Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Phát triển lưới điện và đua điện đến xã nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267 KB, 47 trang )

Đào Duy Long KTPT48A
LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế của Việt Nam cũng như của các
nước khác trên toàn thế là một sự đối nghịch không thể che giấu, sự bất bình đẳng giữa
các vùng miền , giữa người với người ngày càng được nới rộng. Người giàu thì ngày
càng giàu hơn mà người nghèo thì ngày càng nghèo đi, nơi được sử dụng những ứng
dụng khoa học công nghệ hiện đại, cuộc sống sung túc các nhu cầu được đáp ứng liên
tục và kịp thời thì một bộ phận dân cư tập trung ở các vùng nông thôn, miền núi thì
đang phải tiếp tục sống với cảnh thiếu nước thiếu điện, .. những yêu cầu căn bản của
cuộc sống , họ sống lạc hậu với đất nước hơn năm mươi năm thì với thế giới hơn cả
trăm năm.Vì vậy cần thiết phải có sự tham gia hỗ trợ tác động từ phía nhà nước để điều
tiết, giảm thiểu tối đa sự bất bình đẳng này để có thể đảm bảo an ninh chính trị cũng
như phát triển kinh tế của đất nước một cách toàn diện và bền vững.
Điện là một trong những yêu cầu căn bản đó của cuộc sống hiện nay, điện là
động lực là điều kiện không thể thiếu cho tất cả mọi hoạt động và sự phát triển của một
xã, huyện , tỉnh hay một dân tộc. Thế nhưng còn rất nhiều xã vùng sâu vùng xa của đất
nước vẫn chưa thể được sử dụng điện, vì vậy em đã quyết định tìm hiểu nghiên cứu
thực trạng lưới điện ở các vùng này, nguyên nhân của vấn đề mà cụ thể ở đây là các xã
nghèo của tỉnh Cao Bằng , một tỉnh miền núi phía bắc nước ta có địa hình phức tạp và
có đặc điểm chính trị an ninh quốc phòng rất đáng được quan tâm.
Là một sinh viên Khoa Kế hoạch và Phát triển em không mong muốn gì hơn là
được tìm hiểu về đất nước , con người Việt Nam từng bước đưa đất nước phát triển về
mọi mặt từ kinh tế đến xã hội, đảm bảo bước đi vững chắc vươn tầm tới các nước trên
thế giới theo như lời Bác Hồ đã dạy.
Báo cáo chuyên đề thực tập này là sự vận dụng đầu tiên giữa kiến thức đã học
trong nhà trường, tác phong làm việc của một doanh nghiệp và tư duy logic của bản
thân vào một vấn đề thực tế. Do kinh nghiệm chưa có nhiều nên trong quá trình phân
tích vấn đề và giải quyết vấn đề còn nhiều sai sót, vì vậy em rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của thầy cô và các anh chị trong Tổng công ty điện lực miền bắc để sự
hiểu biết của em về vấn đề được hoàn chỉnh và trọn vẹn, từ đó có thể giúp ích được sự
phát triển của nước nhà nhiều hơn nữa.


Đào Duy Long KTPT48A
CHƯƠNG MỘT
SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN LƯỚI ĐIỆN
VÀ ĐƯA ĐIỆN ĐẾN CÁC XÃ NGHÈO
1.Vai trò của năng lượng điện đối với phát triển kinh tế.
Trong xã hội hiện đại sự ứng dụng sức điện đã trở thành cơ sở vật chất không
thể thiếu trong các ngành kinh tế quốc dân và trong đời sống con người .Nhưng khoảng
thời gian loài người nắm được sức điện thì chưa lâu lăm:
Thời xưa tất cả các công việc của con người trong sản xuất, cuộc sống đều được
làm bằng sức người, sức của súc vật như trâu bò, ngựa… rồi tiến lên là nhờ vào sức gió,
guồng nước với quy mô nhỏ. Theo nhịp độ phát triển của xã hội các công việc này dần
được thay thế bởi các công cụ bằng máy hơi nước, máy móc thiết bị chạy bằng điện lúc
này mới bắt đầu xuất hiện những khu sản xuất có quy mô lớn trong nền kinh tế, phục vụ
cho nền công nghiệp cận đại. Ứng dụng của điện trong 100 năm trở lại đây thực sự là
động lực không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học, xây dựng quốc phòng, trong đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân, điện có tác dụng cực kỳ quan trọng .
Nó quan trọng như vậy là vì nó có những đặc điểm mà các động lực khác không
thể có được, nó vừa có thể tập trung vừa có thể phân tán, do vậy mà có thể cung cấp đủ
cho từ những máy vài mã lực cho đến những máy vài nghìn mã lực, có thể cung cấp cho
mọi máy móc không kể xa hay gần nơi phát điện từ đó giúp các nhà máy không bị hạn
chế bởi điều kiện của địa phương, nơi sản xuất không nhất thiết phải đặt cạnh nơi cung
cấp nguyên liệu. Mặt khác điện lực còn có đặc điểm ưu việt đó là dễ dàng thuận tiện
chuyển thành các dạng năng lượng khác như cơ năng, nhiệt năng , quang năng.. thỏa
mãn mọi đòi hỏi của nơi dùng, dễ quản lý và điều hành.
Ngày nay công nghiệp điện đang ngày càng phát triển nhanh từ quy mô nhỏ đến
quy mô lớn, sản xuất điện bắt đầu sử dụng năng lượng hạt nhân, năng lượng mặt trời
những nguồn năng lượng vô hạn, điều này sẽ càng thúc đẩy sản xuất và tạo phúc lợi cho
nhân loại.
Đào Duy Long KTPT48A
1.1.Điện là cơ sở kỹ thuật của ngành công nghiệp

“Để tiến hành công cuộc xây dựng kinh tế mới chúng ta cần có cơ sở kỹ thuật
mới, cơ sở kỹ thuật đó chính là điện, chúng ta nên đứng trên cơ sở đó mà xây dựng tất
cả”. Lê Nin đã nói như thế khi người giải thích tác dụng của công nghiệp điện trong
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Từ lời của Lê Nin ta có thể thấy được tính chất
quan trọng của điện trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Để có thể làm sáng tỏ
hơn nữa vấn đề này, trước hết chúng ta nói về máy móc.
Mọi người đều biết rằng dùng máy móc để sản xuất không những nhanh hơn sản
xuất thủ công nghiệp, mà còn sản xuất được các sản phẩm đẹp đẽ và chắc chắn hơn.
Lấy việc kéo sợi và dệt vải làm mà xét, nông thôn chúng ta đều dùng các guồng tay và
máy dệt đạp chân để làm các việc đó, chị em phụ nữ phải ngồi liền từ sớm đến tối,
không rời một bước một ngày một người nhiều lắm chỉ kéo được từ 7-8 lạng sợi hoặc
dệt được 2m vải khổ hẹp, hơn nữa khi kéo ra to nhỏ không đều, cuộn sợi chặt lỏng khác
nhau dẫn đến mặt vải thô nhiều nốt sần. Nếu làm bằng máy thì khác hẳn một công nhân
loại thông thường có thể trông 600-800 con suốt hoặc 24-32 máy dệt tự động sản xuất
cùng một lúc. Một ngày 8h trung bình kéo được 226kg bông hoặc 226m vải. Sợi vải
vừa mịn vừa bền, giá cả cũng vừa phải, đem so sánh 2 cách làm thủ công và máy móc
thì thực là một trời một vực. Còn rất nhiều ví dụ khác có thể nói lên rằng lợi ích to lớn
của máy móc trong sản xuất công nghiệp, tuy nhiên nếu không có động lực thì máy móc
cũng trở thành vật chết. Một trong những động lực chủ yếu và cơ bản nhất của máy
móc là điện lực. Điện lực ngoài việc dùng làm động lực ra còn có thể xúc tiến tiến tự
động hóa sản xuất, nâng cao kỹ thuật chế tạo, tăng thêm các loại sản phẩm cải thiện
chất lương sản phẩm.
Thông thường các nhà máy liên hợp gang thép cỡ lớn từ bước lấy quặng đến
thép cần mười mấy vạn kw, nhà máy phân đạm sản lượng hàng năm khoảng 50000 tấn
cần 40000kW, dệt 100.000 con suốt cần 6000kW. Tất cả các ngành công nghiệp hiện
đại đều sử dụng đến điện rất rộng rãi, vả lại trình độ cơ giới hóa càng cao, tự động hóa
càng cao thì nhu cầu về điện lại càng nhiều, cho nên điện được goi là động lực của
Công nghiệp, chỉ có cung cấp thật dồi dào điện thì sản xuất công nghiệp mới có thể
phát triển nhanh.
Đào Duy Long KTPT48A

Sản xuất Uran dùng sản năng lượng nguyên tử cũng phải dùng điện mới có thể
luyện ra được tách rời sức điện không thể luyện nổi. Tương lai cần nhiều he-li dùng làm
chất đốt nguyên tử thì nhu cầu điện càng lớn. Có thể nói rằng điện trực tiếp ứng dụng
rộng rãi trong quá trình công nghệ, nó có thể hoàn thành những nhiệm vụ mà hai bàn
tay con người và các phương pháp lý hóa không thể hoàn thành, đồng thời nâng cao
hiệu suất và chất lượng.
1.2.Điện lực là điều kiện kỹ thuật quan trọng không thể thiếu được
trong phát triển nông nghiệp.
Cải tạo kỹ thuật công nghiệp tức là đưa nền sản xuất nông nghiệp tiến dần tới cơ
khí hóa, điện khí hóa và hóa học hóa. Điều này tương đương với việc chúng ta cần đưa
máy móc thiết bị thay thế sức lao động nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng. Quá trình
này sẽ giúp cho tăng năng suất lao động, giảm hao hụt khi làm bằng tay.
Theo đó một loạt những thay đổi trong bộ mặt nông nghiệp, nào là máy bơm
nước, máy xay sát, hàng rào điện …những ứng dụng của điện trong sản xuất sẽ đáp ứng
được yêu cầu của người nông dân, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp đặc biệt trong việc
nâng cao năng suất cây trồng.
Trong chăn nuôi gia súc giúp giảm nhiều sức lao động ,hơn nữa gia súc nuôi
béo, lại có thể nâng cao chất lượng lông, da, sữa.. Không những thế nó giúp người nông
dân chuyển đổi ngành nghề khi rỗi băng cách sản xuất phụ ví dụ như mở các xưởng sửa
chữa cơ khí, xưởng cưa điện, chế biến thực phẩm….
Do đó điện khí hóa, cơ khí hóa càng được đẩy mạnh thì trình độ văn hóa, tri thức
khoa học của nông dân cũng theo đó mà tăng không ngừng, khiến cho lao động có tính
chất nông nghiệp chuyển dần sang công nghiệp, tiêu diệt sự phân biệt công nhân – nông
dân, thành thị - nông thôn. Từ đó thay đổi bộ mặt nông thôn, cổ vũ lòng tin cho nông
dân vào Đảng, chính quyền xây dựng nông thôn mới hiện đại , văn minh và phát triển.
2.Hệ thống lưới điện.
2.1.Định nghĩa và phân loại
Điện là một khái niệm tổng quát dùng để chỉ các hiện tượng mà nguyên nhân là
do các điện tích đứng yên hay chuyển động cũng như điện trường và từ trường do
Đào Duy Long KTPT48A

chúng ta tạo nên. Các điện tích có điện tích âm( như là electron hay còn gọi là điện tử)
và dương( như kà proton và các ion dương). Các hạt tích điện cùng dấu thì đẩy nhau và
khác dấu thì hút nhau, các lực tương úng là lực đẩy và lực hút.
Điện thường được truyền tải thông qua sự chuyển động của dòng electron trong
các vật cứng. Dây dẫn từ chất có điện trở nhỏ(độ dẫn điện cao) thường được sử dụng,
điển hình là bạc, đồng và nhôm. Hao hụt trong quá trình truyền tải là không thể tránh
khỏi, điển hình là hiện tượng nóng lên của dây dẫn. Sự hao hụt này trong truyền tải điện
năng khoảng cách xa có thể giảm khi tăng hiệu điện thế của dòng điện.
Vì vậy hệ thống lưới điện được hiểu là hệ thống các đường dây dẫn độ dẫn điện
cao có nhiệm vụ truyền tải điện từ các máy phát điện ở các nhà máy điện tới những nơi
tiêu thụ điện.
Người ta phân chia hệ thống lưới điện ra làm 3 hệ thống lưới điện phân theo cấp
điện áp, bao gồm:
Lưới điện cao áp: cấp điện áp 110kv trở lên
Lưới điện trung áp : cấp điện áp từ 0.4kv đến 110kv
Lưới điện hạ áp: cấp điện áp dưới 0.4kv
Thông thường đường dây điện hạ áp được dùng để truyền tải điện đến các
hộ gia đình, dùng để sản xuất và dùng trong sinh hoạt hàng ngày.Lưới điện
trung áp dùng để truyền tải điện đến các khu công nghiệp nhằm đảm bảo đủ
điện để cung cấp cho máy móc thiết bị có công suất lớn trong các nhà máy, còn
đường dây cao áp dùng để truyền tải điện từ nơi cung cấp điện tức là các nhà
máy phát điện tới các trạm biến áp của các tỉnh, đường dây này có tác dụng
truyền tải điện đi xa là chủ yếu.
Đào Duy Long KTPT48A
2.2.Nhân tố ảnh hưởng
2.2.1.Nhân tố ảnh hưởng đến quá trình quản lý hệ thống lưới điện.
Ngành điện:
Hệ thống lưới điện hoạt động dưới sự quản lý của tập đoàn điện lực Việt
Nam EVN(Viet Nam Electricity), dưới sự kiểm soát của Bộ Công thương và
định hướng của chính phủ. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội chính phủ

sẽ đưa ra chiến lược và tầm nhìn cho cả đất nước, theo đó các ngành các cấp sẽ
tiến hành xây dựng và phát triển lĩnh vực mình đảm nhiệm để phấn đấu đạt mục
tiêu trên. Ngành điện lực với vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội
của cả đất nước có nhiệm vụ đi tắt đón đầu tạo nền tảng tương lai cho các ngành
sản xuất vật chất khác bước theo thì càng phải có những bước chuẩn bị kỹ càng.
Cứ 5 năm một lần các cơ quan ngành điện cùng với chính phủ xây dựng quy
hoạch tổng thể ngành điện, dựa trên tầm nhìn chiến lược của cả đất nước trong
thời gian tiếp theo. Như vậy ngành điện đóng vai trò quyết định sự sắp xếp phân
bố của hệ thống lưới điện trên toàn quốc, việc phát hiện các khu vực phát triển
tiềm năng, các vùng dân cư có đặc điểm kinh tế chính trị đặc biệt và xu hướng
phát triển của đất nước sẽ quyết định cách sắp xếp này và quyết định sự tăng
hay giảm tốc độ phát triển của nước ta trong những giai đoạn tiếp theo.
Ngành điện mà cụ thể là Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN ) ngoài việc
quyết định cách bố trí hệ thống lưới điện còn là chủ thể quản lý trực tiếp hệ
thống lưới điện này, việc phân bổ nguồn lực cho đầu tư xây dựng mới lưới điện
ở các vùng kinh tế mới, kinh tế trọng điểm của các tỉnh và ở các vùng sâu vùng
xa được thực hiện hàng năm, lợi nhuận hàng năm của tập đoàn sẽ được giữ lại
một phần để thực hiện đầu tư mới và nâng cấp sửa chữa hệ thống lưới điện
xuống cấp. Việc đầu tư nâng cấp và sửa chữa này sẽ được thực hiện thông qua
các dự án hàng năm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các tổng công ty ở ba miền
Bắc - Trung - Nam, các dự án này sẽ góp phần mở rộng hệ thống lưới điện, đưa
điện đến từng xã, thôn bản.
Chính quyền địa phương:
Đào Duy Long KTPT48A
Với vai trò là cơ quan quản lý toàn bộ mọi hoạt động trên địa bàn vì vậy
mà chính quyền địa phương cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia
xây dựng và phát triển hệ thống lưới điện. Nếu như quy hoạch tổng thể ngành
điện được chính phủ duyệt chủ yếu bao gồm các đường dây lưới điện cao áp và
một phần trung áp thì chính quyền địa phương lại có quyền quyết định hệ thống
đường dây trung áp và hạ áp trên địa bàn dựa trên quy hoạch tổng thể đó. Trên

cơ sở quy hoạch tổng thể ủy ban nhân dân tỉnh thành phố sẽ xây dựng sơ đồ hệ
thống đường dây trung áp và hạ áp phù hợp với quy hoạch và kế hoạch phát
triển của tỉnh trong những năm tiếp theo. Từ đó chính quyền địa phương sẽ có
kế hoạch kịp thời hỗ trợ ngành điện trong quá trình triển khai các dự án điện
trên địa bàn, cụ thể là dành quỹ đất cho ngành điện để xây dựng các trạm biến
áp , cột điện…đồng thời triển khai kế hoạch di dân về các vùng kinh tế mới, nơi
các dự án sẽ đưa điện tới, mặt khác còn cần phối hợp công tác đầu tư xây dựng
đường liên huyện liên xã phù hợp với kế hoạch phát triển tỉnh phù hợp với quy
hoạch hệ thống lưới điện.
Mặt khác do sự thay đổi liên tục của mọi mặt của cuộc sống mà các cơ
quan chính quyền địa phương khó lòng dự báo được chính xác mà hệ thống
đường dây trung áp và hạ áp đã được xây dựng không phù hợp với sự phát triển
của địa phương, lúc này chính quyền địa phương sẽ yêu cầu sự hỗ trợ của ngành
điện, 2 bên sẽ đưa ra nhưng phương án cụ thể để hỗ trợ địa phương và sửa đổi
sơ đồ phát triển cho phù hợp sự phát triển của địa phương cũng như sự phát
triển chung của toàn đất nước.
Rõ ràng là rất nhiều công việc cần phải giải quyết của chính quyền địa
phương, nhưng chính nó cũng sẽ là mấu chốt quan trọng trong quá trình phát
triển hệ thống lưới điện, đảm bảo kịp thời gian, nhanh chóng đưa điện đến
người dân đến nơi sản xuất, góp phần thực hiện mục tiêu của cả đất nước trên
con đường phát triển.
Đào Duy Long KTPT48A
2.2.2.Nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và bảo dưỡng hệ
thống lưới điện
Khi người ta nói đến sự phát triển thì không thể không đề cập ba nhân tố
quan trọng là nguồn nhân lực, vốn và công nghệ. Hệ thống lưới điện cũng bị
ảnh hưởng bởi ba nhân tố này trong quá trình xây dựng.
Nhân lực:
Hệ thống lưới điện được xây dựng và phát triển thông qua các dự án, các
dự án lại thường được thực hiện ở vùng sâu vùng xa hoặc các vùng kinh tế mới,

các khu công nghiệp trọng điểm của tỉnh, do vậy mà yêu cầu nguồn nhân lực
cho quá trình xây dựng đòi hỏi cả về chất và lượng. Đối với các dự án triển khai
tại các vùng sâu vùng xa đường dây lưới điện cần lắp đặt kéo dài đến vài chục
km cần một lượng công nhân điện không hề ít, không những thế dự án thường
được diễn ra đồng thời trên nhiều tỉnh thành phố do vậy mà số lượng công nhân
hạn chế sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thi công thậm chí gây lãng phí thất
thoát do các giai đoạn dự án bị chậm trễ, máy móc làm việc không hết công
suất.
Ngược lại đối với các dự án được tiến hành tại các khu công nghiệp, khu
kinh tế trọng điểm, nơi có mật độ kinh tế cao, phạm vi nhỏ nhưng hệ thống lưới
điện rất phức tạp cần đội ngũ công nhân có tay nghề cao, tìm ra đường dây nào
là phù hợp với công suất của các máy móc trong khu vực đó, cách kết nối nào là
thuận tiện cho quá trình sửa chữa bảo dưỡng. Chính đội ngũ công nhân này là
một phần quan trọng trong quá trình xây dựng và lắp đặt đường dây lưới điện, là
nhân tố quan trọng quyết định chất lượng và sự an toàn của hệ thống lưới điện
đối với nơi mà nó được sử dụng.
Trong quá trình sử dụng hệ thống đường dây điện này khó lòng tránh khỏi
hư hỏng cần thiết phải có đội ngũ sửa chữa và bảo dưỡng tuy nhiên ở các vùng
núi hệ thống đường dây rất dài vì thế mà càng cần phải tăng cường đội ngũ sửa
chữa điện ở cơ sở để kịp thời sửa chữa phục vụ nhân dân, thiếu những thợ điện
cấp cơ sở sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của nhân dân và sự tồn tại của
hệ thống điện nơi đây.
Đào Duy Long KTPT48A
Vốn và khoa học công nghệ
Vốn là một yếu tố quan trọng khi đẩy nhanh tiến độ thi công của các dự
án hay sự phát triển của hệ thống lưới điện, hệ thống máy móc kịp thời và phù
hợp với địa hình nơi lắp đặt và xây dựng hệ thống điện sẽ là cơ sở để tạo ra hệ
thống điện an toàn, bền vững, chất lượng. Chính vì vậy mà hàng năm các công
ty điện lực vẫn thường xuyên đầu tư trang thiết bị mới hiện đại phục vụ cho quá
trình xây lắp hệ thống điện.

Bên cạnh vốn là khoa học công nghệ, khoa học công nghệ luôn luôn
chiếm hàng đầu trong việc thúc đẩy quá trình triển khai hệ thống lưới điện, do
vậy mà khi công nghệ càng cao thì các công trình ngày càng được xây dựng với
kỹ thuật cao hơn trước và thời gian hoàn thành cũng sớm hơn, các công trình
xây dựng ngày càng phù hợp với sự phát triển của đất nước. Đi kèm với nó là
chất lượng điện được truyền tải tốt, dịch vụ điện được cải thiện, các vùng hạ
nguồn được sử dụng điện thường xuyên hơn thời gian điện bị ngắt đội ngột
cũng giảm xuống. Khoa học công nghệ tác động đến mọi mặt của quá trình xây
dựng hệ thống lưới điện, sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ kéo theo sự
phát triển hệ thống lưới điện, tạo ra nền tảng tương lai của nền kinh tế trong các
giai đoạn tiếp theo.
2.3.Đặc điểm của hệ thống lưới điện
2.3.1.Thống nhất trên phạm vi quốc gia.
Hệ thống lưới điện quốc gia hiện nay nằm dưới sự quản lý của Tập đoàn điện
lực EVN, toàn bộ các nhà máy phát điện trước đây đều thuộc sở hữu nhà nước do vậy
mà tất cả điện đều được hòa vào lưới điện quốc gia. Hệ thống lưới điện không những
đưa điện từ các nhà máy điện đến nhân dân trong vùng và các khu công nghiệp gần đó
mà còn đưa điện tới các tỉnh khác, tới các vùng sâu vùng xa, tới các khu kinh tế lớn tiêu
tốn nhiều năng lượng do vậy mà hệ thống lưới điện quốc gia được kết nối liền mạch với
nhau từ tất cả cả các tỉnh thành phố trong cả nước thành một thể thống nhất dưới sự
quản lý của EVN, trong giai đoạn gần đây thực hiện chủ trương phát triển ngành điện
đa dạng hóa trong công tác cung cấp điện nên nhiều nhà máy sản xuất điện tư nhân
cũng đã xuất hiện, các nhà máy này xuất hiện chủ yếu ở các tỉnh miền núi nơi có nhiều
Đào Duy Long KTPT48A
sông để xây dựng nhà máy thủy điện mini phục vụ cho nhu cầu sử dụng điện trực tiếp
của người dân những vùng này, tuy nhiên lượng điện sản xuất ra lớn hơn nhiều so với
lượng điện tiêu thụ tại địa bàn nhà máy mà chi phí xây dựng vốn đã lớn do vậy mà tất
cả các nhà máy này điện này cũng đã chủ động bán điện cho tập đoàn EVN, vì vậy mà
hệ thống đường dây truyền tải điện của các nhà máy này cũng đã hòa vào lưới điện
quốc gia.

Chính vì vậy một lần nữa ta chắc chắn rằng hệ thống lưới điện là một thể thống
nhất, một mặt thực hiện phục vụ nhu cầu tại địa bàn, một mặt sẵn sàng cung cấp cho
các địa phương khác trên toàn quốc đảm bảo sản xuất ổn định, góp phần phát triển nền
kinh tế.
2.3.2.Hệ thống lưới điện được sắp xếp bố trí trên cơ sở khoa học.
Hệ thống điện lưới hiện nay của nước ta được xây dựng trên cơ sở tổng sơ đồ
quy hoạch ngành điện, dựa trên định hướng của chính phủ trong những năm tiếp theo
về phát triển kinh tế xã hội mà tập đoàn điện lực sẽ xây dựng tổng sơ đồ này nhằm mục
tiêu là một trong những cơ sở vật chất quan trọng đi trước một bước để phục vụ nền
kinh tế. Trong tổng sơ đồ này sẽ ghi rõ cụ thể đường dây cao áp trên toàn quốc và định
hướng sơ bộ hệ thống lưới điện trung áp. Sau đó các tỉnh sẽ dựa vào sơ đồ này để xây
dựng hệ thống lưới điện trung áp và hạ áp của tỉnh dựa trên quy hoạch phát triển của
tỉnh trong những năm tiếp theo.
Quy hoạch sơ đồ bố trí hệ thống lưới điện là tập hợp tư duy của những tập thể
các nhà lãnh đạo được xây dựng kỹ càng từ trên xuống dưới với sự hỗ trợ và phối hợp
của nhiều cơ quan chức năng cũng như cơ quan có liên quan để tạo ra bộ khung hoàn
chỉnh cho sự phát triển của nền kinh tế, quy hoạch này được xác định dưới nhiều tác
động của nội tại đất nước cùng với xu hướng vận động của thế giới do vậy mà nó được
nghiên cứu và xem xét rất kỹ trước khi được thủ tướng phê duyệt.
Chính vì vậy mà hệ thống lưới điện không bị phát triển theo tự do thiếu sự quản
lý, tất cả các hệ thống đường dây điện được xây dựng đã được lên kế hoạch từ trước
đến từng xã thôn, bản trên cả nước, đảm bảo đất nước phát triển nhanh, mạnh, đúng
trọng tâm phù hợp với xu hướng của thế giới.
Đào Duy Long KTPT48A
2.3.3.Quy mô và tốc độ phát triển hệ thống lưới điện phụ thuộc vào lượng
vốn huy động.
Như trên đã phân tích toàn bộ đường dây cao áp và trung áp, hạ áp đã được quy
hoạch cụ thể đến từng xã, tuy nhiên để đưa được điện tới từng xã lại là vấn đề khác.
Không phải tự nhiên mà ngành điện lại là một ngành độc quyền, nó có thể độc quyền
trong truyền tải điện là do chi phí xây dựng, lắp đặt và triển khai đường dây điện tới các

hộ gia đình và các khu công nghiệp là rất lớn, chi phí này còn lớn hơn rất nhiều khi
muốn đưa điện đến các xã vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo. Nếu như đầu tư
xây dựng hệ thống đường dây tại các khu công nghiệp , khu dân cư có mật độ kinh tế
cao thì tập đoàn điện lực hoàn toàn có khả năng thu hồi vốn nhưng nếu đầu tư cho vùng
đặc biệt khó khăn thì sẽ khó mà đạt được hiệu quả kinh tế. Tuy vậy với sự định hướng
của chính phủ hàng năm tập đoàn vẫn trích lại một phần thu nhập để đầu tư cho các xã
vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo để đảm bảo an ninh chính trị, tăng hiệu quả về
kinh tế và xã hội của đất nước. Mặc dù vậy với địa hình ở các khu vực đặc biệt đó và
với số vốn không phải là quá lớn nên chỉ có thể đầu tư dần dần vào các xã khó khăn
nhưng có khả năng thu hồi vốn tốt nhất, vì thế mà tốc độ phát triển hệ thống lưới điện ở
các vùng này còn rất chậm. Điều này chỉ được khắc phục trong những năm gần đây sau
khi có sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA của các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước
dành cho phát triển cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển. Nguồn vốn này khá lớn
trung bình mỗi đợt lên tới trên 600 triệu USD, mặt khác nguồn vốn có lãi suất ưu đãi,
thời gian ân hạn dài là điều kiện thuận lợi để tập đoàn điện lực từng bước đẩy nhanh tốc
độ phát triển mạng lưới điện, góp phần kích thích quá trình cơ giới hóa nông thôn, điện
khí hóa nông thôn, thay đổi bộ mặt của người dân nơi đây. Do vậy có thể nói rằng tốc
độ phát triển của hệ thống điện phụ thuộc lớn vào nguồn vốn mà ngành điện có thể huy
động từ bên ngoài , đồng thời phụ thuộc một phần vào kết quả kinh doanh của ngành
điện, cả hai công tác này làm tốt sẽ là điều kiện thuận lợi để hoàn thành hệ thống lưới
điện trên toàn quốc.
Ngoài ra các hệ thống lưới điện còn có thể được đầu tư nhờ vào nguồn vốn của
chính quyền địa phương, một số địa phương có nguồn thu lớn có khả năng sẽ sử dụng
một phần nguồn vốn của mình để đầu tư xây dựng trực tiếp hệ thống lưới điện tại các
Đào Duy Long KTPT48A
xã trong địa bàn, thông qua sự đồng ý và tư vấn của ngành điện, tuy vậy số vốn này
thường nhỏ, không thường xuyên.
Rõ ràng là để đạt được chỉ tiêu 100% hộ có điện vào năm 2020 thì ngành điện,
chính phủ và chính quyền địa phương cần phải cố gắng hơn nữa trong việc tăng nguồn
thu, tăng nguồn vốn huy động từ quốc tế để dành cho phát triển hệ thống lưới điện trên

toàn quốc.
3.Sự cần thiết phải đưa điện đến các xã nghèo tỉnh Cao Bằng.
Một xã, huyện, tỉnh hay lớn hơn là một quốc gia muốn phát triển kinh tế, xã hội
và môi trường thì cần phải có sự đầu tư lớn về kết cấu hạ tầng, nó là toàn bộ hệ thống
cơ sở vật chất – kỹ thuật nền tảng để đảm bảo sự phát triển một cách bền vững.
Theo cách tiếp cận dựa vào công dụng trực tiếp người ta chia kết cấu hạ tầng
thành 2 loại là kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội. Kết cấu hạ tầng kinh tế
là toàn bộ cơ sở hạ tầng bảo đảm trực tiếp cho phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh,
gồm mạng lưới giao thông vận tải; mạng lưới cấp thoát nước, điện, khí; mạng lưới bưu
chính – viễn thông, thông tin liên lạc, hệ thống thủy lợi… Kết cấu hạ tầng xã hội là toàn
bộ cơ sở hạ tầng bảo đảm trực tiếp cho phát triển xã hội gồm: nhà ở, các cơ sở trường
học, y tế, văn hóa; cơ sở nghiên cứu khoa học; công trình công cộng; cơ sở và công
trình bảo vệ môi trường…
Ở đây kết cấu hạ tầng kinh tế sẽ là điều kiện để nâng cao và phát triển kết cấu hạ
tầng xã hội, do vậy mà khi lập kế hoạch phát triển một vùng kết cấu hạ tầng kinh tế sẽ
được tính toán và xây dựng trước tiên. Trong kết cấu hạ tầng kinh tế các nhân tố trong
kết cấu đều có vai trò quan trọng và có ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển kinh tế,
quốc phòng và an ninh, các yếu tố này một mặt tạo điều kiện phát triển các mặt khác
nhau của đời sống nhân dân, một mặt tương tác hỗ trợ nhau để phát huy hết khả năng
của mỗi yếu tố, ví dụ hệ thống giao thông được xây dựng là điều kiện tốt để xây dựng
hệ thống mạng lưới điện, điện được xây dựng sẽ là điều kiện để phát triển thông tin liên
lạc, thủy lợi … do vậy mà các yếu tố này thường được tổ chức xây dựng đồng bộ hợp
lý tùy thuộc vào địa điểm được đầu tư phát triển. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay tập
trung chủ yếu phát triển hệ thống giao thông vận tải, mạng lưới điện, cấp thoát nước,
bưu chính viễn thông và thông tin liên lạc. Trong chương trình quốc gia về xóa đói
Đào Duy Long KTPT48A
giảm nghèo của nước ta cũng đã chỉ rõ rằng cần phải đầu tư xây dựng đồng bộ và chú
trọng đến đầu tư kết cấu hạ tầng tạo nền tảng phát triển kinh tế xã hội giúp các xã nghèo
phát triển, nâng cao mức sống và thay đổi nhận thức. Do vậy mà điện với tư cách mà
nền tảng của sự phát triển cần phải được đầu tư ở các xã nghèo các xã thuộc vùng đặc

biệt khó khăn những nơi mà người dân vẫn chưa được sử dụng điện hay nói cách khác
là họ đã thiếu hụt cơ hội phát triển so với những người khác.
Tuy nhiên các xã nghèo thường là các xã có thu nhập trung bình của người dân ở
mức thấp, có điều kiện tự nhiên không tốt ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế
của các xã này. Đặc biệt các xã này thường là các xã ở vùng sâu vùng xa, các xã nằm
tại vùng biên giới hải đảo tách biệt với các trung tâm lớn, do vậy mà việc đưa điện đến
các xã này gặp nhiều khó khăn, chi phí xây dưng đường dây truyền tải điện vốn đã cao
nay càng tăng cao hơn. Chiều dài từ trạm biến áp tới các hộ dân ở vùng sâu vùng xa các
xã nghèo thường dài từ 2-3km thậm chí nhiều hộ còn cách trạm biến áp gần 10km do
vậy mà đầu tư hệ thống lưới điện vào đây chi phí sẽ rất cao mà số hộ dân được sử dụng
lại không nhiều dao động khoảng vài trăm hộ, trong khi đó ở các khu vực thành thị trạm
biến áp ngay sát các hộ dân, với một trạm biến áp bán kính cấp điện 3km là có thể cấp
điện cho vài nghìn thậm chí vài chục nghìn hộ. Bên cạnh đó các hộ ở đây có thu nhập
thấp, lượng điện sử dụng không lớn khiến cho tổng điện thành phẩm bán được các xã
nghèo không đủ chi trả cho chi phí bảo dưỡng và đầu tư ban đầu.
Tuy nhiên hàng năm ngành điện hay các tỉnh vẫn cố gắng trích một khoản vốn
để đầu tư cho các xã này tiến tới 100% các xã trên toàn quốc có điện vào năm 2020 và
giảm số hộ không có điện xuống mức dưới 5% theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội
nước ta.
Rõ ràng là hiệu quả tài chính đã không thể đạt được ở đây nhưng lý do nào mà
chính phủ, ngành điện cũng như chính quyền địa phương phải làm như vậy, lý do chỉ có
thể ở đây là đặc điểm chính trị của các xã này và mục tiêu phát triển bền vững toàn diện
của nước ta.
Thứ nhất hầu hết các xã nghèo đều là các xã nằm ở vùng núi, vùng sâu xã hải
đảo nơi có đặc điểm chính trị quan trọng, nơi đây dân số ít, sống ít tập trung, dân trí
thấp dễ bị ảnh hưởng bởi các thế lực thù địch, do có thu nhập kém nên dễ bị dụ dỗ về
vật chất, mặt khác lại là vùng sâu vùng xa nếu không được sự quan tâm của Đảng nhà
Đào Duy Long KTPT48A
nước và chính quyền địa phương thì sẽ dẫn đến mất lòng tin. Đằng sau đó sẽ là chính trị
bất ổn, vùng biên giới hải đảo bị xâm phạm, các lực lượng chống phá cách mạng nhà

nước Việt Nam có cơ hội vùng lên làm đảo lộn chính trị, gây hoang mang cho người
dân, các doanh nghiệp không muốn đầu tư, nền kinh tế xuống dốc và thực sự sẽ là bức
tranh đen tối cho đất nước nếu không phòng trừ cũng như có những giải pháp thích hợp.
Thứ hai hiện nay nền kinh tế đang phát triển theo hướng thị trường duới sự điều
tiết của nhà nước, tính hiệu quả vẫn đặt ở vị trí quan trọng trong phát triển nền kinh tế,
do vậy mà sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng được giãn cách giữa các vùng,
những vùng có lợi thế sẽ có cơ hội phát triển ngày càng mạnh, trong khi các vùng khó
khăn thì ngày càng nghèo đi tương đối. Sự bất bình đẳng này cũng sẽ là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến bất bình đẳng xã hội giữa vùng giàu vùng nghèo,
người kinh và người dân tộc thiểu số, những người dễ bị tổn thương nhất. Do vậy mà
chính phủ với cương vị là cơ quan có nhiệm vụ điều tiết thị trường càng cần phải có
điều chỉnh cần thiết, tác động đến các cơ quan có thẩm quyền để hỗ trợ quan tâm tới
các xã nghèo, vùng đặc biệt khó khăn như trên, thậm chí là quan tâm hơn cả các xã bình
thường để hạn chế tối đa bất bình đẳng xã hội, đảm bảo đất nước phát triển toàn diện
bền vững .Đặc biệt hơn nữa là đầu tư vào cơ sở hạ tầng cụ thể điện, đây là những cơ sở
cần thiết để thay đổi bộ mặt của các xã nghèo, cho phép họ có cơ hội để phát triển kinh
tế , sử dụng công cụ tiên tiến hơn, cập nhật thông tin bên ngoài thay đổi nhận thức từ đó
có niềm tin vào Đảng chung tay xây dựng quê hương góp phần làm đẹp giàu tổ quốc.
Tất nhiên với vai trò là một doanh nghiệp kinh doanh điện tập đoàn điện lực Việt
Nam sẽ đầu tư cho các xã nghèo nhưng việc lựa chọn các xã sẽ rất khắt khe để đảm bảo
việc đầu tư giảm thiểu chi phí và tăng lợi nhuận tối đa, các xã được lựa chọn đầu tư sẽ
được sắp xếp thứ tự ưu tiên đảm bảo khả năng sử dụng điện đạt ở mức tương đối, có
khả năng phát triển các ngành nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và đồng thời cũng
thuộc các xã đặc biệt khó khăn vùng biên giới, hải đảo nơi có đặc điểm chính trị an ninh
quốc phòng quan trọng của đất nước, ngoài ra còn phải có một số điều kiện thích hợp
với yêu cầu của các nhà tài trợ nếu có.
Các xã nghèo tỉnh Cao Bằng là những xã đáng được đầu tư và dễ dàng phù hợp
với các điều kiện như thế, là một tỉnh nằm sát biên giới có vị trí địa lý và đặc điểm
chính trị quan trọng, Cao Bằng là tỉnh thuộc vùng núi phía bắc giáp với Trung Quốc nơi
Đào Duy Long KTPT48A

thường xuyên xảy ra tranh chấp về biên giới. Bên cạnh đó Cao Bằng vẫn là một tỉnh có
thu nhập ở mức trung bình, nhiều xã trong tỉnh còn rất nghèo thu nhập bình quân đầu
người thấp khoảng 2,03 triệu.đ /người/năm, nhiều xã dân chưa được tiếp cận với dịch
vụ điện, hầu hết các xã nghèo nơi đây đều nằm trong danh mục xã nghèo nhất bên cạnh
đó các xã này có tới 73% là dân tộc thiểu số làm nghề nông là chủ yếu với phần lớn tiêu
dùng dành cho lương thực thực phẩm(40.1%), bên cạnh đó các xã này có tiềm năng
phát triển nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp do vậy mà các xã nghèo tỉnh Cao Bằng
là các xã cần được quan tâm và hỗ trợ của chính phủ ngành điện và chính quyền địa
phương.
Đào Duy Long KTPT48A
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HỆ THỐN LƯỚI ĐIỆN
Ở CÁC XÃ NGHÈO TỈNH CAO BẰNG
1.Thực trạng hệ thống lưới điện ở các xã nghèo tỉnh Cao Bằng.
1.1.Khái quát tình hình kinh tế xã hội tỉnh Cao Bằng.
1.1.1.Kinh tế
Cao Bằng là tỉnh miền núi biên cương phía Bắc tổ quốc , có địa hình tương đối
hiểm trở lại nằm cách xa các trung tâm lớn của miền bắc. Cao Bằng có diện tích tự
nhiên 6.690,72km2, phía Bắc và Đông giáp Trung Quốc với đường biên giới dài
332km, phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang, phía nam giáp tỉnh Bắc Cạn và
Lạng Sơn. Trung tâm tỉnh lỵ là thị xã Cao Bằng cách thủ đô Hà Nội 286km về phía Bắc
theo quốc lộ 3.
Nhưng đổi lại, Cao bằng được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều phong cảnh trữ
tình nên thơ như: thác Bản Dốc, động Ngườm Ngao, hồ Thăng Hen .. trong lòng đất lại
có nhiều khoáng sản quý hiếm như : sắt , mangan, thiếc , boxit, vàng… có nguồn nước
dồi dào thuận tiện cho phát triển thủy điện cùng tài nguyên đất, tài nguyên rừng đa dạng
phong phú… Những yếu tố đó đã và đang tạo nên những tiền đề cơ bản để Cao Bằng
đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội sớm đua Cao Bằng trở thành tỉnh khá, năng động
trong khu vực trong tương lai không xa.
Trong những năm vừa qua tỉnh Cao Bằng với nỗ lực của mình đã có những bước

tiến rõ rệt cả về chất và lượng đưa nền kinh tế tỉnh từng bước vươn lên. Cụ thể trong
giai đoạn 2001-2005 kinh tế xã hội Cao Bằng đã có bước phát triển đáng mừng: cơ cấu
kinh tế chuyển dịch tích cực, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 10.95%, thu nhập
bình quân đạt gần 300USD/ng/năm. Kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư xây dựng,
100% xã có đường ôtô đến trung tâm, 168 xã có lưới điện tới trung tâm xã.
Đào Duy Long KTPT48A
Tuy nhiên những kết quả trên vẫn chưa đủ để phản ánh được hết những tiềm
năng mà tỉnh Cao Bằng có được, nổi tiếng với tài nguyên rừng và tài nguyên khoáng
sản phong phú và đa dạng, quy tụ nhiều loài động vật quý hiếm, cùng với 22 loại
khoáng sản. Bởi lẽ do ở vị trí địa lý không thuận lợi nên về mặt kết cấu hạ tầng còn
nhiều yếu kém.
Giao thông vận tải: hệ thống giao thông còn nhiều hạn chế về tuyến và chất
lượng giao thông. Hệ thống giao thông duy nhất chỉ có đường bộ, gồm 4 tuyến quốc lộ
(quốc lộ 3,4A , 3A và 4C) với chiều dài 360km và các tuyến tỉnh lộ, đường giao thông
liên huyện, xã. Mật độ đường 0.25km/km2, tỷ lệ rải nhựa trên 20%. Quốc lộ 3 và quốc
lộ 4A là hai tuyến đường giao thông quan trọng nhất cho việc mở rộng giao lưu giữa
tỉnh với các tỉnh bên ngoài, ngoài ra từ tháng 12-2003 tuyến vận tải từ Cao Bằng sang
Long Châu- Trung Quốc cũng đã được khai thông. Chính quyền tỉnh Cao Bằng cũng
đang cố gắng phát triển đường sắt và đường không để phá thế độc đạo trong tương lai.
Hệ thống thông tin liên lạc của tỉnh Cao Bằng được coi là phát triển nhất trong
hệ thống kết cấu hạ tầng, mạng viễn thống phát triển đồng bộ, hiện đại. Các dịch vụ
viễn thông được mở rộng và phát triển với nhiều loại hình như điện thoại cố định, điện
thoại di động, fax, interner. Đến năm 2005, 100% các xã phường thị trấn đã có điện
thoại, tổng số thuê bao cố định 26.414 máy, mật độ sử dụng điện thoại lên tới 5.88 máy/
100 dân.
Hệ thống cung cấp điện: ngoài nguồn điện nhận từ lưới điện quốc gia, Cao Bằng
đã đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện: Thoong Gót , Nà Tẩư , Suối Củn và Nà Lòa
với tổng công suất gần 10MW. Hiện nay điện lực Cao Bằng đang quản lý và vận hành
trên 80km đương dây cao áp hơn 1000km đường dây trung áp và hơn 1000km đường
dây hạ áp cùng với 2 trạm biến áp trung gian, 427 máy biến áp hạ thế với tổng dung

lượng lên tới 39.949kva. Đến năm 2007 mạng lưới điện đã đến 13 huyện thị xã, tổng số
hộ có điện đạt 75%, tuy nhiên lượng điện vẫn chỉ tập trung xung quanh thị xã Cao Bằng
và một số huyện lân cận, các xã vùng sâu vùng xa hầu như không có điện.
Hệ thống cấp nước :toàn tỉnh xây dựng và đưa vào sử dụng 7 công trình cấp
nước sinh hoạt tại 7/13 huyện thị xã với tổng công suất hơn 14000m3/ngày đêm. Đến
năm 2006, 80% dân số thành thị và 52.1%% dân số nông thôn đã có nước sạch sinh
hoạt. Tình trạng thiếu nước ở các vùng núi cao đặc biệt là ở khu vực núi đá đang dần
Đào Duy Long KTPT48A
được khắc phục. Ngoài ra hệ thống thủy lợi đã được đầu tư xây dựng và nâng cấp, đảm
bảo cung cấp nước phụ vụ cho nhu cầu sản xuất và nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt và
chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
1.1.2.Xã hội.
Dưới sự quan tâm của Đảng và sự cố gắng của chính quyền địa phương tỉnh Cao
Bằng trong nhiều năm vừa qua tình hình xã hội của tỉnh được giữ ổn định và ngày càng
tăng cường về mọi mặt của đời sống nâng cao lòng tin của nhân dân vào Đảng, nhà
nước Việt Nam đặc biệt là các dân tộc thiểu số, gia đình có công với cách mạng. Ngành
giáo dục và y tế tại tỉnh cũng dần được nâng cao và tăng cường nhằm phục vụ tốt nhất
cho người dân kể cả những hộ nghèo xa trung tâm thị xã.
Trước hết phải kể đến sự tiến bộ vượt bậc của ngành giáo dục trong việc vận
động người dân đi học đồng thời tăng cường đội ngũ giảng dạy cho tất cả các xã góp
phần cùng cả nước đạt thành tích phổ cập bậc tiểu học và trung học cơ sở.
Giáo dục đào tạo:Số học sinh qua các năm học
Năm học 2000-2001 2003-2004 2005-2006
Nhà trẻ 1353 1466 1653
Mẫu giáo 13280 13380 12470
Tiểu học 76737 63470 52723
Trung học cơ sở 37812 45532 44532
Trung học phổ thông 12116 18837 24379
Trong giai đoạn 2000-2006 số trẻ em được tới trường trong toàn tỉnh liên tục
tăng và giữ ở mức ổn định cao, số trẻ em đi nhà trẻ trong giai đoạn trên tăng liên tục

giai đoạn 2003-2004 tăng 8.3% so với giai đoạn 2000-2001, còn giai đoạn 2005-2006
số trẻ em này cũng tăng với mức tăng cao hơn lên đến 12.7% so với năm 2003-2004, ở
các cấp và bậc học khác số trẻ em được đi học cũng gia tăng và giữ mức ổn định chỉ trừ
có cấp tiểu học thì lại có xu hướng giảm dần. Tuy vậy tính tổng trong năm thì số trẻ em
toàn tỉnh đi học ngày càng gia tăng năm 2003-2004 là 142685 trẻ tăng 0.9% so với năm
2000-2001.
Dưới sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp ủy chính quyền địa phương , công
tác quy tập, xây dựng mộ các nghĩa trang liệt sỹ luôn luôn được chăm lo chu đáo. Đến
năm 2005 toàn tỉnh có 16 nghĩa trang liệt sỹ và 69 nhà bia, đồng thời giải quyết cơ bản
trợ cấp cho gần 7000 lão thành cách mạng, người hưởng phụ cấp tiền khởi nghĩa với

×