt Nam với các nước láng giềng đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo các quy
định của Cơng ước Luật biển 1982, đóng góp và làm phong phú thêm luật pháp quốc tế về
phân định biển.
Kết quả đàm phán giải quyết phân định giữa Việt Nam với Thái Lan và Trung Quốc
góp phần khẳng định xu thế không thể phủ nhận của việc sử dụng đường trung tuyến hoặc
cách đều làm xuất phát điểm để đi tới một giải pháp phân định công bằng và xu thế sử dụng
đường phân định đơn nhất cho phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Mặt khác, Việt Nam ln tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, bao gồm Công
ước Luật Biển 1982. Theo đó, khi bàn về các vấn đề tranh chấp ở Biển Đơng, Việt Nam
kiên trì u cầu “tơn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982”, coi đây như một
nguyên tắc để giải quyết và xử lý các tranh chấp liên quan đến biển đảo.
Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, kể cả Tuyên
bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); Tuyên bố 6 điểm ngày 20/7/2012 của

ASEAN về Biển Đông. Với nỗ lực của Việt Nam, nội dung “căn cứ luật pháp quốc tế, Công
ước Luật Biển 1982 để tìm ra giải pháp cơ bản lâu dài cho các tranh chấp tại Biển Đông”
đã được đưa vào vào Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên
biển Việt Nam – Trung Quốc ký ngày 11/10/2011. Điều đó cho thấy Việt Nam không chỉ
chủ động thực hiện nghiêm túc các quy định của Cơng ước Luật Biển 1982 mà cịn ln có
ý thức thúc đẩy việc tơn trọng và thực hiện đầy đủ các nội dung của Công ước.
Căn cứ vào khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83 của Công Luật Biển 1982, Việt
Nam luôn sẵn sàng cùng các bên hữu quan tiến hành hợp tác cùng phát triển ở những khu
vực thực sự có tranh chấp, phù hợp với các quy định của Công ước Luật biển 1982. Năm
1992, Việt Nam đã ký với Ma-lai-xia Thỏa thuận về việc hợp tác khai thác tài nguyên
khoáng sản khu vực thềm lục địa chồng lấn và thỏa thuận này đang được triển khai có hiệu
quả. Hiện nay, Việt Nam đang cùng Thái Lan - Ma-lai-xia đàm phán về hợp tác tại khu vực
biển chồng lấn 3 bên Việt Nam - Thái Lan - Ma-lai-xia.
Thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo quy định của Công ước Luật
Biển 1982, sau gần 3 năm nỗ lực (từ 2007 đến 2009), Việt Nam đã hoàn thành Báo cáo xác
12


định ranh giới ngoài thềm lục địa bảo đảm chất lượng, xác định một cách có cơ sở khoa
học và pháp lý phạm vi thềm lục địa mở rộng của Việt Nam ở Biển Đông theo đúng tiêu
chuẩn, quy định của Uỷ ban Thềm lục địa Liên Hợp Quốc.
Đầu tháng 5-2009, Việt Nam đã trình lên Liên Hợp Quốc Báo cáo xác định ranh giới
ngoài thềm lục địa khu vực phía Bắc và Báo cáo chung xác định ranh giới ngồi thềm lục
địa khu vực phía Nam với Malaysia theo đúng thời hạn quy định của Liên Hợp Quốc. Trong
các ngày 27 và 28/8/2009, Việt Nam đã trình bày hai bản Báo cáo này tại Ủy ban Thềm lục
địa Liên Hợp Quốc, đồng thời đề nghị Uỷ ban Thềm lục địa Liên Hợp Quốc sớm thành lập
các Tiểu ban để xem xét Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo đúng các quy định của Công
ước Luật biển 1982 cũng như Quy tắc hoạt động của Uỷ ban Thềm lục địa. Việc làm này
khẳng định rõ quyết tâm của Việt Nam trong việc thực thi Công ước Luật biển 1982.
Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế được

thành lập theo Công ước Luật Biển 1982. Việt Nam là thành viên của Hội đồng Cơ quan
Quyền lực quốc tế về đáy đại dương và đã từng được bầu làm Phó chủ tịch Đại hội đồng
Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương.
Việt Nam tham gia đầy đủ các Hội nghị của các quốc gia thành viên Công ước Luật
Biển 1982 được tổ chức hàng năm tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và ln có những đóng
góp tích cực vào việc thúc đẩy thực thi hiệu quả Công ước; tham gia và có những đóng góp
tích cực vào các hội nghị Cơ quan quyền lực đáy đại dương trong đó đề cao vai trị của
Cơng ước Luật Biển 1982; ủng hộ tăng cường hoạt động của Uỷ ban Ranh giới thềm lục
địa và ủng hộ vai trò tư pháp của Tịa án Luật biển quốc tế; đồng thời đóng góp đầy đủ niên
liễm để các cơ quan được thành lập theo Công ước hoạt động.
Tại các diễn đàn liên quan, Việt Nam luôn khẳng định: Trong hoạt động sử dụng biển,
các quốc gia phải tuân thủ đúng các quy định trong Công ước Luật Biển 1982, thực hiện
đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo Công ước Luật Biển 1982. Việt Nam đã tích cực tham gia
thảo luận và ủng hộ thông qua hai Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc về đại
dương và về đánh cá trên biển phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững; tham gia tiến trình
tham vấn khơng chính thức về các vấn đề đại dương và Luật biển hàng năm.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã tham gia xây dựng nhiều văn kiện pháp lý quốc tế và
khu vực liên quan đến biển như Công ước quốc tế về Tổ chức Vệ tinh Hàng hải
(INMARSAT), Hệ thống An toàn và Cứu nạn Hàng hải Toàn cầu (GMDSS)..., đồng thời
đã lập hệ thống đài thông tin duyên hải đáp ứng thông tin liên lạc giữa các tàu và giữa các
tàu với bờ.
13


Việc tiến hành kiểm tra tại cảng biển các tàu luôn tuân thủ các Thỏa thuận khu vực
về kiểm tra nhà nước tại cảng biển. Ngồi Cơng ước Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), Việt
Nam đã tham gia rất nhiều các Công ước của IMO khác bao gồm: Công ước quốc tế về
phịng ngừa ơ nhiễm biển từ tàu, 1973 và Nghị định thư bổ sung 1978 (MARPOL 73/78),
Công ước về tấn trọng tải (Tonnage 69), Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung
liên quan đến đâm va giữa các tàu chung (COLREG 72), Công ước quốc tế về an toàn sinh

mạng người trên biển (SOLAS 74), Công ước quốc tế về Mạn khô (Load Line 66), Công
ước quốc tế về tiêu chuẩn huấn luyện, cấp chứng chỉ chuyên môn và trực ca cho thuyền
viên (STCW 78/95), Công ước quốc tế về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp chống lại an
toàn hàng hải (SUA 88) và Nghị định thư về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp chống lại
an toàn hàng hải đối với các dàn khoan cố định ở thềm lục địa; Công ước quốc tế về giới
hạn trách nhiệm dân sự của chủ tàu đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu (CLC 1992-Việt Nam
tham gia ngày 1 tháng 7 năm 2003 và Cơng ước có hiệu lực với Việt Nam từ 1 tháng 7 năm
2004) ; Công ước về Tạo thuận lợi trong giao thông đường biển (FAL); Công ước về Tìm
kiếm, cứu nạn (SAR 79).
Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định chung trong khuôn khổ hợp tác ASEAN liên
quan đến vận tải biển và dịch vụ hàng hải như: Hiệp định về tạo thuận lợi cho tàu biển bị
nạn và cứu người trên tàu bị nạn ngày 15 tháng 5 năm 1975, Hiệp định khung ASEAN về
Tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải hàng hoá quá cảnh ngày 16 tháng 12 năm 1998, Hiệp
định khung về thương mại dịch vụ (GATS) tháng 12 năm 1995, Hiệp định khung ASEAN
về Tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải liên quốc gia ngày 26 tháng 3 năm 2012.
Việc Việt Nam tham gia các văn kiện pháp lý liên quan đến biển của khu vực và quốc
tế thể hiện rõ quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc thực thi đầy đủ những nội dung
của Công ước Luật Biển 1982.
Tóm lại, từ khi tham gia cơng ước đến nay, Công ước Luật biển 1982 đã thực sự trở
thành căn cứ pháp lý quốc tế vững chắc để xác định quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của
quốc gia ven biển, đồng thời cũng là cơ sở để xử lý các vấn đề liên quan đến biển và đại
dương, kể cả những tranh chấp về biển. Là một quốc gia gắn liền với biển, Việt Nam luôn
đi đầu và không ngừng nỗ lực trong việc thực hiện Công ước Luật Biển 1982. Việt Nam tin
tưởng chắc chắn rằng, nếu các quốc gia ven biển đều thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ
được quy định bởi Công ước Luật Biển 1982 thì nhân loại khơng những sẽ tránh được
những căng thẳng, xung đột trên biển mà sẽ có điều kiện tốt hơn để khai thác biển và đại
dương phục vụ lợi ích con người.
14



Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hành động theo mục tiêu, tôn chỉ và các
quy định của Công ước Luật Biển 1982; đồng thời yêu cầu, kêu gọi các quốc gia khác tuân
thủ nghĩa vụ này.
2.1.2. Q trình Việt Nam thực hiện Cơng ước Luật biển
a. Về ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 là kết quả của Hội nghị Luật biển
lần III của Liên hợp quốc kéo dài từ 1973 đến 1982. Trong thời gian này cũng như cho đến
hiện tại Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quy định về chế độ pháp lý các vùng
biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.


Quy định của Việt Nam về nội thủy
Cụ thể để quản lý tàu biển nước ngoài trong vùng nội thủy của Việt Nam, nước ta đã

cho ra các nghị định như sau: 30/CP ngày 20/01/1980 về quy chế hoạt động của tàu thuyền
nước ngoài hoạt động trên các vùng biển Việt Nam; Nghị định số 13/CP ngày 25/02/1994
ban hành Quy chế hoạt động hàng hải tại cảng biển và các khu vực hàng hải Việt Nam;
Nghị định 55/CP ngày 01/10/1996 về hoạt động của tàu quân sự nước ngồi thăm Việt
Nam…Năm 1982 thì Việt Nam cũng ra tuyên bố xác định đường cơ sở của mình, có thể
khẳng định rằng Việt Nam ln tn thủ nghiêm ngặt Cơng ước về Luật biển năm 1982
chính vì thế các nghị định trên của nước ta cũng đều tương đồng với những gì đã cam kết.


Quy định của Việt Nam về Lãnh hải
Trong tuyên bố về vùng biển quy định thì đã nói rằng Việt Nam rộng 12 hải lý tính từ

đường cơ sở. Đến năm 2003 thì Luật biên giới của nước ta cũng đã quy định: Lãnh hải của
Việt Nam rộng mười hai hải lý tính từ đường cơ sở ra phía ngồi. Lãnh hải của Việt Nam
bao gồm lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo. Và quy định tàu
thuyền nước ngồi đi qua khơng gây hại cho lãnh hải Việt Nam và phải tuân theo quy định

pháp luật của Việt Nam cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập.


Quy định của Việt Nam về vùng đặc quyền kinh tế
Trong tuyên bố của nước ta về các vùng biển quy định thì Vùng đặc quyền kinh tế

của Việt Nam tiếp liền với lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải thành một vùng biển rộng
200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Việt Nam có
chủ quyền hồn tồn về việc thăm dị, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên
thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy
biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ...
15


Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật xuyên suốt để có thể cụ thể hóa
được tuyên bố trên. Chẳng hạn như Nghị định 242/HĐBT về trình tự, thủ tục, yêu cầu đối
với việc bên nước ngoài tiến hành nghiên cứu khoa học trên các vùng biển Việt Nam, trong
đó có vùng đặc quyền kinh tế; Nghị định 49/1998/NĐ-CP về quản lý hoạt động nghề cá
của người và phương tiện nước ngoài trong các vùng biển của Việt Nam; Pháp lệnh Bảo vệ
và Phát triển nguồn lợi thủy sản quy định vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động khai
thác thủy sản của tàu thuyền nước ngoài trong các vùng biển Việt Nam; Nghị định
137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và
thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…


Quy định của Việt Nam về thềm lục địa
Trong tuyên bố của chính phủ ngày 12/5/1977 về các vùng biển quy định thì thềm lục

địa của nước CHXHCN Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần
kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ

ngồi của rìa lục địa. Nhà nước Việt Nam có chủ quyền hồn tồn về mặt thăm dò, khai
thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm
tài ngun khống sản, tài ngun khơng sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư
ở thềm lục địa Việt Nam. Việt Nam cũng đã nộp 02 báo cáo (trong đó có Báo cáo chung
với Ma-lai-xi-a về khu vực thềm lục địa phía Nam Biển Đơng) và đã trình bày 02 báo cáo
này tại Khóa họp 24 của Ủy ban ranh giới thềm lục địa (ngày 27-8/8/2009).
b. Về xây dựng, tổ chức bộ máy


Các tổ chức quản lý biển:
Cơ quan quản lý thống nhất về biển
Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý tổng hợp

và thống nhất về biển. Ngồi ra cịn có các cơ quan điều phối hoạt động giữa các ngành
nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ về an toàn, an ninh trên trên biển, như: Ban Chỉ đạo nhà
nước về Biển Đông và các hải đảo, Uỷ ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn...
Bộ máy quản lý nhà nước chuyên ngành liên quan đến biển
Theo mơ hình này, các Bộ, ngành có liên quan đến hoạt động khai thác, sử dụng, bảo
vệ biển được giao chức năng quản lý biển. Các bộ, ngành đó là: Quốc phòng (Hải quân,
Biên phòng, Cảnh sát biển), Ngoại giao, Cơng An, Kế hoạch và Đầu tư, Tài Chính, Giao
thông Vận tải, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Công thương, Xây dựng, Thông tin
Truyền thông, Du lịch, Tài nguyên và Môi trường, Khoa học và Công nghệ.
Bộ máy quản lý nhà nước theo chuyên ngành ở địa phương
16


Trong đó thì ủy ban nhân dân từng địa phương đảm nhận việc quản lý về một số lĩnh
vực như thủy sản, du lịch và mơi trường. Và có chức năng trong việc quản lý các hoạt động
của vùng biển trên phạm vi địa phương, bảo vệ môi trường, an ninh trật tự trên biển, và
cuối cùng là xử lý các vi phạm hành chính trên biển.



Tổ chức bộ máy của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, khai thác, sử
dụng và bảo vệ môi trường biển
Cơ quan quản lý nhà nước về dầu khí
Hoạt động quản lý được tổ chức theo chiều dọc. cụ thể Chính phủ thực hiện nhiệm vụ

như ban hành văn bản pháp luật về quản lý hoạt động dầu khí. Bên cạnh đó Bộ Cơng
Thương thực hiện những nhiệm vụ như: tổ chức soạn thảo trình các cấp có thẩm quyền ban
hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về dầu khí, chiến
lược, quy hoạch phát triển ngành dầu khí; trình Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt các dự án
dầu khí, ... Các Bộ, ngành khác thực hiện các nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động dầu khí
như: Tài ngun và Mơi trường, Giao thơng vận tải, Thuỷ sản, Quốc phòng, An ninh ...
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
Được tổ chức từ Trung ương đến địa phương cụ thể Trung ương thì là Chính phủ/Thủ
tướng Chính phủ - Bộ Văn hố, Thể thao và Du lịch, và các Cơ quan chuyên trách về du
lịch dự kiến sẽ là Tổng Cục Du lịch trực thuộc Bộ Văn hố, Thơng tin và Du lịch. Cịn ở
địa phương thì là các Sở du lịch.
Cơ quan quản lý nhà nước về thuỷ sản
Tổ chức quản lý nghề cá được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương xuống các địa
phương. Từ sau 5/7/2007, Bộ Thuỷ sản nhập về Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn
và như vậy chức năng quản lý nhà nước về thuỷ sản do Bộ NN&PTNN thực hiện. Giúp
việc cho Bộ là Tổng cục Thủy sản.
Cơ quan quản lý nhà nước về hàng hải
Quản lý hoạt động hàng hải được tổ chức theo ngành dọc, từ Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ đến Bộ Giao thông Vận tải, đến cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành hàng
hải là Cục Hàng hải Việt Nam. Dưới Cục Hàng hải Việt Nam có các Chi cục hàng hải tại
Hải phịng và thành phố Hồ Chí Minh; và cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại cảng
biển là các cảng vụ hàng hải. Khác với ngành thuỷ sản, du lịch, môi trường, quản lý nhà
nước về hàng hải được tổ chức theo ngành dọc trung ương như ngành dầu khí mà khơng có

sự phân cấp quản lý theo địa phương.
Cơ quan quản lý bảo vệ môi trường biển
17


Ở trung ương thì do Cơ quan quản lý nhà nước về môi trường là Bộ Tài nguyên và
Môi trường, trong Bộ có hai Vụ chun trách về mơi trường là Vụ Môi trường và Vụ Thẩm
định và Đánh giá tác động mơi trường. Cục Bảo vệ Mơi trường (có ba Chi nhánh tại TP.Hồ
Chí Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là cơ quan thừa hành Bộ Tài nguyên và Môi trường thực
hiện chức năng quản lý môi trường.
Ở địa phương thì Ủy ban nhân dân tỉnh là Cơ quan quản lý nhà nước về môi trường
tại địa phương. Giúp việc cho Uỷ ban nhân dân là Sở Tài nguyên và Môi trường, là cơ quan
trực thuộc UBND tỉnh, giúp UBND tỉnh điều phối thống nhất các hoạt động liên quan đến
bảo vệ môi trường; đồng thời, Sở chịu sự chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và môi trường về hoạt
động chuyên môn.
c. Về tổ chức quản lý:
-

Việt Nam đã hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý và sử dụng biển trên cơ sở

phù hợp với UNCLOS. Trong đó, quan trọng nhất là Luật Biển Việt Nam năm 2012 - cơ
sở pháp lý quan trọng để Việt Nam thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo.
-

Trên tinh thần thượng tôn pháp luật, Việt Nam chủ trương kiên trì giải quyết các bất

đồng trên biển bằng biện pháp hịa bình, phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật
biển.
-


Bất cứ yêu sách nào về biển cũng phải được xây dựng trên cơ sở và trong phạm vi

cho phép của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
-

Ngày 14/6/2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ Luật hàng hải Việt Nam sửa

đổi, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2006, điều chỉnh các hoạt động giao thông hàng hải trên
biển, chế độ ra vào các cảng biển Việt Nam.
-

Các nguyên tắc quản lý và sử dụng biển; phạm vi và quy chế các vùng nội thủy, lãnh

hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo; các
hoạt động trong các vùng biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ tài nguyên và
môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên
biển; hợp tác quốc tế về biển đã được đề cập đến thông qua Luật biển Việt Nam
(21/06/2012)
-

Nỗ lực của các Bộ, ngành khơng chỉ phản ánh qua các chính sách, các văn bản quy

phạm pháp luật mà còn qua các hành động cụ thể, ở tất cả các cấp. Điều này cho thấy, việc
tôn trọng và thực hiện đầy đủ Công ước Luật biển là ý chí và hành động chung của Chính
phủ, các Bộ ngành và chính quyền ở tất cả các cấp của Việt Nam.

18


-


Căn cứ vào các quy định của Công ước Luật Biển 1982, Việt Nam đã và đang tiến

hành quản lý có hiệu quả và triển khai các hoạt động kinh tế biển trong vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa của mình phục vụ phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân
dân. Chính phủ Việt Nam ln bảo vệ những lợi ích hợp pháp của các đối tác nước ngoài
trong hợp tác kinh tế, quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên biển phù hợp với các quy
định của Công ước 1982.
-

Việt Nam cũng đã chủ động và hợp tác cùng các bên liên quan trong việc bảo vệ

môi trường biển, cứu hộ, cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và triển khai các biện
pháp phòng chống tội phạm trên biển, nhất là cướp biển, góp phần thực hiện đầy đủ các
quy định của Cơng ước Luật Biển 1982.
d. Về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
-

Điều 47, 48 Luật Biển Việt Nam quy định về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển

và nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển. Lực lượng tuần tra, kiểm
soát trên biển bao gồm:


Các lực lượng có thẩm quyền thuộc Qn đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân
dân, các lực lượng tuần tra, kiểm sốt chun ngành khác.



Lực lượng dân quân tự vệ của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc Trung ương,

lực lượng bảo vệ của tổ chức cơ quan đóng ven biển và các lực lượng khác có trách
nhiệm tham gia tuần tra, kiểm sốt trên biển khi được cơ quan có thẩm quyền huy
động.

-

Về chế tài xử lý vi phạm đã được Luật Biển Việt Nam quy định tại các Điều: 50, 51,

52, 53, Chương VI. Các quy định này đã chỉ rõ tính chất, mức độ vi phạm cần phải được
xử lý thích hợp, theo đúng thủ tục pháp lý, bằng những hình thức như xử lý kỷ luật, xử phạt
hành chính, truy cứu trách nhiệm dân sự, hình sự theo quy định của pháp luật.
-

Việt Nam đã quy định rõ các mức hình phạt đối với các hành vi vi phạm các quy

định về quản lý vùng biển. Việt Nam đưa ra các hình thức xử phạt như: phạt tiền, đình chỉ
hoạt động trên vùng biển, tước quyền sử dụng chứng chỉ chuyên môn có thời hạn, tịch thu
chứng chỉ chun mơn, ...
2.2. Tổng quan hoạt động khai thác thủy sản xuất khẩu của Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước sản xuất thủy sản lớn nhất thế giới với tốc độ tăng
trưởng cao. Năm 2019, cả nước sản xuất hơn 8,15 triệu tấn thủy sản, trong đó thủy sản khai
thác chiếm 46% và tỷ trọng thuỷ sản nuôi trồng là 54%, nhưng thủy sản nuôi trồng chiếm
19


khoảng 75% tổng giá trị xuất khẩu, và sản lượng nuôi trồng đang tăng nhanh hơn so với
thủy sản khai thác. Việt Nam cũng là nước xuất khẩu thủy sản lớn thứ ba trên thế giới. Giá
trị xuất khẩu tăng từ 1,8 tỷ USD năm 2000 lên 8,6 tỷ USD năm 2019, trong đó ni trồng
thủy sản đóng góp 5,3 tỷ USD và thủy sản khai thác đóng góp 3,3 tỷ USD trong năm 2019.
2.2.1. Hoạt động khai thác thủy hải sản

Trong 30 năm qua, kể từ khi cải cách nền kinh tế, tăng trưởng ngành khai thác thủy
hải sản của Việt Nam ở mức khoảng 5% mỗi năm và đạt tổng cộng 3,7 triệu tấn vào năm
2019. Ngành khai thác thủy sản có đặc điểm là quy mơ nhỏ, với phần lớn tàu cá có cơng
suất dưới 90 mã lực. Ngư dân hoạt động riêng lẻ với tàu cá nhỏ, chủ yếu đánh bắt ven bờ,
năng suất thấp, đa loài. Ngư dân Việt Nam đánh bắt trên biển hơn 2.000 loài cá, cả cá đáy
và cá nổi, chủ yếu sử dụng lưới rê, nhưng cũng có lưới vây, câu tay, lưới kéo, lưới vó và
lưới cố định. Trong số 2.000 lồi cá, khoảng 70% có liên quan đến vùng biển nhiệt đới và
30% còn lại là vùng biển cận nhiệt đới, đặc biệt là ở Vịnh Bắc Bộ. Khai thác thủy sản nội
vùng (ước tính khoảng 200 nghìn tấn mỗi năm) chủ yếu là các loại cá nước ngọt và ở mức
độ thấp hơn là các loài giáp xác. Tính chất khó theo dõi của nghề cá đa lồi và quy mơ nhỏ
dẫn đến khó khăn trong việc quản lý và chống lại các hành vi khai thác bất hợp pháp. Phần
lớn sản lượng thu hoạch tạo ra các sản phẩm có giá trị thấp, chẳng hạn như cá nhỏ hoặc cá
con, các lồi có giá trị thấp và cá bị hư hỏng do bảo quản sau thu hoạch kém. Điều này giải
thích tại sao tổng sản lượng khai thác tự nhiên có giá trị thấp hơn một nửa giá trị sản lượng
ni, mặc dù có khối lượng tương đương. Các lồi cá có giá trị thấp, cịn được gọi là “cá
tạp”, thường được sử dụng để sản xuất thức ăn nuôi trồng thủy sản hoặc nước mắm. Năm
2016, Việt Nam sản xuất 2,8 triệu tấn thức ăn nuôi trồng thủy sản trở thành nước sản xuất
thứ hai trên tồn cầu, chỉ sau Trung Quốc. Vì Việt Nam có thị trường để tiêu thụ cá giá trị
thấp nên việc loại bỏ không phổ biến. Chỉ những tàu lưới rê lớn ra khơi trong vài ngày mới
loại bỏ khối lượng đáng kể các loại cá có giá trị thấp, chiếm khoảng 60% tổng sản lượng
đánh bắt.
Mặc dù chỉ chiếm khoảng 2% tổng giá trị thủy sản, cá ngừ và cá kìm là những lồi
đánh bắt quan trọng nhất của ngư dân đánh bắt xa bờ. Khai thác tập trung chủ yếu vào cá
ngừ vằn (Katsuwonus pelamis), được đánh bắt quanh năm, cá ngừ mắt to (Thunnus obesus)
và cá ngừ vây vàng (Thunnus albacares) được đánh bắt từ tháng 12 đến tháng 6. Đội tàu cá
ngừ đại dương chủ yếu sử dụng câu vàng, lưới rê và lưới vây. Khơng có số liệu chính xác
về tổng khối lượng cá ngừ cập cảng của các đội tàu Việt Nam, nhưng dường như sản lượng

20



khai thác của các đội tàu xa bờ đã tăng ít nhất gấp 4 lần kể từ năm 2010, chủ yếu nhờ sản
lượng khai thác cá ngừ vằn ngày càng tăng.
Biểu đồ 1: Sản lượng khai thác thủy hải sản của Việt Nam và tăng trưởng hàng
năm giai đoạn 1995 – 2019

Nguồn: Worldbank.org
Ngư dân Việt Nam cũng khai thác nhiều loại giáp xác (chủ yếu là tôm, tép, tôm hùm
và cua), động vật chân đầu (mực nang, mực, bạch tuộc) và nhuyễn thể. Đặc biệt, vùng biển
Việt Nam là nơi cư trú của hơn 100 lồi tơm, khoảng một nửa trong số đó được khai thác
thương mại, chủ yếu ở vùng nước nông ven biển Vịnh Bắc Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long. Theo Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản Việt Nam (VIFEP), sản lượng thu hoạch
tôm biển tăng hơn gấp đôi trong 20 năm qua và hiện chiếm khoảng 20% tổng giá trị thu
hoạch.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng sản lượng thủy sản khai thác của cả nước
năm 2020 là 3.863,7 nghìn tấn đạt 102,3% so với năm 2019. Có thể thấy rằng, mặc dù tình
hình dịch bệnh Covid-19 diễn ra phức tạp, nhưng sản lượng thủy sản khai thác của nước ta
vẫn tăng, mặc dù không nhiều.
Năm 2021, tổng sản lượng thủy sản đạt gần 3,9 triệu tấn, tăng 0,9% so với năm 2020.
Trong đó, khai thác biển gần 3,7 triệu tấn (tăng 1% so với cùng kỳ), khai thác nội địa
196.000 tấn (tăng 0,2% cùng kỳ).
7 tháng đầu năm 2022, sản lượng khai thác thủy sản đạt 2.272,5 nghìn tấn giảm 2,8%
so với cùng kỳ năm 2021. Ngư dân tiếp tục gặp khó khăn do giá nhiên liệu vẫn ở mức cao
so với cùng kỳ năm trước làm tăng chi phí các chuyến đánh bắt thủy sản.
21


Bảng 1: Sản lượng khai thác thủy hải sản của Việt Nam theo khu vực giai đoạn
2010 – 2018 (tấn)


Nguồn: Worldbank.org
Các vùng khai thác quan trọng nhất là các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Bắc Trung
Bộ và duyên hải miền Trung, chiếm khoảng 80% tổng sản lượng (Bảng 1). Phú n, Khánh
Hịa, Bình Thuận là các tỉnh khai thác thủy sản trọng điểm của miền Trung, trong khi Kiên
Giang là tỉnh đánh bắt chính của khu vực Đồng bằng sơng Cửu Long.
Biểu đồ 2: Ước tính hiệu quả khai thác thủy hải sản (1980 – 2016)

Nguồn: Worldbank.org
So sánh năng lực đội tàu và thống kê khai thác cho thấy ngành khai thác thủy sản Việt
Nam đang giảm hiệu quả. Điều này đặc biệt xảy ra trong những năm từ 1980 đến 1990, thể
hiện qua xu hướng giảm mạnh về sản lượng đánh bắt trên một đơn vị cường lực. Đội tàu
đã tăng nhanh hơn gấp đôi so với sản lượng từ năm 1995 đến năm 2016. Tuy nhiên, năng
22


suất trung bình trên mỗi lao động đã quay về mức đầu những năm 1980, với mức tăng ổn
định kể từ giữa những năm 2000, sau hai thập kỷ suy giảm.
2.2.2. Hoạt động xuất khẩu thủy sản khai thác
Nhu cầu thực phẩm toàn cầu ngày càng tăng, đặc biệt là thủy sản, đã góp phần thúc
đẩy xuất khẩu thủy sản của Việt Nam gia tăng đáng kể. Giá trị xuất khẩu thủy sản tăng từ
1,8 tỷ USD năm 2000 lên gần 8,6 tỷ USD năm 2019, đưa Việt Nam trở thành nước xuất
khẩu thủy sản lớn thứ ba, chỉ sau Trung Quốc và Na Uy. Các thị trường xuất khẩu chính là
EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc.
Biểu đồ 3: Giá trị xuất khẩu thủy sản nuôi trồng và khai thác của Việt Nam giai
đoạn 1998 – 2019

Nguồn: Worldbank.org
Biểu đồ 3 phân chia giá trị xuất khẩu sản phẩm khai thác và nuôi trồng. Giá trị xuất
khẩu cả thủy sản khai thác và nuôi trồng đều tăng qua các năm, tuy nhiên thủy sản khai
thác có tốc độ tăng trưởng thấp hơn và hiện thủy sản khai thác chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng

giá trị xuất khẩu.

23


Biểu đồ 4: Thị trường xuất khẩu thủy sản khai thác của Việt Nam năm 2019

Nguồn: Worldbank.org
Thị trường xuất khẩu thủy sản khai thác lớn nhất của Việt Nam là Nhật Bản chiếm
26%. Thứ hai là thị trường ASEAN và Hàn Quốc chiếm 14%. EU chỉ chiếm 9% các mặt
hàng khai thác. Tuy nhiên, thị trường này rất quan trọng đối với ngành thủy sản vì yêu cầu
tiêu chuẩn cao. Các thị trường khác thường phản ứng với những gì đang diễn ra tại thị
trường EU và ngành thủy sản sử dụng tiêu chuẩn của EU để cải thiện chất lượng và an tồn.
2.3. Ảnh hưởng của Cơng ước UNCLOS 1982 tới hoạt động khai thác thủy sản
xuất khẩu của Việt Nam
Ngành Thủy sản hiện nay là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, giữ vai trò
quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam với quy mô ngày càng mở rộng.
Thương hiệu thủy sản Việt Nam khơng chỉ được khẳng định trong nước mà cịn được đón
nhận bởi nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, việc định hướng chiến lược phát triển
cho ngành theo từng giai đoạn trước những biến động của thị trường thế giới là điều thực
sự cần thiết. Và UNCLOS góp phần khơng hề nhỏ trong việc đó.

24


2.3.1. Tác động của Công ước đến tài nguyên và mơi trường trên biển:
Ứng phó với biến đổi khí hậu, đảm bảo cho hoạt động khai thác thủy sản
Việt Nam là quốc gia đứng thứ 27 trong nhóm 33 quốc gia trên thế giới có nền kinh
tế bị tổn thương cao nhất trước tác động của biến đổi khí hậu đối với hoạt động khai thác
và nuôi trồng thủy sản. Việt Nam cũng được xếp hạng là một trong những quốc gia trên thế

giới có khả năng thích ứng thấp trước các tác động này. DARA ước tính sự mất mát từ biến
đổi khí hậu đối với ngành thủy sản có thể lên đến gần 2% GDP vào năm 2030.

Ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam dễ bị tổn thương bởi BĐKH:


Nhiều ngư dân sử dụng tàu truyền thống, đơi khi khơng có thiết bị định vị và chỉ

hoạt động trong phạm vi bán kính vài dặm ngồi khơi và chỉ có thể hoạt động ít ngày trong
năm vì khơng thể thích ứng được với điều kiện thời tiết khắc nghiệt;

25


×