Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận cao cấp lý luận chính trị, thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở chi bộ văn phòng hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân huyện phú bình, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.99 KB, 20 trang )

PHẦN I
MỞ ĐẦU
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển Đảng, là nguyên tắc, chế
độ thường xuyên trong sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê bình là nêu ưu
điểm, vạch rõ khuyết điểm của tổ chức đảng, cấp ủy và cán bộ, đảng viên, qua
đó tìm biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục sửa chữa sai lầm khuyết điểm,
giúp cho tổ chức và mỗi người đều tiến bộ hơn. Thực chất tự phê bình và phê
bình chính là giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ tổ chức đảng dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối,
nguyên tắc và điều lệ Đảng, trong mối quan hệ giữa những người đồng chí có
cùng mục đích và lý tưởng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh:“Một Đảng mà giấu
giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có thừa nhận
khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó,
xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết
điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn và chân chính”.
Thực tiễn đã chứng minh, nơi nào, tổ chức cơ sở đảng nào, chấp hành nghiêm
theo cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc và điều lệ Đảng thì nơi đó, tổ chức đó
hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng và nhân dân giao phó và ngược
lại, nơi nào, tổ chức cơ sở đảng nào không thực hiện đúng, vi phạm nguyên
tắc trong sinh hoạt đảng, mất dân chủ thì nơi đó, tổ chức đó yếu kém, chia rẽ,
bè phái, mất đồn kết.
Chính nhờ thực hiện theo lời dạy của Bác và chấp hành tốt theo chủ
trương của Đảng về việc tự phê bình và phê bình, trong thời gian qua, chi bộ
Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Ngun đã khơng ngừng tiến bộ, ln hồn thành nhiệm vụ chính trị và
nhiệm vụ chun mơn được giao.
Tuy nhiên, trong q trình thực hiện vẫn còn những vấn đề hạn chế:


2


Việc tự phê bình và phê bình chưa được thực hiện mạnh dạn trong sinh
hoạt chi bộ; một số đồng chí cịn thờ ơ trước những sai phạm của đồng chí,
đồng đội mình; việc đóng góp ý kiến cịn chung chung, chưa sâu sát.
Vẫn cịn tình trạng nể nang, sợ ảnh hưởng đoàn kết nội bộ, cấp dưới
chưa mạnh dạn phê bình cấp trên, người được phê bình cịn tỏ thái độ biện
bạch, phản bác, chưa thành khẩn tiếp thu…
Từ những lý luận và thực trạng trên, tôi chọn đề tài “Thực trạng và
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình
ở chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên” để viết tiểu luận kết thúc khối kiến thức thứ Tư,
trong hệ thống các khối kiến thức thuộc chương trình đào tạo Cao cấp lý luận
chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; đồng thời cũng góp
phần nhỏ kiến thức lý luận về công tác xây dựng Đảng mà trọng tâm là việc
tự phê bình và phê bình của đảng viên trong chi bộ.
1.2. Mục đích, yêu cầu
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác thực hiện nguyên tắc tự phê bình
và phê bình ở chi bộ Văn phịng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong nhiệm kỳ 2010-2015; tìm ra tồn tại,
hạn chế và đề xuất những kiến nghị, giải pháp nâng nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện nguyên tắc này đến hết nhiệm kỳ 2015-2020.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên kết quả đánh giá thực trạng
cơng tác thực hiện ngun tắc tự phê bình và phê bình ở chi bộ Văn phịng
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
trong nhiệm kỳ 2010-2015 và phương hướng các năm tiếp theo.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, và hoạt động thực



3

tiễn tại chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Phú
Bình trong việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình.


4

PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG QUAN ĐIỂM LÝ LUẬN VỀ TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH
1.1. QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, VỀ TỰ PHÊ
BÌNH VÀ PHÊ BÌNH:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: Mọi sự vật hiện tượng
trên thế giới cũng như trong đời sống xã hội đều vận động và phát triển trong
sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, Đảng cộng sản là một tổ
chức chính trị, một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội, do vậy cũng tồn
tại, vận động phát triển theo quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập, tự phê bình và phê bình trong Đảng là biểu hiện của quy luật đó và là địi
hỏi tất yếu khách quan.
Mác - Ăngghen cho rằng, tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho
hoạt động và phát triển bình thường của Đảng cộng sản. Ăngghen nhấn mạnh:
Việc Đảng phê bình các hoạt động đã qua của mình là việc tuyệt đối cần thiết,
thơng qua đó Đảng học cách hoạt động tốt hơn. Lênin đã kế thừa và phát triển
tư tưởng của Mác – Ăngghen coi tự phê bình và phê bình là quy luật bất di bất
dịch về sự phát triển của Đảng cách mạng. Theo ông, Đảng phải luôn tự phê
bình và phê bình, tự vạch ra sai lầm, khuyết điểm, phân tích rõ ngun nhân
và tìm cách sửa chữa, coi đây là một trong những căn cứ quan trọng để xem
xét một Đảng có thực sự là một Đảng Mác xít chân chính hay khơng. Lênin
cho rằng trong q trình lãnh đạo, Đảng có khuyết điểm cũng là điều bình

thường, điều quan trọng là có thái độ đúng đắn với sai lầm của mình hay
khơng. Người u cầu, trước những sai lầm của mình, Đảng phải: Cơng khai
thừa nhận sai lầm, phân tích hồn cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu những biện
pháp để sửa chữa sai lầm, người cịn chỉ rõ: “và nếu một đảng nào khơng dám
nói thật bệnh tật của mình ra, khơng dám chẩn đốn bệnh một cách thẳng
tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì đảng đó khơng xứng đáng được


5

người ta tơn trọng”. Đó là thái độ nghiêm túc của đảng, chỉ có đảng nghiêm
túc như vậy mới là Đảng Mác xít chân chính.
Đối với Đảng viên cộng sản Lênin địi hỏi rằng, trước sai lầm của mình
người đảng viên phải thực hiện tốt tự phê bình, người nói: “Người thông
minh không phải là không phạm sai lầm… Người nào phạm sai lầm mà
không nặng lắm và biết sửa một cách dễ dàng và nhánh chóng, thì người đó
là người thông minh”; đồng thời khẳng định “cứ giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm
để bào chữa nó, đưa nó đến chỗ tột cùng thì từ một sai lầm nhỏ, người ta
ln ln có thể làm cho nó thành một sai lầm ghê ghớm”. Tuy nhiên tự phê
bình và phê bình theo quan điểm của Lênin khơng phải là khuynh hướng của
chủ nghĩa cơ hội, “tả khuynh”, theo lối cục bộ, bè phái gây chia rẽ, mất đoàn
kết. 1.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA
VỀ TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH:
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Người đời ai cũng có khuyết điểm.
Có làm việc thì có sai lầm”. Bởi vậy: “ Về luật phát triển , Đảng Lao động
Việt Nam dùng lối phê bình và tự phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục
quần chúng”. Người cũng khẳng định: “Đảng không phải là một tổ chức để
làm quan phát tài. Nó phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ
quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Vì vậy, Đảng phải khơng ngừng

hồn thiện, phát triển. Theo Hồ Chí Minh thì sự phát triển của Đảng bao hàm
trong đó sự tự chỉnh đốn và tự đổi mới để ngày càng tiến bộ về mọi mặt, để
bảo đảm Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đất nước.
Trong đó tự phê bình và phê bình là một trong những nhiệm vụ then chốt,
trọng tâm và được Hồ Chí Minh xác định là “luật” hoặc “quy luật phát
triển” của Đảng, là “vũ khí sắc bén” trong cơng tác xây dựng Đảng. Theo Hồ
Chí Minh, tự phê bình và phê bình khơng đồng nghĩa với phê phán và trừng
trị mà cốt để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, để tư tưởng và hành


6

động được đúng đắn và thống nhất. Cần lưu ý, thống nhất phải dựa trên cơ sở
vì lợi ích chung của tồn dân, tồn Đảng, chứ khơng phải thống nhất dựa trên
lợi ích cục bộ, phe cánh. Chỉ có nắm vững quan điểm đó, Đảng cộng sản mới
có bản lĩnh cách mạng và khoa học, mới có dũng khí sử dụng vũ khí sắc bén
là tự phê bình và phê bình.
1.2.2. Quan điểm của Đảng ta về tự phê bình và phê bình
Quán triệt và thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đại hội
IV đến Đại hội XI của Đảng, trong nghị quyết của mỗi nhiệm kỳ đều nhấn
mạnh đến việc thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả tự phê bình và phê bình
để khơng ngừng xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu trong tình hình mới. Cùng với những thành tựu đạt được
hết sức quan trọng, Đảng ta cũng thừa nhận vẫn cịn khơng ít những hạn chế,
yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm
kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội
XI thừa nhận: “… Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của khơng ít tổ chức cơ
sở đảng cịn thấp; cơng tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng
chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu…

Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát
hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn
diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI tiếp tục chỉ rõ những vấn đề
cấp bách, cần giải quyết ngay bởi nếu không giải quyết sẽ là thách thức đối
với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Một trong những
vấn đề “nóng”, cấp bách là tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân,… của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chẳng những chưa được ngăn chặn, đẩy lùi
mà còn diễn biến phức tạp hơn. Biểu hiện cụ thể của vấn đề trên là cán bộ,


7

đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, không làm trịn bổn phận, chức trách
được giao, khơng thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của
Đảng; không trung thực, khơng thẳng thắn trong tự phê bình và phê bình,
thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức; sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng khơng
bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức, quan điểm
lệch lạc, sai trái. “Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan… Nhưng
chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan: Cán bộ, đảng viên thiếu tu
dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận
trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn; kỷ cương, kỷ luật khơng
nghiêm, nói khơng đi đơi với làm, hoặc làm chiếu lệ. Các nguyên tắc tập
trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong
thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra,
giám sát…”. Nghị quyết một lần nữa khẳng định giải pháp đầu tiên là nhóm
giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của

cấp trên, mà trước hết là các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Văn Kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 20152020 đó là “ Hồn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có
hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp
hành Trung ương, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ các cấp”.


8

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC TỰ PHÊ BÌNH
VÀ PHÊ BÌNH TẠI CHI BỘ VĂN PHÒNG HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHI BỘ VĂN PHÒNG HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH
THÁI NGUYÊN
2.1.1. Đặc điểm chung về chức năng, nhiệm vụ
Chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên và tổ chức cơ sở Đảng, trực thuộc Huyện ủy Phú
Bình, có chức năng thực hiện nhiệm vụ chính trị được Đảng bộ huyện giao và
chỉ đạo Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thực hiện nhiệm
vụ tham mưu tổng hợp cho Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân về hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện; tham mưu
cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân về chỉ đạo, điều hành thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế-xã hội của huyện; cung cấp thông tin phục vụ quản lý và
hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan nhà nước
trên địa bàn huyện; đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động của Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
2.1.2. Đặc điểm về tổ chức
Chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Phú

Bình, tỉnh Thái Nguyên hiện nay có 17 đảng viên. Trong đó: Đảng viên chính
thức: 16 đồng chí ( nam 12, nữ 05). Cơ cấu trong chi ủy gồm 03 đồng chí,
đồng chí Chánh Văn phịng là Bí thư Chi bộ. Bên cạnh các Đảng viên thực
hiện nhiệm vụ chun mơn cịn có các đồng chí Đảng viên giữ cương vị chủ
chốt của thường trực Hội đồng nhân dân huyện và Chủ tịch, các Phó chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện.


9

Tuổi đời trung bình của đảng viên là 40 tuổi; tuổi đảng bình quân của
Chi bộ là 16 tuổi…
Trình độ chun mơn: Thạc sỹ: 02 đồng chí; Đại học: 10 đồng chí;
Cao đẳng, Trung cấp, nhân viên: 05 đồng chí
Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp: 05 đồng chí; Trung cấp: 05 đồng
chí.
2.1.3. Thuận lợi và khó khăn
2.1.3.1. Thuận lợi
Chi bộ thường xuyên nhận được sự quan tâm sâu sắc, sự giúp đỡ hướng
dẫn tận tình của ban Thường vụ Huyện ủy. Trong chi bộ có các đảng viên
trong Thường trực Hội đồng nhân dân; đồng chí Chủ tịch và các Phó chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện cùng sinh hoạt nên chi bộ đã tiếp thu được nhiều
thông tin; tranh thủ được ý kiến lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân phục vụ cho hoạt động của chi bộ. Bên cạnh đó,
đảng viên, cơng chức, người lao động thuộc đơn vị đều có lập trường tư tưởng
vững vàng, kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng; năng động,sáng tạo,
nhiệt tình trong cơng tác; có ý thức chủ động học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức lối sống; phát huy tinh thần đoàn kết, cùng giúp đỡ nhau hoàn thành tốt
nhiệm vụ được phân công.
Tập thể Chi ủy chi bộ luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong lãnh

đạo, chỉ đạo việc quán triệt và triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết,
quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong xây dựng các
chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ và giải pháp luôn bám sát được tình hình
thực tiễn của đơn vị và chi bộ, đáp ứng được việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
trong tình hình mới.
2.1.3.2. Khó khăn
Với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị là vừa tham mưu, vừa phục vụ cho
sự chỉ đạo, điều hành của thường trực Hội đồng nhân dân huyện và chủ tịch,


10

các Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện với khối lượng công việc lớn, liên
quan đến nhiều cơ quan đơn vị trong và ngồi huyện; nhiều cơng việc sự vụ,
đột xuất. Trong nhiệm kỳ 2010-2015, nhân sự cấp ủy thay đổi phải kiện tồn
nhiều lần(05 đồng chí Chánh Văn phịng chuyển cơng tác), phần nào ảnh
hưởng đến cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi bộ;
đội ngũ cán bộ, công chức người lao động có nhiều thay đổi, các chuyên viên
giúp việc đa phần còn trẻ cả về tuổi đời và kinh nghiệm công tác; tỷ lệ lao
động hợp đồng cao..., song với tinh thần đồn kết, giữ gìn ngun tắc tập
trung dân chủ; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ; chủ
động bám sát chức năng, yêu cầu nhiệm vụ, thời gian vừa qua, cán bộ, đảng
viên trong Chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân huyện đã
hoàn thành tốt các mục tiêu Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2010-2015 nói
chung, trong đó có việc thực hiện ngun tắc tự phê bình và phê bình.
2.2. THỰC TRẠNG CƠNG TÁC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.2.1.1. Những kết quả đạt được
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh thái Nguyên đã thực hiện tốt cơng tác

tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt của chi bộ.
Trước khi tiến hành Đại hội chi bộ nhiệm kỳ 2015-2020; Ban chi ủy
chuẩn bị dự thảo các báo cáo, phương hướng đưa ra chi bộ lấy ý kiến rộng rãi
trong đội ngũ đảng viên, quần chúng về đánh giá hoạt động của chi bộ nhiệm
kỳ 2010-2015, chỉ ra những ưu khuyết điểm của từng đồng chí trong Ban chi
ủy, Ban chi ủy tự phê bình, tự kiểm điểm trước Đại hội về những mặt làm
được, chưa làm được trong nhiệm kỳ; qua đó phát huy những mặt mạnh, khắc
phục những hạn chế, để Ban chi ủy nhiệm kỳ mới hoạt động hiệu quả hơn.
Hàng năm tập thể Chi ủy, nhất là đồng chí Bí thư và tất cả các đảng
viên trong chi bộ đều tiến hành việc kiểm điểm đáng giá, nhận xét đúng theo


11

Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về việc đánh giá chất lượng tổ chức
cơ sở đảng và đảng viên; kiểm điểm tự phê bình và phê bình gắn với thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; Chỉ thị số 03CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tập thể chi ủy tự kiểm điểm,
phê bình trước, sau đó đến từng đảng viên trong chi bộ tự kiểm điểm để chi
bộ nhận xét đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm và chỉ ra hướng khắc phục
khuyết điểm, hạn chế; phát huy những mặt tích cực trong thời gian tiếp theo.
Vì vậy cơng tác tự phê bình và phê bình được duy trì thường xuyên, nề nếp.
Hàng tháng, trong sinh hoạt họp chi bộ, chi bộ đã chỉ đạo đồng chí Bí
thư chi bộ thơng qua báo cáo kiểm điểm nhiệm vụ chính trị của chi bộ đã
thực hiện trong tháng qua, những mặt làm được, những mặt chưa làm được,
tập thể đóng góp ý kiến chỉ ra những nguyên nhân ưu điểm, nguyên nhân của
hạn chế, khuyết điểm, từ đó chi bộ đã tiếp thu ý kiến đóng góp của tập thể,
đồng thời nêu lên phương hướng việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trong
tháng tới. Cơng tác tự phê bình và phê bình của từng đảng viên đều được thực
hiện nghiêm túc, được duy trì thường xuyên thành nề nếp với phương châm

“phịng bệnh là chính” nhằm hạn chế trường hợp đảng viên vi phạm.
Ngoài việc kiểm điểm hoạt động của tháng qua của chi bộ, đề ra những
phương hướng, kế hoạch hoạt động tháng tới để cho đảng viên đóng góp ý
kiến xây dựng nghị quyết, Ban chi ủy cịn tiến hành việc tự phê bình và phê
bình đảng viên trong cơng tác chun mơn, tác phong sinh hoạt lối sống và
nhất là kiểm điểm về “những điều đảng viên không được làm”, “việc thực
hiện đạo đức cơng vụ”… Mỗi đồng chí đều phát biểu ý kiến, nhất là những
đảng viên trẻ tuổi để qua đó phát hiện những sai sót, lệch lạc mà uốn nắn chấn
chỉnh kịp thời, giúp đảng viên tiến bộ hơn. Chi bộ luôn lắng nghe ý kiến phản
ánh của đảng viên, không trù dập, thành kiến với những ý kiến trái ngược của


12

thiểu số. Tạo điều kiện để đảng viên thảo luận, tranh luận sôi nổi, để cuối
cùng đi đến kết luận thống nhất trong hành động.
Mỗi cán bộ đảng viên luôn tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi
bộ, có ý thức kỷ luật cao, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự thống
nhất về việc tự phê bình và phê bình; trong sinh hoạt chi bộ ln tạo điều kiện
để đảng viên đóng góp ý kiến cho kế hoạch hoạt động, chương trình cơng tác
năm, tháng, chế độ chính sách đối với cán bộ, đảng viên. Những vấn đề gì
chưa hiểu phải ý kiến để được giải quyết rõ hơn, tuyệt đối khơng được phê
bình bên ngoài hội họp, nếu sai phạm phải được giáo dục hoặc xử lý nghiêm.
Nhờ việc chấp hành nghiêm và vận dụng tốt các nguyên tắc của Đảng,
nhất là công tác tự phê bình và phê bình, Chi bộ Văn phịng Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đã đạt được
những kết quả như sau:
Hoạt động tự phê bình và phê bình ngày càng chuyển biến rõ nét, đã trở
thành nề nếp sinh hoạt trong chi bộ; cán bộ, đảng viên có ý thức tốt trong việc
tự phê bình và phê bình, nhờ đó mà chi bộ cũng như đơn vị đã phát huy được

mặt tích cực và hạn chế được tiêu cực, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính
trị của chi bộ trong nhiệm kỳ 2010-2015.
Hàng năm, chi bộ được xếp loại “trong sạch, vững mạnh”; 100% đảng
viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó trên 20% đảng viên đủ tư
cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vượt mục tiêu nghị quyết; có 05 đảng
viên được ban Thường vụ Huyện ủy khen thưởng 5 năm liền đạt danh hiệu
đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Được Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh tặng Bằng khen cho tập thể cơ quan Văn phòng và 03 cá
nhân…
2.2.1.2. Nguyên nhân đạt được kết quả
Đạt được những kết quả như trên là do Chi bộ đã vận dụng tốt học
thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tự


13

phê bình và phê bình trong việc xây dựng nghị quyết chi bộ và trong việc thực
hiện kế hoạch của đơn vị.
-Tuyệt đại bộ phận các đồng chí đảng viên, tập thể Chi uỷ, nhất là đồng
chí Bí thư chi bộ luôn gương mẫu trong việc chấp hành điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết của Đảng về công tác kiểm tra, tự phê bình và phê bình.
Giữ vững bản lĩnh chính trị, tạo lịng tin đối với cán bộ, đảng viên, quần
chúng nhân dân, thân ái, chân tình giúp đỡ đồng nghiệp vượt qua khó khăn.
Đã giải toả được nhiều vướng mắc, khắc phục, sửa đổi lề lối làm việc, củng
cố tổ chức, chấn chỉnh sinh hoạt. Mặt khác, cũng mạnh dạn kiên quyết xử lý
những sai phạm của cán bộ, đảng viên, nhất là những sai phạm thường xuyên
có tính hệ thống.
Chi bộ tạo điều kiện cho các đồng chí đảng viên, có bản tính rụt rè, e
ngại trong hội họp quen dần với tự phê bình và phê bình, bằng cách gợi ý
những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên để họ tham gia ý kiến trong họp lệ

chi bộ hoặc họp chun mơn, để từ đó hoạt động tự phê bình và phê bình
ngày càng được nâng chất và hiệu quả hơn.
2.2.2. Những hạn chế, khuyết điểm
2.2.2.1. Hạn chế, khuyết điểm
Bên cạnh những kết quả đạt được trong tự phê bình và phê bình chi bộ
vẫn cịn một số hạn chế cần khắc phục:
Trong chi bộ, có một số ít đảng viên, tuổi đời cao có nhiều kinh nghiệm
trong cơng tác văn phịng, thường có tư tưởng bảo thủ, tự cao, cho mình là
hơn người khác, khơng muốn tiếp thu ý kiến phê bình của đồng nghiệp, ln
tìm cách biện minh cho những khuyết điểm của mình.
Đối với một số cán bộ, đảng viên trẻ tuổi, mặc dù rất nhiệt tình, năng
động trong cơng tác, nhưng khi hội họp ít khi phát biểu đóng góp ý kiến, do
nể nang, ngại đụng chạm khi phê bình, nhất là đối với lãnh đạo, đồng chí lớn


14

tuổi, nên việc đấu tranh tự phê bình và phê bình chưa mạnh dạn; chưa thẳng
thắn những khuyết điểm, thiếu sót của đồng nghiệp.
Bên cạnh đó, cịn một số cán bộ, đảng viên chưa ý thức trong công tác
tự phê bình và phê bình, việc tiếp thu ý kiến phê bình, đóng góp của đồng chí,
đồng đội mình cịn chậm, ý thức sửa chữa kém làm ảnh hưởng đến chất lượng
hoạt động của chi bộ, của đơn vị.
2.2.2.2. Nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm
Thứ nhất, một số đảng viên nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về vị trí,
mục đích, ý nghĩa, tác dụng của tự phê bình và phê bình nên chưa nghiêm túc
và tự giác chấp hành. Cịn một số đảng viên do tính chiến đấu kém, khơng có
chính kiến, bản lĩnh, thấy tổ chức, đồng chí mình có thiếu sót, khuyết điểm,
sai lầm khơng thẳng thắn đấu tranh, phê bình để chi bộ, đồng chí mình sửa
chữa, khắc phục.

Thứ hai, Cịn hiện tượng, đảng viên có thiếu sót, khuyết điểm, nhưng
chưa tự giác tự phê bình, tìm mọi cách để trốn tránh, bao che, giấu giếm
khuyết điểm, đổ lỗi cho khách quan.
Thứ ba, Chi ủy, lãnh đạo cơ quan thấy nhân viên của mình có khuyết
điểm nhưng sợ mất thành tích của đơn vị nên chỉ nhắc nhở qua loa, không xử
lý nghiêm túc.
Thứ tư, cán bộ, đảng viên trong chi bộ, cơ quan, thấy thủ trưởng hoặc
đồng chí mình có thiếu sót, khuyết điểm nhưng nhận thức không đúng, sợ bị
trả thù, trù dập, ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị và quyền lợi của bản thân,
nên cũng khơng dám đấu tranh, phê bình cấp trên và đồng chí mình;
Thứ năm, Cấp uỷ có biến động lớn, các đồng chí mới được bổ sung chưa
có kinh nghiệm chuyên môn về công tác Đảng dẫn dến việc lãnh đạo chỉ đạo hoạt
động của Chi bộ còn hạn chế ;


15

CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ
BÌNH Ở CHI BỘ VĂN PHỊNG HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN
NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN
ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ 2015-2020
Để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong tình hình hiện
nay, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ và đội
ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt đảng, tạo sự đoàn kết thống nhất, xây dựng chi bộ trong sạch, vững
mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được phân cơng,
theo tơi, chi bộ Văn phịng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện Phú
Bình tỉnh Thái Nguyên, cần thực hiện đồng bộ một số nội dung:
1. Các giải pháp

Một là, chi bộ, nhất là Bí thư chi bộ cần tăng cường tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về tự phê bình và
phê bình bằng nhiều hình thức cụ thể, thiết thực. Thường xuyên tổ chức cho
cán bộ, đảng viên nghiên cứu, quán triệt và vận dụng thực hiện sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người
đảng viên cộng sản, về các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhận thức
đúng về tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, để từng cán
bộ, đảng viên thấy rõ mục đích, ý nghĩa, tác dụng của tự phê bình và phê bình
khơng phải là “bới lơng tìm vết, mà là “trị bệnh cứu người”, giúp tổ chức
đảng và đảng viên thấy rõ ưu điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm để uốn
nắn, sửa chữa, khắc phục. Khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, bao che
cho thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm của đảng viên. Từ đó, vận dụng vào thực
tế sinh hoạt chi bộ theo phương châm: lời nói đi đơi với việc làm, tự phê bình
từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong ra, từ ngồi vào. Khi thực hiện tự phê bình


16

phải nghiêm túc và tự giác. Khi phê bình phải chân thành, thẳng thắn, trên
tinh thần xây dựng, khơng có dụng ý xấu, không thiên tư, thiên kiến, không
chen động cơ cá nhân, khơng có sự trả thù, trù dập.
Hai là, nghiên cứu bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh các quy chế, quy định
về lề lối làm việc của cấp ủy, phải có nội dung tự phê bình và phê bình và
chấp hành nghiêm túc. Sớm ban hành quy chế về chế độ tự phê bình và phê
bình, quy chế dân chủ trong chi bộ. Định kỳ tổ chức cho quần chúng tham gia
góp ý kiến cho tổ chức đảng và đảng viên, Bí thư chi bộ, lãnh đạo Văn phòng
phải thực sự gương mẫu thực hiện việc tự phê bình trước và tiếp thu ý kiến
phê bình đối với mình để kịp thời phát huy ưu điểm, uốn nắn, khắc phục thiếu
sót, khuyết điểm và xử lý nghiêm minh nếu có vi phạm.
Ba là, chi bộ và đảng viên phải thực hiện nghiêm túc các quy định của

Đảng về tự phê bình và phê bình; phải đảm bảo dân chủ trong tự phê bình và
phê bình; khắc phục tình trạng mất dân chủ hoặc áp đặt trong tự phê bình và
phê bình, phê bình mang tính hình thức. Đảng viên phải khắc phục tâm lý tự
ti, hoặc sợ bị trả thù, trù dập của người mình phê bình, nhất là đối với những
đồng chí lãnh đạo, cán bộ chủ chốt của cơ quan. Bản thân mỗi đảng viên phải
chủ động tự phê bình, khơng được giấu giếm thiếu sót, khuyết điểm, để
khuyết điểm trở thành vi phạm. Khi có khuyết điểm, vi phạm phải tự giác
nhận lỗi, tự nhận hình thức kỷ luật và tỏ rõ quyết tâm sửa chữa, khắc phục.
Chi bộ phải kiên quyết xử lý những đảng viên có hành vi trả thù, trù
dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình. Sớm nghiên cứu ban hành quy chế
bảo vệ, khuyến khích, động viên, khen thưởng người dũng cảm đấu tranh, phê
bình. Kiên quyết xử lý các hành vi lợi dụng phê bình để bơi nhọ, nói xấu, vu
cáo, hạ uy tín của đảng viên, của chi bộ.
Bốn là, trong kiểm điểm công tác hằng năm chi bộ phải chú trọng tự
phê bình và phê bình. Bí thư chi bộ, Chánh văn phòng phải gương mẫu chấp
hành việc tự phê bình và phê bình trước tập thể, có sự giám sát của đồng chí


17

Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy phụ trách. Thực hiện nghiêm túc phương
châm tự phê bình và phê bình là “trên trước, dưới sau”, “từ trong ra, từ ngoài
vào”, “từ trên xuống, từ dưới lên” để phê bình và tự phê bình bảo đảm dân
chủ, khách quan, trung thực, có chất lượng. Thường xuyên sơ kết, tổng kết,
rút kinh nghiệm và đề ra biện pháp thực hiện tự phê bình và phê bình phù hợp
với tình hình thực tế, bảo đảm có chất lượng, đem lại hiệu quả thiết thực. Cần
tăng cường tuyên truyền, nêu gương đảng viên tích cực đấu tranh phê bình,
gương những người dũng cảm nhận thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm để sửa
chữa, khắc phục và phấn đấu vươn lên .
Năm là: Thực hiện tự phê bình và phê bình gắn với việc thực hiện

nhiệm vụ chính trị; khắc phục sửa chữa khuyết điểm theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 (Khóa XI) và học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Tiếp tục quán triệt nội dung, xây dựng chương trình và kế hoạch
hành động của chi bộ, để cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm túc Nghị quyết.
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc và thường xun cơng tác tự phê bình và phê
bình theo đúng điều lệ Đảng đã quy định, chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã đề
ra, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI), tránh lối làm hình thức,
chiếu lệ cho xong việc. Kết hợp học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị; để từng đồng
chí nâng cao nhận thức, rèn luyện lối sống. Kịp thời phát hiện và đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống
trong cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm túc các quy định những điều đảng
viên không được làm.
2. Một số kiến nghị
Để thực hiện tốt những giải pháp nêu trên, cá nhân tôi kiến nghị với chi
ủy, chi bộ một số nội dung sau:
1.1. Đề nghị ban Thường vụ Huyện ủy, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo
chỉ đạo các chi bộ trực thuộc trong đó có chi bộ Văn phịng Hội đồng nhân


18

dân và Ủy ban nhân dân nhất là đối với cơng tác tự phê bình và phê bình,
đồng thời kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình với công tác kiểm tra đảng
viên chấp hành Điều lệ Đảng, xử lý tốt mối quan hệ giữa tự phê bình và phê
bình với khen thưởng kỷ luật. Nhằm mục đích kiểm tra cán bộ, đảng viên
chấp hành kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước, thực hiện tốt nhiệm vụ,
chức trách được giao.
Có cơ chế khen thưởng đột xuất đối với những quần chúng, cán bộ,
đảng viên mạnh dạn phát hiện những trường hợp vi phạm nguyên tắc, Điều lệ

Đảng; đồng thời bảo vệ những người dám đấu tranh, phê bình.
1.2. Chi bộ cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc và thường xun cơng tác
tự phê bình và phê bình theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa
XI), kết hợp học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh
thần Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị; gắn với thực tiện nhiệm vụ chính
trị của chi bộ, của cơ quan cuộc để từng đồng chí nâng cao nhận thức, rèn
luyện lối sống. Kịp thời phát hiện và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thối về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên; thực
hiện nghiêm túc các quy định những điều đảng viên, không được làm.


19

PHẦN III
KẾT LUẬN
Tự phê bình và phê bình khơng những là nghệ thuật, văn hóa trong Đảng,
là quy luật phát triển của Đảng mà cịn là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ
trong Đảng, là sợi dây liên kết, ràng buộc khăng khít giữa đảng viên với nhau,
giữa đảng viên với tổ chức đảng, và giữa Đảng với nhân dân. Thực hiện tự
phê bình và phê bình chính là để giải quyết những mặt đối lập, những khuyết
điểm trong nội bộ Đảng, để tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân, bản chất
cách mạng của đảng chân chính. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt cơng tác kiểm
tra, giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm, kịp thời những tổ chức đảng, đảng
viên không thực hiện tốt nghị quyết, chỉ thị của Đảng về tự phê bình và phê
bình, nhất là những người thành kiến, trù dập người phê bình; phải có biện
pháp bảo vệ người phê bình dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực,
đồng thời buộc người có khuyết điểm, bị phê bình phải sửa chữa khuyết điểm.
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, chi bộ Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên tuy còn một số hạn chế
khuyết điểm, song có thể nói chi bộ đã thực hiện tốt ngun tắc tự phê bình và

phê bình; góp phần xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh. Từ nay đến hết
nhiệm kỳ 2015-2020, trước tình hình nhiệm vụ mới có nhiều thuận lợi và
những khó khăn đan xen đã và đang đặt ra cho chi bộ những nhiệm vụ ngày
càng nặng nề. Chính vì vậy, đẩy mạnh thực hiện tự phê bình và phê bình vừa
là vấn đề cấp bách, vừa là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên, bởi lẽ nguyên tắc
này là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, của chi bộ; là vũ khí sắc bén để
xây dựng chi bộ, để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhằm củng cố khối
đại đoàn kết, thống nhất đủ khả năng ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một số bộ phận đảng viên hiện nay,
góp phần xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh toàn diện; thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị được phân cơng./.


20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2. Báo cáo Đại hội Chi bộ Văn phòng HĐND&UBND huyện Phú Bình
nhiệm kỳ 2010 – 2015.
3. Báo cáo kiểm điểm của tập thể lãnh đạo Chi bộ Văn phòng
HĐND&UBND huyện Phú Bình nhiệm kỳ 2010 – 2015.
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam – Văn kiện Hội nghị lần 4 Ban chấp hành
trung ương Khóa XI.
5. Hồ Chí Minh về tự phê bình, phê bình. Nhà xuất bản Sự thật 1995.
6. Hồ Chí Minh Tồn tập. Tập 5 – NXB Chính trị Quốc gia 1995.
7. Hồ Chí Minh Tồn tập. Tập 6 – NXB Chính trị Quốc gia 1995.
8. Hồ Chí Minh Tồn tập. Tập 12 – NXB Chính trị Quốc gia 1996.
9. Lênin Toàn tập. Tập 8 – Nhà xuất bản Tiến bộ 1979.
10.Tạp chí xây dựng Đảng.
11.Giáo trình xây dựng Đảng, Nhà xuất bản lý luận chính trị 2015




×