LUẬN VĂN:Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi.Lời nói đầuTrong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các ngành Ngân hàng nước ta gánh một trọng trách rất nặn potx
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.17 KB, 75 trang )
LUẬN VĂN:
Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Hà Nội qua các loại hình tài
khoản tiền gửi
Lời nói đầu
Trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, các ngành Ngân hàng
nước ta gánh một trọng trách rất nặng nền. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đều chú trọng
đến vấn đề đổi mới và phát triển nền kinh tế để theo kịp các nước đang phát triển của
khu vực, hội nhập với các nước trên thế giới.
Việc xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước, cộng với chính sác mở cửa, đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ kinh tế trên thực tế đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế nước ta sang một
sắc thái mới trong mấy năm qua.
Nền kinh tế thị trường dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế và dứoi sự điều
tiết của Nhà nước đã từng bước giải quyết được quan hệ cung cầu về hàng hoá và sản
phẩm. Thu nhập quốc dân những năm qua tăng trưởng thật đang sản phẩmấn khởi.
Khối lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ tăng lên không ngừng. Khối lượng đầu tư và
các ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm thuỷ sản tăng mạnh làm thay đổi từng ngày,
từng giờ bộ mặt của đất nước.
Có được kết quả to lớn đó là do có sự nỗ lực vượt bậc của các ngành, các cấp
trong cả nước, trong đó ngành Ngân hàng đóng một phần khơng nhỏ.
Hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là cấp tín dụng cho nền kinh tế nên Ngân
hàng phải không ngừng nâng cao công tác huy động vốn để đáp ứng được vốn trong
hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, việc huy động vốn của
Ngân hàng thương mại còn bị hạn chế, ẩn đọng trong dân còn nhiều. Đây là nguồn vốn
trong nước cần được khai thác để đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước, trong đó Ngân hàng có vai trị hết sức quan trọng.
Vì vậy, trong q trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Hà Nội tơi đã chọn khố luận: “Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi”
Nội dung khoá luận bao gồm :
Chương I: Lý luận chung về công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Hà Nội.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị đối với công tác huy động vốn tại Chi nhánh
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Hồn thành bản khố luận này xem xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo
Vũ Thiện Thập, người đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong q trình thực tập và
viết khố luận. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Ban lãnh đạo,
các cô chú, anh chị cán bộ Phòng Nguồn vốn kinh doanh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Hà Nội.
Chương I:
Lý luận chung về công tác huy động vốn
của Ngân hàng thương mại
I. Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại:
1. Vị trí của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế:
Ngân hàng được xem là một ngành dịch vụ có từ lâu đời trên thế giới, Ngân
hàng ra đời khi sản xuất hàng hoá đã phát triển tới mức nhất định. Trong xã hội chiếm
hữu nơ lệ chưa có sản xuất hàng hố, nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, do đó Ngân
hàng chưa xuất hiện. Tuy nhiên đã có những mầm mống sơ khai của hoạt động Ngân
hàng, đó là cho vay nặng lãi.
Khi nền sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất
hàng hoá đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế, theo đó hệ thống Ngân hàng
được hình thành. Hoạt động của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế hàng hoá một
mặt phục vụ cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế, song mặt khác cũng chính là do
mục đích sinh lời của Ngân hàng khơng ngừng hồn thiện và phát triển.
Lúc đầu, hoạt động Ngân hàng chỉ đơn giả là các dịch vụ đổi tiền, các dịch vụ
này rất đơn giản, nó chỉ phù hợp với buổi bình minh của nền sản xuất hàng hố.
Khi nền sản xuất hàng hố phát triển đến trình độ cao nó địi hỏi các hình thức
dịch vụ Ngân hàng càng phải phong phú, đa dạng, do vậy các hình thức tín dụng và
dịch vụ Ngân hàng được phát triển để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền sxhd.
Ngày nay kinh tế thị trường là sự phát triển đến trình độ cao của kinh tế hàng
hố. Do đó Ngân hàng càng có vị trí quan trọng. Ngồi chức năng kinh doanh thơng
thường của mình, Ngân hàng cịn là cơng cụ trong tay Nhà nước để thực thi việc quản
lý điều hành nền kinh tế có hiệu quả.
2. Vai trị của Ngân hàng thương mại trong việc phục vụ kinh tế phát triển:
Trong nền kinh tế thị trường với một đặc trưng nổi bật là mức độ tiền tệ hoá
ngày càng cao, các mối quan hệ kinh tế, trong đó vốn là yếu tố quyết định phần lớn
thành công các mục tiêu phát triển của quốc gia.
Trong lĩnh vực sản xuất và lưu thơng, doanh nghiệp có mối quan hệ giao dịch,
thơng qua hệ thống thị trường, mơi trường pháp lý, trình độ dân trí, lao động, lĩnh vực
đầu tư, cơng nghệ thiết bị thông tin, thị trường các sản phẩm, thị trường tiền tệ - tài
chính.
Vậy vấn đề quản trị tài chính, huy động vốn và phát triển vốn được đặt ra với
các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh sản xuất diễn ra và phát triển
không ngừng cịn có các mối quan hệ phức tạp đa dạng khác nảy sinh ra trong sự gặp
gỡ trực tiếp giữa chủ dư thừa và vốn và thiếu hút vốn đang gặp khó khăn trở ngại.
Để giải quyết mối quan hệ ấy đã hình thành một định chế trung gian quan trọng
nhất là Ngân hàng thương mại. Như vậy Ngân hàng thương mại là chủ thể kinh doanh
thị trường vốn tiền tệ - tín dụng. Đó là u cầu khách quan của nền kinh tế sản xuất
hàng hoá.
Ngân hàng thương mại ra đời ra đời là một khâu quan trọng nhất của sự phát
triển kinh tế vì nó cung ứng vốn để thực hiện sự nghiệp hiện đại hoá đất nước.
Trong thế giới hiện đại Ngân hàng thương mại đóng vai trị quan trọng nhất
trong các định chế tài chính của mỗi nước. Hoạt động của Ngân hàng thương mại đa
dạng, phong phú, phạm vi rộng lớn nên có vai trị quan trọng đối với sự phát triển nền
kinh tế thị trường.
Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, vốn được tạo ra từ
q trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền
kinh tế. Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng.
Để tăng thu nhập quốc dân, tức là mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản
xuất và lưu thơng hàng hố, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế
cần thiết phải có vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thế đáp ứng nhu cầu vốn cho sản
xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi tạm
thời được giải pháp ra từ quá trình sản xuất và lưu thông, vốn từ nguồn tiết kiệm của
các cá nhân trong xã hội. Bằng nguồn vốn huy động được, các Ngân hàng thương mại
cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho
quá trình tái sản xuất. Như vậy nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại,
các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng phạm vi sản xuất, công nghệ, tăng năng suất
lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động
mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh... Để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, các doanh nghiệp không
ngừng nâng cao chất lượng lao động, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp.
Thơng qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng đáp ứng vốn cho doanh nghiệp trong việc
nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, tạo cho doanh nghiệp
có chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
Ngân hàng thương mại đóng vai trị trung gian thanh toán cho các tổ chức kinh
tế, cá nhân trong xã hội. Tổ chức cơng tác thanh tốn trong nền kinh tế quốc dân, sử
dụng các phương tiện thanh toán khơng dùng tiền mặt góp phần tăng nhanh tốc độ chu
chuyển vốn trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của
mình sưc thực sự là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động
tín dụng và thanh tốn, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng
tiền cung ứng trong lưu thông, thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành
trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại thực hiện việc điều hoà các luồng tiền, tích tụ
và phân phối cho các ngành. Với những nội dung hoạt động như vậy, Nhà nước đã sử
dụng Ngân hàng thương mại như là một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với hệ thống tài chính
quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường khi các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng
được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày
càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn
với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển
đó. Vì vậy, nền tài chính mỗi nước phải hồ nhập với nền tài chính quốc tế. Ngân hàng
thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đóng vai trị vơ cùng quan trọng
trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi cho vay,
nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ Ngân hàng khác. Ngân hàng
thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng thông qua
các hoạt động thanh toán kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các Ngân hàng
nước ngồi. Hệ thống Ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài
chính trong nước phù hợp với sự vận động của hệ thống tài chính thế giới.
3. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại:
3.1. Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn của Ngân hàng:
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại bao gồm các nghiệp vụ sau:
3.1.1. Nghiệp vụ tiền gửi:
Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ doanh nghiệp vào Ngân hàng
để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó Ngân hàng thương mại có
thể huy động được. Ngồi ra các Ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của
cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào Ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
3.1.2. Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá:
Các Ngân hàng thương mại sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có
tính dài hạn, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của Ngân hàng vào
nền kinh tế. Ngồi ra, các nghiệp vụ này cịn giúp các Ngân hàng thương mại tăng
cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
3.1.3. Nghiệp vụ đi vay:
Đối với nghiệp vụ này các Ngân hàng thương mại tiến hành tạo vốn cho mình
bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng trung ương
dưới hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo... nhằm tạo sự cân đối trong điều
hành vốn của bản thân Ngân hàng thương mại khi mà họ không tự cân đối được trên cơ
sở khai thác tại chỗ.
3.1.4. Nghiệp vụ huy động vốn khác:
Ngân hàng thương mại có thể tiến hành tạo vốn thông qua việc nhận làm đại lý
hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước.
3.1.5. Vốn tự có của Ngân hàng:
Đây là vốn thuộc sở hữu riêng có của các Ngân hàng. Trong thực tế khoản vốn
này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân
hàng mang lại. Nó góp một phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng thương mại.
3.2. Nghiệp vụ tài sản có:
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích đảm bảo an
tồn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại. Nội dung của
nghiệp vụ bao gồm:
3.2.1. Nghiệp vụ ngân quỹ:
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của Ngân hàng được dùng vào với mục
đích nhằm đảm bảo an tồn về khả năng thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt
buộc do Ngân hàng trung ương đề ra.
3.2.2. Nghiệp vụ cho vay:
Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của
các Ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản sinh lời của các Ngân
hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế.
3.2.3. Nghiệp vụ đầu tư tài chính:
Các Ngân hàng thương mại thực hiện q trình đầu tư bằng vốn của mình thơng
qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường.
3.2.4. Nghiệp vụ khác:
Bằng các hoạt động khác trên thị trường như: Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và
kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, nghiệp vụ uỷ thác và
đại lý; kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm; các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động
Ngân hàng như : dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê két... và các
dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, mà các Ngân hàng thu được những khoản lợi
nhuận đáng kể.
II. Nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng thương mại và các tài khoản phản ánh
nghiệp vụ huy động vốn:
1. Nội dung các loại vốn huy động của Ngân hàng thương mại.
1.1. Vốn huy động:
Là giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá
nhân trong xã hội thơng qua q trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán và
các nghiệp vụ kinh doanh khác được dùng làm vốn kinh doanh. Vốn huy động là công
cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, là nguồn vốn chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tổng số nguồn vốn của Ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Đồng thời các Ngân hàng thương mại luôn luôn
phải tôn trọng các giới hạn về mức huy động vốn theo quy định của mỗi nước. Ví dụ
tại Việt Nam tỷ lệ này là 20 lần so với vốn tự có. Mặc dù phạm vi sử dụng vốn huy
động của các Ngân hàng thương mại bị hạn chế so với vốn tự có song nếu các Ngân
hàng thương mại sử dụng tốt số vốn này thì khơng những nguồn lợi của Ngân hàng
được tăng lên mà cịn tạo cho Ngân hàng có được uy tín ngày càng cao. Qua đó tạo cho
Ngân hàng mở rộng được vốn góp phần mở rộng quy mô hoạt động của bản thân Ngân
hàng.
1.2. Vốn đi vay:
Là quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng thương mại và Ngân hàng Nhà nước
trung ương hoặc vay các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng quốc tế. Các
Ngân hàng thương mại sẽ đi vay vốn để bổ sung vào hốn hoạt động của mình khi Ngân
hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng hiện có mà vẫn khơng đủ vốn hoạt động.
1.3. Vốn khác:
Trong q trình làm trung gian thanh toán, Ngân hàng thương mại cũng tạo
được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán như vốn trên tài khoản tiền gửi mở
thư tín dụng, tài khoản tiền gửi bảo chi séc và các khoản tiền phong toả do Ngân hàng
chấp nhận các hối phiếu thương mại.
2. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại:
Theo giác độ không gian, một Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn
trong nước và ngồi nước.
Nguồn vốn từ nước ngoài là rất quan trọng. Bằng cách liên doanh, liên kết, mở
văn phòng đại diện ở nước ngoài, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... các Ngân hàng
thương mại có tiềm lực có thể hút vốn từ các Ngân hàng khác, các tổ chức kinh tế nước
ngoài,... góp phần đẩy mạnh đầu tư nước ngồi vào Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần
thấy rõ nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn trong nước vừa phong phú, vừa
chủ động, lại đang nằm trong tầm tay của các Ngân hàng thương mại. Nguồn trong
nước đồng thời cũng là tiền đề, là điều kiện để “đón” các nguồn nước ngoài.
Theo đối tượng huy động, một Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn từ
các đối tượng sau:
- Các tổ chức kinh tế.
- Các tầng lớp dân cư.
- Vay các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
- Vay Ngân hàng trung ương.
Trong đó nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp, dân cư là quan trọng nhất vì
nó là nguồn vốn chủ yếu và mang tính lâu dài. Mọi Ngân hàng đều phải biết dựa vào
tiết kiệm và tích luỹ của các doanh nghiệp và dân cư. Nguồn vốn huy động từ các tổ
chức tài chính khác, từ NHTW tuy khơng chiếm tỷ trọng lớn nhunưg nó đáp ứng được
những nhu cầu đột xuất về vốn của Ngân hàng.
Đứng trên quan điểm của Ngân hàng (người huy động vốn), có thể xếp số vốn
Ngân hàng huy động được thành hai loại:
- Loại chủ động thu gom: Tiền phát hành tín phiếu Ngân hàng, tínn phiếu cầm
cố, trái phiếu Ngân hàng (trong, ngồi nước).
- Loại bị động thu gom: các loại tiền ký gửi.
Về bản chất hai loại này khơng có sự khác nhau đáng kể. Tuy nhiên, “chủ động
vay vốn” (chủ động thu gom) cũng có một số đặc điểm:
+ Thơng thường, lãi suất “vốn chủ động vay” cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
+ “Vốn chủ động vay” được huy động theo sáng kiến riêng của từng Ngân hàng.
Bất cứ một Ngân hàng thương mại nào cũng hoạt động với mục đích chung là vì
lợi nhuận và sự tăng trưởng khơng ngừng của nguồn vốn. Bộ phận chủ yếu nhất trong
tổng nguồn vốn của Ngân hàng là vốn huy động. Do vậy công tác huy động vốn để tạo
nguồn cho Ngân hàng là nghiệp vụ quan trọng ảnh hưởng bao trùm lên toàn bộ hoạt
động của Ngân hàng.
Căn cứ vào một số tiêu thức, người ta chia nghiệp vụ huy động vốn thành các
hình thức huy động sau.
2.1. Tiền ký gửi:
Tiền ký gửi là một bộ phận tài sản nợ chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Tiền
ký gửi bao gồm các loại:
2.1.1. Trên tài khoản tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn):
Là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và
Ngân hàng thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi khơng kỳ hạn có mức lãi
suất thấp.
Tiền gửi thanh toán được ký thác vào Ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả
về mua hàng hoá, dịch vụ... Đây không phải là tiền để dành mà là một bộ phận tiền
đang chờ thanh toán.
2.1.2. Trên tài khoản tiền gửi có kỳ hạn:
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được uỷ thác vào Ngân hàng, khách hàng ký
thác chỉ được rút khi đến hạn đã thoả thuận. Tuy nhiên, trên thực tế, do phải cạnh tranh
để thu hút tiền gửi, các Ngân hàng thường cho phép khách hàng được rút ra trước hạn.
Trong trườg hợp này, có thể có hai cách giải quyết: hoặc khách hàng được vay tiền của
Ngân hàng, sau đó khi đến hạn rút tiền thì dùng số tiền và lãi nhận được để trả nợ và
lãi vay Ngân hàng, hoặc là thoả thuận với Ngân hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi
suất thấp hơn (thường là lãi suất tiền gửi không kỳ hạn).
Để tăng cường khả năng huy động nguồn này, các Ngân hàng thương mại
thường đưa ra nhiều loại thời hạn khac snhau với các mức lãi suất khác nhau nhằm đáp
ứng được mọi nhu cầu các các loại khách hàng khác nhau. Thơng thường có các loại
kỳ hạn sau : 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 2 năm, 3 năm, 5 năm. Với mỗi thời
hạn, Ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài
thì lãi suất càng cao.
2.1.3. Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của các
Ngân hàng thương mại. ở các nước công nghiệp phát triển, trong các loại tiền gửi vào
Ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng vị trí thứ hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm
là khoản để dành của cá nhân được gửi vào Ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kỳ.
Nhằm thu hút được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, Ngân hàng
thương mại đã đa dạng hố các hình thức huy động tiết kiệm, bao gồm:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (bao gồm nội và ngoại tệ). Người gửi có thể
rút ra một phần hay toàn bộ theo yêu cầu. Tuy nhiên, khác với tiền gửi thanh tốn,
người gửi khơng được sử dụng các cơng cụ thanh tốn để chi trả cho người khác.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (bao gồm nội và ngoại tệ). Tiền gửi tiết kiệm có
kỳ hạn có mức lãi suất cao hơn sao với tiền gửi tiết kiệm khơng kỳ hạn. Thơng thường
cũng có các kỳ hạn như 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm , 2 năm, 3 năm, 5
năm.
- Tiền gửi tiết kiệm được đảm bảo bằng vàng: Trong nền kinh tế có lạm phát,
dân chúng khơng thích gửi tiền nội tệ vào Ngân hàng vì sợ vốn và lãi khơng đảm bảo
giá trị như họ giữ vàng. Chính vì lẽ đó hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm đảm bảo
bằng vàng là một trong những biện pháp phần nào đáp ứng được yêu cầu đó. Người
gửi tiết kiệm bảp đảm bằng vàng khơng những bảo tồn được giá trị tài sản của mình
mà cịn được nhận một phần lãi từ phía ngân hàng.
- Tiết kiệm xây dựng nhà ở : đây là một loại tiết kiệm nhằm hỗ trợ người dân
sớm có nhà, để rút ngắn thời gian chờ đợi đủ vốn, góp phần thực hiện chính sách về
nhà ở của Đảng và Nhà nước. Do vậy cũng khuyến khích được phần nào người dân gửi
tiền vào ngân hàng.
Về mặt chun mơn, ngân hàng địi hỏi phải báo trước việc rút tiền gửi có kỳ
hạn ít nhất là 7 ngày, nhưng trong thực tế sự giới hạn này thường khơng được áp dụng.
Khơng có hình phạt nào ngồi hình thức giảm lãi suất được áp dụng cho các trường
hợp rút tiền tiết kiệm trước hạn.
2.2. Các loại tài khoản tiền gửi phản ánh nghiệp vụ huy động vốn:
Trong hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam ,
vốn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vốn không chỉ là cơ sở để Ngân hàng thương mại
tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình, cịn là phương tiện kinh doanh chính và
cịn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Chính vì vậy các
Ngân hàng thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn trong suốt quá trình
hoạt động của mình.
Khả năng mở rộng nguồn vốn từ tài khoản tiền gửi là vấn đề đang được mọi
người làm công tác Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Nhằm đa dạng hoá các loại nguồn
vốn, khai thác nguồn vốn rẻ, chi phí thấp, mở rộng đầu tư vốn, đảm bảo an toàn và
hiệu quả, nâng cao vị thế Ngân hàng trên thương trường.
2.2.1. Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn (Tài khoản tiền gửi thanh toán).
Đây là loại tài khoản dùng để hạch toán các nguồn tiền gửi vào Ngân hàng để
thực hiện các khoản chi trả về hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi phí phát sinh trong
q trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân trong xã hội.
Tài khoản tiền gửi thuộc loại này được thể hiện dưới hai hình thức: Tài khoản
tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi tư nhân.
Tính chất tài khoản này chủ yếu dùng để tổ chức thực hiện thanh tốn qua Ngân
hàng thơng qua lĩnh vực thanh tốn khơng dùng tiền mặt tại Ngân hàng trong phạm vi
số dư có, thể hiện trên tài khoản.
Khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng, giao cho Ngân
hàng bảo quản và tiến hành về mặt kỹ thuật nghiệp vụ chi trả theo lệnh của khách
hàng.
Số dư trên tài khoản này cũng được Ngân hàng trả lãi. Ngân hàng được phép sử
dụng số dư để làm nguồn vốn đầu tư ngắn hạn. Đây là một trong những nguồn vốn giá
rẻ góp phần làm giảm chi phí đầu vào trong hạch tốn kinh doanh Ngân hàng.
Trong công tác kinh doanh, các Ngân hàng thương mại luôn tim mọi biện pháp
khơi tăng nguồn vốn này, bằng cách cải tiến thủ tục mở tài khoản tiền gửi tư nhân, sử
dụng cơng nghệ tổ chức thanh tốn nhanh gọn chính xác an tồn.
2.2.2. Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn:
Đây là những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng được gửi vào Ngân
hàng trong một thời gian được xác định trước khách hàng mở tài khoản tiền gửi này
chủ yếu là các tổ chức kinh tế có khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến gửi
vào một thời hạn nhất định để hưởng lãi cao hơn.
Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng có sự thoả thuận của Ngân hàng và
khách hàng về thời gian gửi. Khách hàng cam kết không rút tiền trước hạn. Nếu khách
hàng rút tiền trước hạn sẽ không được hưởng lãi hoặc lãi suất thấp hơn rất nhiều so với
lãi suất đã gửi.
Khách hàng không được sử dụng số dư trên tài khoản này để thanh tốn với bất
kỳ một hình thức nào.
Ngân hàng thương mại sử dụng số dư trên tài khoản này để làm nguồn vốn đầu
tư ngắn, trung và dài hạn tuỳ theo thời hạn của từng tài khoản tiền gửi dài hay ngắn.
2.2.3. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm:
Là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân, được gửi vào tài khoản tại Ngân hàng
phục vụ cho việc tích luỹ tiền tệ hoặc đầu tư tiết kiệm. Đã từ lâu tài khoản tiền tệ là
công cụ huy động vốn chủ yếu của Ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập
bằng tiền của cá nhân chưa sử dụng, được tích luỹ gửi vào tài khoản tại Ngân hàng để
phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân và được hưởng lãi.
Ngân hàng thường khuyến khích khách hàng gửi tiền tiết kiệm đều đặn và rút
vào một thời điểm nhất định hay một mục đích xác định.
Tài khoản tiền gửi tiết kiệm gồm hai loại:
- Tài khoản tiền gửi khơng kỳ hạn.
- Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn.
a. Tài khoản tiền gửi tiền tệ không kỳ hạn:
Đây là loại tài khoản tiết kiệm của khách hàng mà số tiền tích luỹ từ thu nhập
bằng tiền của cá nhân không xác định số tiền gửi và ngày đến hạn. Thực chất đây là
loại tài khoản tiền gửi tiết kiệm thơng thường. Cá nhân có thể gửi và rút bất kể lúc nào,
số tiền bao nhiêu cần cần định trước.
Tuy nhiên, số dư tài khoản tiền gửi này thường khơng lớn nhưng có ưu điểm
hơn tài khoản giao dịch thanh tốn là số dư ít biến động. Đây cũng là nguồn vốn huy
động giá rẻ, góp phần làm giảm chi phí đầu vào của Ngân hàng thương mại. Ngân
hàng sử dụng nguồn vốn này đầu tư ngắn hạn làm tăng lợi nhuận cho Ngân hàng.
b. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
ở Việt Nam chúng ta, hiện nay tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn đang được
sử dụng rộng rãi trong công tác huy động vốn của Ngân hàng và chủ yếu huy động
trong tầng lớp dân cư.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền của các cá nhân tích luỹ được đem
gửi vào tài khoản với thời hạn đã định trước nhằm mục đích tích luỹ và hưởng lãi suất
cao hơn.
Thời hạn áp dụng với tài khoản tiền gửi tiết kiệm thường từ 3 tháng đến 1 năm
với lãi suất quy định theo từng thời hạn cụ thể. Về nguyên tắc, khách hàng đã gửi tiền
vào tài khoản này sẽ không được rút ra trước hạn cả gốc và lãi. Tuy nhiên trong thực tế
để tăng sức cạnh tranh trong thu hút tiền gửi của một số Ngân hàng vẫn cho phpe
khách hàng được rút trước hạn, không được hưởng lãi hoặc lãi suất thấp hơn nhiều so
với lãi suất gửi ban đầu.
Đây là nguồn vốn tiềm tàng của Ngân hàng, cho nên các Ngân hàng thương mại
luôn quan tâm cải tiến các tài khoản với phương thức huy động phong phú, đa dạng với
mức lãi suất hợp lý vừa đảm bảo phục vụ mục đích kinh doanh của Ngân hàng và thoả
mãn nhu cầu tốt nhất cho khách hàng gửi tiền.
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, huy động vốn thông qua tài khoản tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn, giúp cho các nhà kinh doanh Ngân hàng hoạch định được các
chiến lược huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu mục đích sử dụng vốn trong từng giai
đoạn, từng chương trình với mức lãi suất và thời hạn cụ thể, góp phần tích cực trong
lĩnh vực tạo lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
2.2.4. Tài khoản vãng lai:
Là tài khoản nhận tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng, thông qua tài khoản
này Ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán thu hộ, chi hội, dịch vụ rút tiền,
chuyển tiền hộ khách hàng... Các tài khoản vãng lai luôn duy trì một số dư, trừ khi việc
rút tiền có sự thoả thuận trước về giới hạn số tiền mà khác hàng được rút ra từ tài
khoản thấu chi mặc dù khoản thấu chi này có thể được khách hàng dùng tới hay không.
Các chi phí cùa Ngân hàng có thể được tính khi tài khoản hoạt động, dựa trên cơ sở số
lượng giao dịch thông qua tài khoản.
Nhưng thực tế hầu hết các Ngân hàng đưa ra loại tài khoản vãng lai trên số dư
có. Những người có tài khoản vãng lai được sử dụng hầu hết các dịch vụ của Ngân
hàng.
2.2.5. Tài khoản kỳ phiếu, trái phiếu:
ở Việt Nam, hình thức phát hành các chứng chỉ tiền gửi đó chính là phát hành
kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích. Được hạch tốn thơng qua tài khoản tiền gửi có kỳ
hạn của khách hàng . Tài khoản kỳ phiếu chứng chỉ tiền gửi được mở ra trong các đợt
huy động vốn mang tính chất định kỳ, khi nào có nhu cầu vốn đột xuất, hay khi có
chương trình sử dụng vốn vào một mục đích nào đó. Lãi suất trên tài khoản huy động
vốn này thường cao hơn lãi suất các nguồn vốn huy động khác và khơng được duy trì
thường xun.
Tuy mới được sử dụng trong ít năm gần đây, song hình thức huy động vốn này
ngày càng phát huy vai trò trong việc tạo vốn của các Ngân hàng.
Tài khoản tiền gửi trái phiếu: Đây là tài khoản dùng để hạch toán số tiền vay nợ
dài hạn trên thị trường vốn do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn.
Trái phiếu được phát hành với mức lãi suất và thời hạn cố định. Mức lãi suất
này được xác định theo mức lãi suất trên thị trường vốn tại các thời điểm phát hành.
Huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi trái phiếu đã giúp các Ngân hàng
thương mại chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư trung, dài
hạn. Nguồn vốn này mang tính ổn định cao về thời gian sử dụng và lãi suất đầu tư.
III. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn.
1. Chính sách lãi suất cạnh tranh:
Lãi suất là yếu tố hàng đầu mà người gửi tiền quan tâm đến vì vậy muốn thu hút
được vốn huy động, các Ngân hàng phải đưa ra các mức lãi suất kích thích trả
chongười gửi tiền thoả đáng, nếu khơng nói là tốt hơn các Ngân hàng khác. Đặc biệt
trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ dù cho những khác biệt tương đối nhro về lãi suất
cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một cơng cụ mà họ
đang có sang tiết kiệm hoặc đầu tư hay từ một tổ chức tín dụng này sang một Cơng ty
hoặc một tổ chức tín dụng khác.
Tuy vậy cạnh tranh bằng lãi suất là cạnh tranh có giới hạn. Một Ngân hàng nếu
khơng bị khống chế bởi lãi suất huy động “trần” và lãi suất cho vay “sàn” của NHTW,
thì cũng bị khống chế bởi chính lợi nhuận và sự tồn tại của Ngân hàng.
2. Các dịch vụ do Ngân hàng cung ứng:
Để phát huy được hết khả năng của các khoản tiền gửi, Ngân hàng đưa ra một
phạm vi dịch vụ cho vay rộng lớn cùng với sự phát triển không ngừng mạng lưới cung
cấp các dịch vụ và nới rộng các chức năng khác của mình để đáp ứng các nhu càu dịch
vụ phụ trợ của khách hàng chẳng hạn dịch vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu của khách
hàng, ký phát thư bảo lãnh, chuyển đổi tiền tệ từ loại này sang loại khác, bố trí thời
gian tiếp khác phù hợp.... Hoạt động Ngân hàng là kinh doanh kiếm lời và cạnh tranh
ngày càng tăng giữa các Ngân hàng với nhau. Bởi cạnh tranh tăng lên, nên hoạt động
Ngân hàng vấp phải khó khăn ngày càng nhiều trong việc tìm kiếm lợi nhuận. Ngun
nhân đó khiến các Ngân hàng khơng ngừng tìm tịi những hình thức dịch vụ mới nhằm
mở rộng kinh doanh. Một Ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi
thế hơn các Ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh
tranh về dịch vụ Ngân hàng là cạnh tranh khơng có giới hạn. Trong nền kinh tế hiện
đại, các Ngân hàng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng con đường này.
3. Chính cách khách hàng:
Trong cơng tác khách hàng, Ngân hàng thường chia khách hàng ra làm nhiều
loại để có cách thức đối xử phù hợp. Với những khách hàng lâu năm giao dịch thường
xuyên, có số dư tiền gửi lớn, được Ngân hàng tín nhiệm, thì Ngân hàng sẽ có một
chính sách ưu đãi về lãi suất, kỳ hạn củamón vay, cũng như thực hiện việc xét thưởng
đối tác, có như vậy Ngân hàng mới có khả năng thu hút khách hàng và tăng nhanh khả
năng hoạt động vốn của mình.
4. Cơng nghệ Ngân hàng.
Trong cạnh tranh, các Ngân hàng không ngừng đổi mới công nghệ, bởi lẽ, các
dịch vụ, đặc biệt các dịch vụ về chuyên môn Ngân hàng sẽ được đa dạng, chất lượng
ngày càng tôt shơn, đảm bảo các loại dịch vụ được cung ứng nhanh chóng, an tồn và
hiệu quả. Tất nhiên với công nghệ Ngân hàng tiên tiến sẽ giúp Ngân hàng phục vụ
được khách hàng một cách tốt hơn, chỗ đứng của Ngân hàng đó trên thị trường sẽ vững
vàng hơn thì sẽ có nhiều khách hàng biến đến Ngân hàng đó (cơng nghệ cao có khả
năng giúp cho Ngân hàng đó có khả năng thanh tốn nhanh, thủ tục ít rườm rà). Điều
này cũng làm cho khả năng huy động vốn của Ngân hàng cũng dễ dàng hưon.
5. Chính sách cán bộ:
Một đội ngũ cán bộ có trình độ chun mơn cao, có tinh thần trách nhiệm, được
bố trí cơng việc phù hợp với năng lực, đồn kết thân thiện, luôn luôn là nền tảng của sự
thành cơng. Nói chung, người ta đều mong muốn giao dịch kinh doanh với một hãng
bề thế với các nhân viên dễ mến lịch sủ và có kiến thức.
6. Chính sách tiếp thị:
Là sản phẩm của cạnh tranh và hệ quả của sự nghiên cứu tìm tịi các dịch vụ
mới - các Ngân hàng trơ rnên quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực tiếp thị (Marketing).
Tiếp thị không đơn giản chỉ là vấn đề bán ra một sản phẩm nào đó, mà đây là cả một
quá trình phát hiện, tìm kiếm khách hàng để tạo ra những sản phẩm thích hợp cho họ,
thuyết phục họ “mua” chúng thay vào việc “mua” những sản phẩm có chức năng tương
tự do người khác cung cấp. Một trong những biện pháp thuyết phục các Ngân hàng
hiện đang làm đó là quảng cáo. Trong hoạt động Ngân hàng hiện đại, quảng cáo được
chú ý và có một chi phí nhất định dành cho cơng tác này.
7. Địa điểm:
Đây cũng là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng đến khả năng huy động
vốn của một Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng nằm ở trung tâm thương mại của
thành phố,có vị trí địa lý tốt và an ntồn cho khách hàng của mình sẽ có khả năng thu
hút được nhiều khách hàng hơn.
8. Uy tín hoặc mức độ thâm niên của một Ngân hàng.
IV. Vai trị của cơng tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại đối với sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước:
Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp cho nền kinh tế, trong khi nguồn vốn
của Ngân hàng thương mại chủ yếu là nguồn huy động vốn. Vì vậy có thể nói cơng tác
huy động vốn có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Khơng
những thế, cơng tác huy động vốn tác động việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng cấp
tín dụng của Ngân hàng cho nền kinh tế.
Theo giác độ không gian, một Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn từ
trong nước và nước ngoài. ý kiến hiện nay của các nhà kinh tế là : “Đối với Việt Nam,
nguồn vốn nước ngoài là rất quan trọng, nguồn vốn trong nước đóng vai trị chủ yếu.
Thật vậy, trong giai đoạn bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
khôn gthể không cần những cú “hích” từ bên ngồi. Bằng cách liên doanh liên kết mở
văn phịng đại diện ở nước ngồi, phát hành trái phiếu ra nước ngồi... Các Ngân hàng
có thể thu hút vốn từ các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng quốc tế... góp phần đẩy
mạnh đầu tư nước ngồi tại Việt Nam. Tuy nhiên cũng cần phải quán triệt rằng nguồn
vốn trong nước là chủ yếu cần được khai thác kịp thời. Nguồn trong nước vừa là tiền
đề vừa là điều kiện để có thể chấp nhận nguồn vốn từ nước ngoài.
Mục tiêu của giai đoạn 1991 - 2000 đối với nước ta là phải tăng trưởng kinh tế
nó địi hỏi nhiều yếu tố nhân lực, tài lực, tài nguyên... trong đó nhân lực và tài lực có ý
nghĩa quyết định. Theo kinh nghiệm của các nước, 2 yếu tố quyết định tăng trưởng
kinh tế là vốn và con người trong đó riêng yếu tố vốn góp vào sự phát triển là từ 30 50%.
Để đạt được GDP năm 2000 so với năm 1990 gấp 2 đến 2,5 lần thì nền kinh tế
cần có tốc độ tăng trưởng từ 8 - 10%/năm. Như vậy theo tính tốn của Bộ Tài chính
trong chính sách tài chính quốc gia giai đoạn 1997 - 2000 đất nước cần 40 đến 41 tỷ
USD. Trong đó khoảng 50% là vốn huy động từ trong nước và 50% là huy động từ
trong nước và 50% là huy động từ nước ngoài.
Các Ngân hàng thương mại là kênh đầu tư vốn quan trọng đáp ứng nhu cầu đầu
tư và phát triển của nền kinh tế, để góp phần thực hiện mục tiêu trên, các Ngân hàng
thương mại không ngừng đổi mới cơ chế hoạt động, huy động nguồn theo 2 hướng
trên.
Công tác huy động vốn tạo ra nguồn vốn to lớn chủ yếu cho sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Ngược lại sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước làm kinh tế phát
triển, là dân giầu, nước mạnh, tạo ra nguồn vốn lớn hơn ảnh hưởng tích cực tới việc
huy động vốn.
Chương II
Thực trạng huy động vốn tại
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
I. Vài nét về Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội:
1. Sơ lược lịch sử Ngân hàng Đầu tư và Phát triển:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội goi tắc là Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội có trụ sở tại 4B Lê Thánh Tơng quận Hồn Kiếm Hà Nội, được thành lập từ ngày 27/5/1957 với tên gọi ban đầu là Ngân hàng kiến thiết
Hà Nội, nằm trong hệ thống Ngân hàng kiến thiết Việt Nam, trực thuộc Bộ Tài chính.
Nhiệm vụ của Ngân hàng trong thời kỳ này là nhận vốn từ ngân sách Nhà nước
để tiến hành cấp phát và cho vay trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
Năm 1982, Ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Hà
Nội nằm trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam.
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành 2 Pháp lệnh về Ngân hàng đó
là: Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín
dụng và Cơng ty Tài chính nhằm mục đích hồn thiện hệ thống Ngân hàng cho thích
ứng với cơ chế thị trường.
Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 01/10/1990. Theo đó hệ thống Ngân hàng
bao gồm 2 cấp:
- Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Các Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển, Cơng ty Tài
chính và Hợp tác xã tín dụng.
Theo quy định của Pháp lệnh, ở Việt Nam chỉ được thành lập Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển quốc doanh. Ngày 14/11/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Quyết định số 401 về việc thành lập “Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Có
trụ sở đóng tại 194 - Trần Quang Khải - Hà Nội. Vốn điều lệ 200 tỷ đồng.
Có các Chi nhánh trực thuộc tại tỉnh, thành phần, đặc khu trực thuộc Trung
ương.
Từ đầu năm 1995, toàn bộ vốn cấp phát và một bộ phận cán bộ được bàn giao
sang Cục Đầutư phát triển, trực thuộc Bộ Tài chính.
Như vậy, từ ngày thành lập cho tới 01/01/1995 Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Hà Nội khơng hồn tồn là một Ngân hàng Thương mại mà chỉ là một kiểu Ngân hàng
quốc doanh có nhiệm vụ nhận vốn từ ngân sách Nhà nước và tiến hành cấp phát cho
vay trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Từ sau ngày 01/01/1995 Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Hà Nội được phép huy
động các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn từ các thành phần kinh tế như một
NHTM để tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với mọi tổ chức,
mọi thành phần kinh tế và dân cư. Hiện nay, Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Hà Nội
hoạt động như một Ngân hàng thương mại kinh doanh đa năng tổng hợp, nhưng lĩnh
vực chủ yếu là phục vụ đầu tư phát triển đối với khách hàng truyền thống là các đơn vị
xây lắp.
2. Những thuận lợi và khó khăn của Ngân hàng.
2.1. Những thuận lợi:
Ngân hàng có những thuận lợi cơ bản:
- Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam đã triển khai kịp thời hệ thống cơ chế mới
cùng những thông tin, quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện cho việc chuyển đổi hoạt
động của toàn hệ thống.
- Bước vào hoạt động như một NHTM, Ngân hàng có thể tranh thủ kế thừa, học
hỏi được những kinh nghiệm rút ra từ những thành công, thất bại ở các Ngân hàng
khác.
- Nằm trên địa bàn sơi động là Quận Hồn Kiếm - một quận trung tâm về kinh
tế, thương mại của Thủ đơ - Ngân hàng có điều kiện thuận lợi để phát triển các hoạt
động, các nghiệp vụ kinh doanh, các loại hình dịch vụ một cách đa dạng. Mặt khác,
các nguồn huy động từ tiền gửi khách hàng, tiền gửi của các tổ chức tín dụng và tiết
kiệm từ dân cư là rất phong phú giúp cho Ngân hàng có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của các doanh nghiệp.
- Ngân hàng với chính sách khách hàng đổi mới đã tìm thêm khách hàng mới,
mở rộng quan hệ với các tổ chức tín dụng khác và duy trì được một đội ngũ khách
hàng truyền thống từ nhiều năm nay. Đây cũng là một yếu tố thuận lợi trong công tác
huy động sử dụng nguồn của ngân hàng.
- Ngồi ra Chi nhánh cịn ln nhận được sự chỉ đạo, giúp đỡ có hiệu quả và rất
kịp thời từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Thành uỷ, UBND thành phố,
Ngân hàng Nhà nước Hà nội; sự đồn kết nhất trí từ ban lãnh đạo đến cán bộ cơng
nhân viên, có đội ngũ cán bộ lâu năm, nhiều kinh nghiệm trong cơng tác tín dụng
ĐTPT.
- Qua 4 năm chuyển sang hoạt động kinh doanh nghiệp vụ kinh tế đối ngoại
bước đầu đem lại hiệu quả tốt, góp phần mở rộng khách hàng. Khả năng quản trị điều
hành kinh doanh của ban lãnh đạo đã được nâng lên một bậc. Sự đổi mới cơ sở vật chất
kỹ thuật và công nghệ hiện đại giúp Ngân hàng ĐT & PT Hà Nội đứng vững và tiếp
tục lớn mạnh trong hoạt động kinh doanh của mình. Sự ra đời của Luật Ngân hàng tạo
thuận lợi về môi trường pháp lý cho hoạt động của các ngân hàng thương mại.
2.2. Những khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi Ngân hàng cũng gặp một số khó khăn như sau:
Tuy là một trong những Ngân hàng ra đời sớm (cách đây đã 41 năm) nhưng tời
đầu năm 1995 Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội mới thực sự chuyển
hẳn sang kinh doanh theo cơ chế thị trường. Trong quá trình chuyển đổi này, Ngân
hàng đã vấp phải những khó khăn nhất định. Cụ thể:
- Từ 01/01/1995 Ngân hàng phải tiến hành chuyển toàn bộ nguồn vốn do ngân
sách cấp trả về Tổng cục đầu tư phát triển trực thuộc Bộ tài chính. Nguồn vốn anỳ,
theo số liệu của Bảng cân đối nguồn và sử dụng nguồn cuối năm 1994 tại Chi nhánh là
khoản 900 tỷ. Điều này đã gây một sự hẫng hụt ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng.
- Mơ hình tổ chức phục vụ cho cơ chế kinh doanh chưa phù hợp. Việc sắp xếp
các phòng ban và cán bộ chưa hợp lý.
- Đội ngũ cán bộ của Ngân hàng mặc dù có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực
XDCB nhưng khi chuyển sang cơ chế kinh doanh như một NHTM đã tỏ ra lúng túng,
chưa nhanh nhạy và chưa thực sự hồ mình vào phong cách quản lý kinh doanh mới.
Điều này gây ra bởi cơ chế gị bó trước kia.
Ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trong một mơi trường có
tính cạnh tranh rất lớn với gần 80 Ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong nước cũng
như nước ngồi, lãi suất thay đổi liên tục theo chiều hướng hạ. Các hoạt động dịch vụ
Ngân hàng của Chi nhánh chưa phát triển mạnh, chưa đa dạng và nhiệm vụ cho vay
ĐTPT theo KHNN không chỉ do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đảm nhiệm mà còn
do Tổng cục ĐTPT thực hiện, tạo ra sự cạnh tranh mới. Mặt khác, ngh của Chi nhánh
chưa phát triển mạnh, chưa đa dạng và nhiệm vụ cho vay ĐTPT theo KHNN không chỉ
do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đảm nhiệm mà còn do Tổng cục ĐTPT thực hiện,
tạo ra sự cạnh tranh mới. Mặt khác, Ngân hàng cũng có sự thua thiệt khi bước vào cơ
chế mới chậm hơn so với các đối thủ khác trong cùng địa bạn đã có nhiều kinh nghiệm
trong kinh doanh và chiến lược thu hút khách hàng đầy hiệu quả còn đội ngũ cán bộ
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chưa nhanh nhậy trong hoạt động của cơ chế thị
trường.
- Ngồi những khó khăn riêng do đặc thù của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Hà Nội, do cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu á tác động không nhỏ tới hoạt động kinh
doanh của các Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp. Vốn đầu tư nước ngồi giảm,
đồng tiền nội địa có sự mất giá, nhu cầu về vốn đầu tư cho sự nghiệp cơng nghiệp hố
là rất lớn nhưng việc khai táhc nguồn vốn cho vay trung, dài hạn đang còn là vấn đề