Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN TRIẾT học PHÉP BIỆN CHỨNG về mối LIÊN hệ PHỔ BIẾN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mối LIÊN hệ GIỮA nền KINH tế độc lập tự CHỦ với CHỦ ĐỘNG hội NHẬP KINH tế QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.87 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
.........o0o.........

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA
NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI CHỦ ĐỘNG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
Sinh viên thực hiện

: Trần Ngọc Anh

Mã sinh viên

: 2112530008

Số thứ tự

:8

Lớp tín chỉ

: TRIE114CLC.5

Giảng viên hướng dẫn

: TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, 2021



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
.........o0o.........

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA
NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI CHỦ ĐỘNG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
Sinh viên thực hiện

: Trần Ngọc Anh

Mã sinh viên

: 2112530008

Số thứ tự

:8

Lớp tín chỉ

: TRIE114CLC.5

Giảng viên hướng dẫn

: TS. Đào Thị Trang


Hà Nội, 2021


MỤC LỤC:
Mục lục............................................................................................................................................................ 3
Lời mở đầu.................................................................................................................................................... 4
Nội dung......................................................................................................................................................... 5
1. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến................................................................................ 5
1.1. Phép biện chứng......................................................................................................................... 5
1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.................................................................................. 6
2. Mối liên hệ giữa nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế..............9
2.1. Tổng quan về nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế...........9
2.1.1. Nền kinh tế độc lập tự chủ......................................................................................... 9
2.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế............................................................................................. 11
2.2. Mối liên hệ biện chứng........................................................................................................... 12
3. Sự vận dụng nguyên lý của Đảng trong phát triển kinh tế.............................................. 16
3.1. Thực trạng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.................................16
3.1.1. Thành tựu............................................................................................................................ 16
3.1.2. Hạn chế................................................................................................................................ 17
3.2. Những định hướng – giải pháp của chính phủ........................................................... 18
Kết luận........................................................................................................................................................... 20
Tài liệu tham khảo..................................................................................................................................... 21


LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu, khách quan của thời đại, không thể đảo
ngược. Một quốc gia muốn phát triển phải liên kết với các quốc gia khác.
Trong một thế giới hiện đại, sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi các quốc gia
phải mở rộng thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc tế. Đây chính là
động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự hội nhập kinh tế

ngày càng diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết, lôi cuốn nhiều nước tham gia. Việt
Nam cũng đã và đang rất tích cực, chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhằm
nâng cao vị thế cũng như sức mạnh của nền kinh tế quốc nội.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế đối với các quốc gia khơng chỉ có cơ hội, thuận
lợi mà cịn có khơng ít khó khăn thách thức, địi hỏi mỗi nước cần có những nhận
thức, tính tốn và có những đường lối đúng đắn; trong đó, thách thức lớn nhất là
phải đảm bảo được một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Mối quan hệ giữa nền kinh tế
độc lập, tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế, do đó, là một trong những mối quan hệ
đặc biệt quan trọng cần được quán triệt và giải quyết tốt trong công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong tiến trình phát triển, đi lên của nước ta. Để giải
thích mối quan hệ trên, triết học Mác – Lê-nin và phép biện chứng về mối liên hệ
phổ biến sẽ là cơ sở lý luận đúng đắn, tồn diện nhất, đưa ra cái nhìn khách quan,
toàn cảnh về mối quan hệ phức tạp này.
Nhận thức được tính thời sự của vấn đề, em quyết định chọn đề tài tiểu luận mang tên:
Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa
nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Khi nghiên cứu đề
tài này, em mong muốn được tìm hiểu về mối liên hệ giữa nền kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập nền kinh tế quốc tế; từ đó đề xuất những ý kiến, giải pháp xây dựng nền
kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển bền vững, ổn định, lâu dài.

4


PHẦN NỘI DUNG
1.
Phép biện chứng về mối liên hệ
phổ biến 1.1. Phép biện chứng
1.1.1. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng
Biện chứng thường được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, là phạm trù dùng để
chỉ những mối liên hệ qua lại lẫn nhau, sự vận động và phát triển của bản thân

các sự vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập bên ngoài ý thức con người; thứ
hai là phạm trù dùng để chỉ những mối liên hệ và sự vận động, biến đổi của
chính q trình phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Ở nghĩa
thứ hai này biện chứng trở thành quan điểm, phương pháp xem xét những sự vật
và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhai
của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của
chúng, tức là thành phép biện chứng.
Biện chứng đã được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan (phép biện chứng). Biện chứng khách quan là khái niệm dùng để chỉ biện
chứng của bản thân thế giới tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
Biện chứng chủ quan chính là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đầu óc
của con người, là biện chứng của chính q trình nhận thức, là biện chứng của tư
duy phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy,
phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với
phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong
trạng thái cô lập và bất biến. Đây là phương pháp giúp con người khơng chỉ nhìn
thấy sự tồn tại phát triển của sự vật mà còn cho thấy sự sinh thành, phát triển và
tiêu vong của chúng. Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó
tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu
giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
1.1.2. Các giai đoạn phát triển của phép biện chứng
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua
ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của
nó: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy
vật.
5



Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại, thể hiện rõ nét
trong thuyết “âm - dương” của Trung Quốc, va trong nhiều học thuyết của Hi
Lạp cổ đại. Các nhà biện chứng thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ
trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vơ cùng tận. Tuy nhiên,
những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết
quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này
được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, mà đại diện là Hêghen (ông được coi là
tiền đề của phương pháp biện chứng duy vật sau này). Có thể nói, lần đầu tiên
trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày
một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện
chứng. Song theo họ biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh
thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các nhà triết
học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
Ngày nay phép biện chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện
chứng duy vât. Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học do C.Mác
và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong
phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là
học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hồn chinh
nhất. Phép biện chứng duy vật đã chứng minh rằng: những ý niệm trong đầu óc
của chúng ta chẳng qua là sự phản ánh của các sự vật hiện thực khách quan, do
đó bản thân biện chứng của ý niệm chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của sự
vận động biện chứng của thế giới hiện thực khách quan. Như vậy phép biện
chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và sự
phát triển chung nhất của thế giới.
1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
1.2.1. Các khái niệm
Nguyên lý là những khởi điểm (điểm xuất phát đầu tiên) hay những luận điểm

cơ bản nhất có tính chất tổng qt của một học thuyết chi phối tất cả các đối tượng
thuộc lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của nó. Theo nghĩa đó, nguyên lý triết học là
những luận điểm - định đề khái quát nhất được hình thành nhờ sự quan sát, trải
nghiệm của nhiều thế hệ người trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, rồi
đến lượt mình chúng lại làm cơ sở, tiền đề cho những suy lý tiếp theo rút ra những
6


nguyên tắc, quy luật, quy tắc, phương pháp... phục vụ cho các hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người.
Liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng mà sự thay đổi của một trong số chúng
nhất định làm đối tượng kia thay đổi.
Mối liên hệ là thuật ngữ dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định
và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa
các đối tượng với nhau.
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên
hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) . Trong
đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật,
hiện tượng.
1.2.2. Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật có vai trị làm sáng tỏ những quy luật của sự liên hệ
và phát triển của tự nhiên, xã hội lồi người và của tư duy. Vì vậy ở bất kỳ cấp
độ phát triển nào của phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến vẫn được xem là một trong những ngun lí có ý nghĩa khái quát nhất.
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến cho rằng các sự vật hiện tượng và các quá trình
cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và
chuyển hố lẫn nhau.Trong đó liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, là điều
kiện tiền đề tồn tại cho nhau, là sự quy định lẫn nhau, là sự nương tựa lẫn nhau,
sự chuyển hoá lẫn nhau của các mặt, các yếu tố, các thuộc tính cấu thành sự vật,
hiện tượng trong thế giới khách quan.

Cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng chính là tính thống
nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng trên
thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng
chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật
chất. Các mối liên hệ diễn ra trong mỗi sự vật, giữa các sự vật với nhau, trong
tồn bộ vũ trụ, trong mọi khơng gian và thời gian. tác động qua lại được thực
hiện thông qua một hay một số khâu trung gian.
1.2.3. Tính chất của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ phổ biến gồm
ba tính chất cơ bản: tính khách quan, tính đa dạng phong phú và tính phổ biến.
Tính khách quan thể hiện ở chỗ, mối liên hệ phổ biến là cái vốn có, tồn tai độc
lập với con người, con người chỉ nhận thức sự vật thông qua các mối liên hệ vốn
7


có của nó. Có mối liên hệ tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với
nhau.Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh
thần. Có mối liên hệ giữa những hiện tượng tinh thân với nhau (mối liên hệ và
tác động giữa các hình thức của nhận thức)... Các mối liên hệ, tác động đó suy
đến cùng đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng.
Quan điểm biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê-nin còn nhấn mạnh
tính đa dạng phong phú của các mối liên hệ, thể hiện ở chỗ mọi sự vật, hiện
tượng đều có những mối liên hệ cụ thể và chúng có thể chuyển hóa cho nhau ở
những điều kiện khác nhau thì mối quan hệ có tính chất và vai trị khác nhau. Có
mối liên hệ về khơng gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự
vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh
vực rộng lớn của thế giới; có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực,
từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện
tượng, có mối liên hệ gián tiếp, có mối liên hệ tất nhiên, có mối liên hệ ngẫu

nhiên… Các mối liên hệ đó giữ những vai trị khác nhau quy định sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng, Quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ địi
hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác
nhau có thể chuyển hố cho nhau.
Tính phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ, bất k ỳ ở đâu, trong tự
nhiên, xã hội và tư duy đều có vơ vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ những
vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa của các sự vật, hiện
tượng. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau khơng những diễn ra ở
mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư duy, mà còn diễn ra giữa các mặt, các
yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
1.2.4. Ý nghĩa của phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát
thành nguyên tắc về quan điểm toàn diện với những yêu cầu đối với chủ thể hoạt
động nhận thức và thực tiễn sau: Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ
thể, “cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và
“quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”, tức là trong chính thể thống nhất của “tổng hịa
những quan hệ mn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”. Thứ hai, chủ thể phải
rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng
trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản
ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan
hệ và tác động qua lại của đối tượng. Thứ ba, cần xem xét đối tượng
8


này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả
các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian
nhất định, tức là cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá
khứ, hiện tại và phán đốn tương lai: Thứ tư, quan điểm tồn diện đối lập với
quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác,
hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất

của đối tượng nên dễ rơi vào thuật ngụy biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản
thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung lắp ghép vô nguyên
tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến còn là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử
cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong không gian thời gian nhất định và
mang dấu ấn của không gian thời gian đó. Do đó chúng ta cần áp dụng quan
điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi vấn đề thực tiễn đặt ra. Trước
hết, khi phân tích sự vật, hiện tượng thì phải đặt nó trong bối cảnh không gian và
thời gian cụ thể của nó, phân tích xem những điều kiện khơng gian ấy có tác
động ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Bên
cạnh đó, khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó cần phải
phân tích nguồn gốc xuất xứ, hồn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Nhờ vậy mới
đánh giá đúng được giá trị và hạn chế của lý luận đó. Việc tìm ra điểm mạnh và
điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này. Cuối cùng, khi
vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi
được vận dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của sự vận
dụng đó trong thực tiễn.
2.
Mối liên hệ giữa nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập
nền kinh tế quốc tế
2.1. Tổng quan về nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
2.1.1. Nền kinh tế độc lập tự chủ
Độc lập, tự chủ là năng lực của quốc gia trong giữ vững chủ quyền và sự tự
quyết về đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia, không bị sự thống trị, lệ thuộc,
chi phối mang tính cưỡng bức, áp đặt từ bên ngồi. Trong đó, độc lập, tự chủ về
kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản để giữ vững độc lập, tự chủ về chính trị và tăng
cường độc lập, tự chủ của quốc gia; khơng thể có độc lập, tự chủ về chính trị trong
khi lệ thuộc về kinh tế. Độc lập, tự chủ của quốc gia đòi hỏi Việt Nam phải có một
nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và
bảo đảm độ an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng

9


lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất, nhập khẩu cân đối; đầu tư trực tiếp của nước
ngoài trong một số ngành kinh tế, nhất là những ngành kinh tế quan trọng,
chiếm một tỷ lệ không thể chi phối được nền kinh tế; hạn chế hoặc không cho
phép đầu tư nước ngồi vào những ngành nhạy cảm... Nói cách khác, một nền
kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hố là nền kinh tế có khả năng
thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương
trước những biến động đó; trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép
duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực nhiệm vụ
quốc phòng - an ninh.
Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ ở nước ta được thể hiện ở độc lập, tự chủ về
đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao;
tập trung phát triển các ngành, lĩnh vực và sản phẩm kinh tế chủ yếu có vai trị
quan trọng hàng đầu, hiệu quả… Cùng với đó, phải bảo đảm an ninh lương thực
quốc gia; an tồn năng lượng, tài chính - tiền tệ, môi trường; đất nước phát triển
nhanh, hiệu quả, bền vững.
Trong kỷ ngun tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, độc lập về kinh tế
của một quốc gia khơng phải là biệt lập, khép kín, tự cung, tự cấp. Tự chủ không
phải là tự quyết định một cách cứng nhắc và tuyệt đối, khơng tính đến các quy
định của các thể chế kinh tế - tài chính quốc tế, khơng thực hiện đúng các cam
kết, luật pháp và thông lệ quốc tế... Tham gia vào sân chơi quốc tế, chúng ta đã
thực hiện mở cửa thị trường nội địa, chủ động thay đổi kết cấu kinh tế, đã hình
thành các khu cơng nghiệp tập trung và hướng tới hình thành một số trung tâm
kinh tế lớn để thu hút một khối lượng lớn vốn đầu tư. Mặt khác, chúng ta thực
hiện tự do hoá nền kinh tế theo các cam kết quốc tế, tức là chuyển giao một số
quyền đáng kể từ nhà nước sang thị trường. Trong điều kiện kết cấu độc lập về
kinh tế thay đổi như vậy, trọng tâm của việc bảo đảm chủ quyền kinh tế là tăng

cường toàn diện năng lực tự chủ kinh tế.
Thành công trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong 35 năm đổi mới
vừa qua chính là nền kinh tế có bước phát triển tốt và ổn định, tăng trưởng kinh tế
được duy trì ở mức hợp lý, xu hướng phát triển năm sau cao hơn năm trước, chất
lượng tăng trưởng được nâng lên. Nền kinh tế từng bước được cơ cấu lại gắn với
đổi mới mơ hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường,
nguồn nhân lực để cung ứng cho phát triển kinh tế - xã hội ngày càng phát triển.
Nền kinh tế Việt Nam đã đứng vững và phát triển trước những thách thức
10


to lớn từ các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và nhất là trong đại dịch Covid19. Chính phủ đã thực hiện tốt vai trò quản lý và kiến tạo. Môi trường đầu tư
kinh doanh được cải thiện, minh bạch, bình đẳng hơn, năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế đang được nâng lên. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thành
công là nhân tố trọng yếu để tăng cường nội lực của đất nước
2.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết, giao lưu, hợp tác giữa nền kinh
tế quốc gia vào nền kinh tế quốc gia khác hay tổ chức kinh tế khu vực và toàn
cầu trong đó mối quan hệ giữa các thành viên có sự ràng buộc theo những quy
định chung của khối. Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế lớn và
tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình "mở cửa" nền kinh tế, đưa các doanh nghiệp
trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh quốc tế, sự tham gia vào phân công
lao động quốc tế sẽ tạo điều kiện mở rộng không gian và mơi trường để chiếm
lĩnh những vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đó
cũng là q trình chúng ta tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính khu vực và
thế giới, qua đó mà thiết lập mối quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học
và công nghệ với các nước trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều mức
độ: Từ một vài lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, một vài nước đến nhiều nước.
Vai trò to lớn của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của đất nước

là không thể phủ nhận. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường duy nhất để đưa
một quốc gia không ngừng phát triển nền kinh tế và nâng cao trình độ khoa học
kỹ thuật của nứoc mình. Theo quan điểm biện chứng về mối quan liên hệ phổ
biến của các nhà triết học đã khẳng định ở trên :"Mọi sự vật hiện tượng của thế
giới đều nằm trong mối liên hệ phổ biến khơng có sự vật hiện tượng nào tồn tại
một cách biệt lập mà chúng tác động lẫn nhau, rằng buộc quy định và chuyển hoá
lẫn nhau". Cần phải khẳng định rằng trước xu thế tồn cầu hố khơng một quốc
gia nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Sự xã hội hoá mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất, sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ
hiện đại đã làm nảy sinh yêu cầu hợp tác đa dạng nhiều chiều, ổn định và bền
vững trên phạm vi toàn cầu. Mỗi nước trở thành một bộ phận hữu của thế giới,
nền kinh tế của mỗi dân tộc được đặt trong sự phụ thuộc vào mối quan hệ qua lại
với nền kinh tế khu vực và thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có cơ hội
tích luỹ được những tiền đề, những điều kiện cho một trình độ phát triển mới.
Trên cơ sở các hiệp định đã kí kết, các chương trình phát triển kinh tế, khoa học
kĩ thuật, văn hóa, xã hội... được phối hợp thực hiện giữa các nước thành viên;
11


từng quốc gia thành viên có cơ hội và điều kiện thuận lợi để khai thác toi ưu lợi
thế quốc gia trong phân công lao động quốc tế, từng bước chuyển dịch cơ cấu
sản xuất và cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả hơn; tạo điều kiện và
tăng cường phát triển các quan hệ thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài, mở
rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu. Cùng với đó, tạo nên sự ổn định tương
đối để cùng phát triển và sự phản ứng linh hoạt trong việc phát triển các quan hệ
kinh tế quốc tế giữa các quốc gia thành viên, thúc đẩy việc tạo dựng cơ sở lâu dài
cho việc thiết lập và phát triển các quan hệ song phương, khu vực, và đa phương.
Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế cịn tạo cơ hội hình thành cơ cấu kinh tế
quốc tế mới với những ưu thế về quy mô, nguồn lực phát triển, tạo việc làm, cải
thiện thu nhập cho dân cư và gia tăng phúc lợi xã hội, tạo động lực cạnh tranh,

kích thích ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ
chế quản lý kinh tế; học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nước tiên tiến, cũng như
tạo điều kiện cho mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự thế
giới mới, giúp tăng uy tín và vị thế; tăng khả năng duy trì an ninh, hồ bình, ổn
định và phát triển ở phạm vi khu vực và thế giới. Đặc biệt, trong tiến trình hội
nhập, hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia về kinh tế sẽ ngày càng được hoàn
thiện phù hợp với luật pháp, thơng lệ quốc tế; từ đó tăng tính chủ động, tích cực
trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Mối liên hệ giữa kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế là sự cụ thể
hóa việc nắm vững và xử lý một trong những nội dung quan trọng là kinh tế trong
mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế”. Đây là hai phạm trù
khác nhau, nhưng có mối quan hệ biện chứng; trong đó, xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước đều thống nhất với nhau
ở mục tiêu cuối cùng là vì lợi ích của quốc gia - dân tộc. Mục tiêu của hội nhập
kinh tế quốc tế là nhằm phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân
và để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế; đồng thời, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là cơ sở, điều
kiện bảo đảm cho nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước hết, cần xác định đây là mối quan hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng
sâu đậm trong quá trình chúng ta đổi mới, phát triển đất nước và mở cửa, hội nhập
với thế giới. Nền kinh tế độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó thể hiện ở một số điểm cơ bản như sau:

12


Một là, nền kinh tế độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trị quyết định trong mối
quan hệ với hội nhập kinh tế quốc tế. Có kinh tế độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự

chủ trong việc tự quyết định lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối
tác, lĩnh vực… hội nhập kinh tế quốc tế. Qua gần 35 năm đổi mới cho thấy, đường
lối kinh tế độc lập, tự chủ của Đảng đã định hướng đúng cho tiến trình hội nhập từ
việc lựa chọn lĩnh vực ưu tiên, xác định lộ trình hội nhập phù hợp...
Chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước hội nhập toàn diện vào
khu vực và quốc tế.
Hai là, có kinh tế độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong lựa chọn, đề
xuất các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu, hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác
động tích cực trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế. Có kinh tế độc lập, tự chủ
thì mới độc lập, tự chủ trong phân tích, xử lý thơng tin để có những giải pháp
thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự thay đổi mau lẹ của tình hình thế giới và
khu vực, mới chủ động, tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, nền kinh tế độc lập, tự chủ sẽ là cơ sở, điều kiện để nước ta chủ động
phát huy được lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
nhằm từng bước phát triển. Chẳng hạn, chúng ta có lợi thế về các sản phẩm nông
nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, may mặc, giày da… Chúng ta chỉ có thể xuất
khẩu được những mặt hàng có lợi thế so sánh này khi hội nhập đầy đủ và sâu
rộng vào kinh tế quốc tế. Nhưng nếu khơng có nền kinh tế độc lập, tự chủ thì lợi
thế so sánh trong hội nhập sẽ bị các nước lớn mạnh lái theo ý họ. Có kinh tế độc
lập, tự chủ thì mới cân đối được, làm chủ được quan hệ giữa xuất khẩu và nhập
khẩu, tránh nhập siêu quá giới hạn cho phép của nền kinh tế. Có độc lập, tự chủ
chúng ta mới thúc đẩy cho kinh tế du lịch phát triển, lôi cuốn, kêu gọi được
khách quốc tế đến tham quan, du lịch, làm ăn tại nước ta. Đây cũng là một nhân
tố quan trọng thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển.

Đến lượt mình, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường khả năng xây
dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc. Có thể nhận
rõ điều đó như sau:
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra cho chúng ta những cơ hội thuận lợi
để huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Để phát

triển kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập, tự chủ, chúng ta phải phát huy cao độ nội
lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, cũng
cần nhận thấy phải coi trọng huy động các nguồn lực bên ngồi. Muốn phát huy
được các nguồn lực bên ngồi thì phải thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế.
13


Chính hội nhập kinh tế quốc tế cho chúng ta những điều kiện để tận dụng được
lợi thế của các nguồn lực bên ngoài như nguồn lực vốn, nguồn lực kỹ thuật,
nguồn lực quản lý. Chúng ta đều rõ, toàn cầu hóa tạo ra cơ hội mở rộng thị
trường, hàng rào thuế quan ngày càng thu hẹp, làm cho các luồng chuyển giao
vốn vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc, tạo ra nhiều hình thức đầu tư, hợp
tác sản xuất. Tất cả những thuận lợi này cũng như các nguồn lực bên ngồi chỉ
được phát huy có hiệu quả thông qua nội lực. Do vậy, phải chủ động, tích cực
trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế giúp chúng ta thực hiện
thành cơng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Chính q trình tồn cầu hóa đang làm thay đổi phân cơng lao động trên từng
khu vực và trên toàn thế giới. Chúng ta có thể tận dụng sự tái phân cơng lao
động này để phát huy mặt mạnh và lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế. Trên cơ
sở đó, rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sẽ cho chúng ta
những cơ hội để rút ngắn quá trình này. Bởi lẽ, hội nhập kinh tế trong điều kiện
tồn cầu hóa sẽ có cơ hội tiếp nhận và ứng dụng nhanh chóng những thành tựu
khoa học - công nghệ tiên tiến để rút ngắn q trình phát triển.
Ba là, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập
đầy đủ, sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh tế
khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB),
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)... Trên cơ sở đó,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và giữ vững độc lập, tự chủ. Để phát triển

kinh tế, chúng ta không thể không hội nhập kinh tế quốc tế để hội nhập đầy đủ
hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh tế khu vực. Đại hội
XII của Đảng đã chỉ rõ: "Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp
của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối
đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp,
năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong
các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình
vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống,
không thể rơi vào thế bị động, đối đầu bất lợi".
Bốn là , chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện, cơ hội
cho chúng ta xuất khẩu lao động. Khi xuất khẩu được lao động, chúng ta sẽ có cơ
hội để nguồn lao động được tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ tiên
14


tiến của những nước khác; tiếp thu được phong cách làm việc; phương thức tổ
chức sản xuất của các nước. Điều này góp phần trực tiếp vào việc đào tạo nguồn
nhân lực cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện đột phá về nhân
lực chất lượng cao. Hơn nữa, xuất khẩu lao động cịn tạo thêm cơng việc cho số
lao động có tay nghề. Điều này góp phần giải quyết việc làm, giảm thiểu thất
nghiệp, trên cơ sở đó giảm thiểu tệ nạn xã hội. Đồng thời, xuất khẩu lao động
cịn góp phần tăng thu nhập trực tiếp cho người lao động, tăng thu ngân sách cho
quốc gia.
Song, quan hệ giữa nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
khơng chỉ có thống nhất, hỗ trợ, gắn bó với nhau, mà cịn có mặt mâu thuẫn, thậm
chí xung đột nếu khơng được nhận thức và giải quyết đúng đắn. Trong thời đại tồn
cầu hóa, nhưng vẫn cịn có nhận thức lo ngại, do dự hội nhập kinh tế quốc tế vì sợ
mất nền kinh tế độc lập, tự chủ, bỏ lỡ cơ hội, cản trở, kìm hãm sự phát triển của đất
nước; có những quốc gia vẫn khép kín, tách biệt với thế giới để bảo vệ nền kinh tế

độc lập, tự chủ của mình. Nếu loại bỏ những nhận thức, quan điểm cực đoan, thì
một cách khách quan, những lo ngại về mất nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước
khơng phải là khơng có cơ sở bởi hội nhập kinh tế quốc tế thật sự tạo ra những
thách thức không nhỏ đối với việc bảo vệ nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước.
Khi hội nhập kinh tế quốc tế, đất nước phải chấp nhận và tuân thủ những “luật
chơi” chung; khi tham gia, trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế, ký kết các
hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương với các nước, các khu vực
trên thế giới, đất nước phải điều chỉnh luật pháp, chính sách của mình phù hợp với
các cam kết đã ký. Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ tạo cơ hội mở rộng thị
trường cho doanh nghiệp và sản phẩm của đất nước, mà cũng phải mở cửa thị
trường của đất nước cho doanh nghiệp và sản phẩm của nước ngoài; các doanh
nghiệp, các sản phẩm của đất nước đứng trước thách thức cạnh tranh rất lớn với các
doanh nghiệp và sản phẩm của nước ngồi, khơng chỉ ở thị trường nước ngồi mà
ngay cả ở thị trường trong nước. Những biến động, bất ổn trên thị trường thế giới,
của kinh tế thế giới sẽ trực tiếp, nhanh chóng tác động, gây ra những bất lợi cho
kinh tế đất nước. Những nguy cơ như: bất ổn của kinh tế đất nước do những tác
động từ bên ngồi; đất nước trở thành “bãi thải” cơng nghệ của các nước phát triển,
bị ô nhiễm môi trường, phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngồi, từ đó khiến một
quốc gia dễ bị sa lầy vào các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hay khu vực...,tăng
khoảng cách giàu nghèo, tụt hậu giữa các quốc gia hay tầng lớp dân cư trong xã
hội... đều rất lớn. Những nguy cơ này sẽ trở thành hiện thực khi đất nước không có
một chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn, hiệu quả phù hợp với
15


điều kiện của mình. Đây là điều đã và đang xảy ra trên thế giới, ở nhiều nước với
các mức độ khác nhau. Qua những bài học kinh nghiệm sâu sắc mà một số nước
châu Á rút ra sau khi bị rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nặng nề năm
1997-1998, là sự phụ thuộc của nền kinh tế về vốn, cơng nghệ, thị trường nước
ngồi và sự đầu cơ trục lợi của những nhà kinh doanh tiền tệ qua thị trường

chứng khoán và các luồng vốn ngắn hạn.
3.
Sự vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến một cách sáng tạo của
Đảng và Nhà nước ta trong việc kết hợp quá trình xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1. Thực trạng tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
3.1.1. Thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế
Trong 30 năm cải cách (từ thời kỳ đổi mới), từ Đại hội 6 đến Đại hội 12, Đảng
Cộng sản Việt Nam (VCP) đã đưa ra chính sách đúng đắn trong việc mở rộng hợp
tác kinh tế quốc tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Sự kiện lớn nhất là sự gia nhập của Việt Nam vào Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) vào tháng 1 năm 2007, đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam
vào nền kinh tế thế giới. Tháng 5 năm 2008, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện đã được ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ tháng 10/2015, Việt Nam là
một trong những thành viên tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP). Việt Nam đã thực hiện cải cách kinh tế theo cách minh bạch hơn và
chính sách kinh tế theo hướng tự do hơn, góp phần quan trọng vào sự phát triển của
nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội nhận được nhiều kinh
nghiệm trong quản lý sản xuất hiện đại thông qua các dự án liên doanh với các đối
tác nước ngồi. Nhiều cơng nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử
dụng để đưa ra những phát triển mới trong ngành sản xuất
Theo xu hướng thiết lập các khu vực thương mại tự do trên thế giới, Việt Nam
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng thương
mại và xuất khẩu tới hơn 230 thị trường của các quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết
90 hiệp định thương mại song phương và gần 60 hiệp định về xúc tiến và bảo vệ
đầu tư, 54 hiệp định về đánh thuế hai lần, 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) với
56 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới, trong đó có 6 FTA đang tích cực tham gia
bên ngồi khn khổ ASEAN hoặc với các nước đối tác ASEAN và nhiều hiệp định
hợp tác văn hóa với nước ngồi và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam cũng tích cực tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn

diện khu vực (RCEP) để đạt được thỏa thuận kinh tế toàn diện phù hợp với điều
16


kiện của Việt Nam và các nước ASEAN. Việt Nam chính thức gia nhập Cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC) và hồn thành thành cơng Chủ tịch ln phiên
ASEAN vào năm 2010. Năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015.
Quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung đã
góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội, mở ra không gian phát triển
mới cho nền kinh tế Việt Nam về mối quan hệ sâu sắc với các nước trong khu
vực và thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trong đấu trường quốc tế. Đồng
thời, hội nhập và quan hệ kinh tế quốc tế tạo nhiều cơ hội cho Việt Nam thực
hiện chiến lược tái cơ cấu thị trường xuất khẩu một cách cân bằng hơn, thúc đẩy
cải cách và tái cấu trúc nền kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp và tạo nền tảng vững chắc cho nền kinh tế. Cụ thể, số lượng thị trường
xuất khẩu đã tăng hơn 1,4 lần trong 10 năm, từ 160 thị trường lên hơn 230 thị
trường. Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu đã chuyển sang giảm dần sự phụ thuộc
vào thị trường Trung Quốc và các nước châu Á khác.
Kể từ đó, hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động lớn đến tăng trưởng, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực sản xuất và mở rộng
thị trường trong một số lĩnh vực như cơng nghiệp, thương mại và dịch vụ. Tạo
hiệu ứng tích cực, thúc đẩy cải cách và hoàn thiện cơ chế của nền kinh tế thị
trường và cải thiện môi trường kinh doanh, từ đó góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong dài hạn, tạo ra mơi trường kinh doanh
ngày càng bình đẳng, minh bạch và có thể dự đốn được và ngày càng phù hợp
với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia
chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất khu vực, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo
hướng tích cực, tập trung hơn vào chế biến và sản xuất các sản phẩm có giá trị và
hàm lượng công nghệ cao và giá trị gia tăng cao hơn.

3.1.2. Hạn chế bộc lộ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn còn một số hạn chế, tồn
tại, đó là:
Trong xây dựng chủ trương, đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung
và dài hạn để phát triển kinh tế, nhận thức về tính độc lập, tự chủ chưa nhất quán,
chưa thực sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện
tồn cầu hóa. Vẫn khá phổ biến trong nhận thức của cán bộ, công chức rằng, độc
lập, tự chủ về kinh tế là phải phát triển toàn diện các ngành, lĩnh vực kinh tế.

17


Sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam
mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả nhiều nước
trong khu vực. hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm bộc lộ những yếu kém
cơ bản của nền kinh tế, nhất là cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa
được cải thiện về căn bản…
Nhìn chung, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu “trường kỳ”, đặc biệt từ Trung
Quốc, Việt Nam vẫn chưa chủ động trong xuất khẩu khiến bị “thua” ngay cả ở
những mặt hàng có thế mạnh như gạo, cà phê. Trên thực tế, Việt Nam tăng
trưởng nhanh nhưng đẳng cấp chưa cải thiện. Năng suất, năng lực cạnh tranh
chưa có sự cải thiện rõ rệt, nguồn nhân lực vừa thừa (lao động chưa qua đào tạo,
thiếu kỹ năng) vừa thiếu (lao động chất lượng cao), chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển. Thực tế này là một trở lực đối với mục tiêu độc lập, tự chủ về kinh tế.
Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện các dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô: các
khoản nợ công, nợ của Chính phủ có xu hướng gia tăng, đe dọa trực tiếp an ninh
tài chính quốc gia; tỷ lệ lạm phát cao hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh tế
dịch chuyển chậm; hiệu quả đầu tư thấp; sức cạnh tranh của nền kinh tế không
được cải thiện… Những điểm đó cho thấy, nền kinh tế đã có bước phát triển
nhanh, nhưng nội lực nền kinh tế quốc gia vẫn còn yếu kém và dễ bị tổn thương

trước những biến động bất lợi từ bên ngoài. Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh
không phải luôn đồng nghĩa với nền kinh tế mạnh, nhất là khi Việt Nam đang ở
trong một thế giới hội nhập và cạnh tranh khốc liệt.
3.2. Những định hướng – giải pháp của chính phủ xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ thành tựu và hạn chế trên, một số định hướng, phương hướng và giải
pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế, xét từ góc độ quản lý nhà nước cần tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất , hoàn thiện, bổ sung đường lối chung và đường lối, thể chế kinh tế,
xây dựng và phát triển đất nước theo nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ.
Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế tầm vĩ mô cần xây dựng chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch trung và dài hạn phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường
tiềm lực an ninh – quốc phòng của đất nước một cách thực sự khoa học, khả thi.
Trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung vào tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang
tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu. Tuy nhiên, tái cấu trúc nền kinh tế cần thay đổi:
phải xuất phát từ lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta; phải
tận dụng được lợi thế của “người đi sau” để đi ngay vào ứng dụng công nghệ
18


hiện đại; phải phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và phân cơng lao động quốc tế
ngày càng sâu và rộng… Từ đó, nước ta cần xác định ngành, lĩnh vực kinh tế chủ
đạo trong cơ cấu kinh tế của đất nước. Đó là, tập trung phát triển nơng nghiệp
công nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ và công nghiệp thơng tin, du lịch.
Thứ hai, xây dựng và hồn thiện hệ thống chính sách kinh tế vĩ mơ để phát
triển doanh nghiệp việt nam lớn mạnh, nòng cốt của kinh tế đất nước, giữ vững
các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế, không ngừng tăng cường tiềm lực kinh
tế quốc gia. Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ
mơ và cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh để thu hút đầu tư trong và ngoài
nước tham gia sản xuất hàng hóa và dịch vụ, cung cấp cho thị trường trong nước

và đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường khu vực và thế giới.
Thứ ba, cùng với chính sách khuyến khích, cần xây dựng hệ thống tổ chức,
bộ máy và nhân lực trình độ cao với chức năng mở rộng và tìm kiếm thị trường
mới, đa dạng hóa thị trường, nguồn vốn đầu tư và đối tác, tránh phụ thuộc vào
một thị trường, một đối tác, tạo nền tảng cho phát triển ổn định, bền vững. Chiến
lược thị trường cần gắn kết chặt chẽ với chiến lược sản phẩm và xúc tiến quảng
bá sản phẩm nhằm nâng cao vị thế và uy tín của sản phẩm hàng hóa trong nước.
Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những
biến động của nền kinh tế thế giới, khu vực
Thứ tư, chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương đẩy mạnh quan hệ kinh tế
đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều hình thức, đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.
Hội nhập kinh tế quốc tế cần được thực hiện có lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều
kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn; đáp ứng yêu cầu và lợi ích của đất
nước trong quá trình phát triển; đồng thời, qua đó phát huy vai trị của nước ta trong
q trình hợp tác với các nước, các tổ chức khu vực và thế giới.
Thứ năm, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn
thiện thể chế kinh tế, hành chính, đặc biệt là tăng cường áp dụng khoa học –
công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh
tế, nhất là những ngành có vị thế của Việt Nam. Quy định chặt chẽ và mạnh dạn
trong đổi mới công nghệ. Đi liền với q trình du nhập cơng nghệ, cần tăng
nguồn tài chính đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, nhằm từng bước nghiên cứu
phát triển, tiến tới tự chủ dần về công nghệ.

19


KẾT LUẬN
Việt Nam đang trên con đường trở thành một nước cơng nghiệp hố, hiện đại hố
với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của ta là vừa

phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, đứng vững trước những tác động khó lường
từ bên ngoài, vừa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp thu và học hỏi những
khoa học, công nghệ tân tiến của các nước phát triển, phát huy thế mạnh của đất
nước để đưa nền kinh tế ngày càng đi lên. Có thể khẳng định rằng, nền kinh tế độc
lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế có sự thống nhất, hướng đến cùng một mục
tiêu, làm tiền đề, động lực cho nhau. Có kinh tế độc lập, tự chủ mới tạo nền móng
vững chắc để hội nhập kinh tế quốc tế và ngược lại, hội nhập kinh tế quốc tế góp
phần tăng cường khả năng xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ của
quốc gia, dân tộc. Bài toán đặt ra ở đây là nhận thức được vai trò, hạn chế, thách
thức, cũng như mối liên hệ giữa nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế, biết vận dụng mối liên hệ mà từ đó đưa ra những biện pháp ngắn – trung
và dài hạn đưa nước ta trở thành nước có nền kinh tế phát triển một cách bền vững
lâu dài. Tất cả các bài học kinh nghiệm đã rút ra trong các quá trình phát triển hàng
chục năm trước đây, với những điểm yếu, những sai phạm đã bộc lộ cần phải được
vận dụng và khắc phục triệt để cho quá trình phát triển của tương lai sao cho tránh
được những sai lầm tương tự, hậu quả có thể xảy ra và đảm bảo hiệu quả cao nhất
cho quá trình phát triển kinh tế.
Do thời gian cũng như vốn hiểu biết còn hạn chế, tiểu luận khơng tránh khỏi nhiều
sai sót, em rất mong nhận được sự góp ý đồng thời cũng hy vọng có thêm nhiều đề tài
chuyên sâu về vấn đề này trong thời gian tới. Em xin chân thành cảm ơn.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự
thật
2.
Giáo trình “Triết học Mác – Lênin” (Đối tượng: Khối các ngành ngồi
lý luận chính trị) - GS.TS. Phạm Văn Đức.
3.

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. H. NXB Chính trị quốc gia, 1996, tr. 86.
4.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ IX. H. NXB Chính trị quốc gia, 2001, tr. 89, 92, 166.
5.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 07/NQTW về hội nhập kinh tế quốc tế. H. NXB Chính trị quốc gia, 2002.
6.
PGS. TS. Vũ Văn Hiền (Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương)
"Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào
một giai đoạn phát triển mới" – Tạp chí Tuyên giáo Trung ương.
7.
Đại tá, PGS, TS. PHẠM VĂN SƠN, (Quyền Viện trưởng Viện Khoa học
xã hội nhân văn quân sự) Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu
quả hội nhập kinh tế quốc tế - Tạp chí quốc phịng tồn dân (21/01/2021)
8.
Tổng cục Thống kê. Tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2019.
ngày 22/6/2020.
9. />10.
/>fbclid=IwAR2uGAw4Yq2MiqBDLBEQI0ImlJyYuXEj8kgk9HJSlPeoM M2Qi0zUlmXCGo

21



×