Tải bản đầy đủ (.pdf) (289 trang)

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.53 MB, 289 trang )

Chương II

PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ KHI TH NH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẾN NAY
I. KHÁI QUÁT PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN
TỪ KHI TH NH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẾN NĂM 1986
Từ khi Đảng ra đời, công tác dân vận luôn là nhiệm vụ
chiến lược của Đảng, được tiến hành liên tục, bằng nhiều
hình thức tổ chức, biện pháp khác nhau, nhằm vận động,
tập hợp tối đa lực lượng của dân tộc tiến hành công cuộc
giải phóng.
... Ngay từ khi hình thành, cơng tác dân vận đã được dẫn
đường bằng tư tưởng, lý luận đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh; mọi cán bộ, đảng viên luôn được Bác quan tâm, rèn
giũa không chỉ bằng cẩm nang nghiệp vụ “Dân vận” mà còn
bằng cả đạo đức trong sáng, tinh thần nêu gương mẫu mực
của chính Người. Nghĩ về Bác, để thực hiện cho được tâm
nguyện cuối cùng của Người là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn
88


kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới” thì chỉ có một con đường
duy nhất là phải giữ vững được niềm tin và dựa vào nhân dân.
Nguồn: Trương Thị Mai: “Tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn đối với cơng tác dân vận hiện
nay”, Tạp chí Cộng sản, số 927, tháng 10/2019.



Trong mỗi giai đoạn lịch sử cách mạng, cơng tác dân vận
có phương thức, nội dung khác nhau nhưng đều nhằm mục
tiêu vận động tất cả các tầng lớp nhân dân tích cực tham
gia vào các phong trào cách mạng; tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; bảo vệ Đảng, củng cố và tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Ở thời kỳ này,
Đảng đã đề ra những phương thức lãnh đạo cơng tác dân
vận chủ yếu sau:
1. Đảng lãnh đạo tồn diện công tác dân vận bằng
đường lối, chủ trương, cương lĩnh, các nghị quyết, chỉ
thị đúng đắn, cách mạng, khoa học
1.1. Giai đoạn 1930-1945
Trong Cương lĩnh đầu tiên, xác định: “Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận
dân cày... Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức
trung nông... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp... phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt

89


phản c.m (cách mạng) thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ
trung lập”1. Đại biểu cho giai cấp vô sản Việt Nam, Đảng đã
đứng ra tập hợp các tầng lớp nhân dân yêu nước làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản. Với đường lối đúng đắn đó, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã sớm được nhân dân tin theo, sớm nắm được quyền

lãnh đạo cách mạng. Đường lối cách mạng đúng đắn là ngọn
cờ tập hợp lực lượng; mục tiêu, chính sách đúng, hợp lịng
dân là sức cuốn hút mạnh mẽ với quần chúng nhân dân.
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, dưới ngọn cờ lãnh
đạo của Đảng, quần chúng công nông đã vùng lên phá bỏ
gông cùm nô lệ, lập nên chính quyền cách mạng ở một số nơi
ở Nghệ Tĩnh theo hình thức Xơviết; thực hiện các chính sách
tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy bị thực dân
Pháp đàn áp khốc liệt, nhưng cao trào cách mạng 1930-1931
đã khẳng định trên thực tế đường lối cách mạng Việt Nam do
Đảng đề ra là đúng đắn. Từ cao trào này để lại những bài học
quý giá về các phương thức tập hợp, tổ chức quần chúng
nhân dân, xây dựng liên minh công nông, về xây dựng Mặt
trận dân tộc thống nhất, phát động phong trào quần chúng,
đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
Đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm
1945, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng được nêu rõ
trong Chương trình Việt Minh: “liên hiệp hết thảy các tầng
lớp nhân dân khơng phân biệt tơn giáo, xu hướng chính trị
nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp __________________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.4.

90


Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở”1 đã có sức cuốn hút
mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân tham gia các hội cứu quốc,
đứng trong hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh, tạo nên nguồn
sức mạnh to lớn lật nhào ách thống trị của đế quốc, giành
chính quyền về tay nhân dân trong những ngày Cách mạng

Tháng Tám hào hùng của dân tộc, mở ra thời kỳ độc lập, tự
do và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã
chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng; đồng thời cũng là thắng lợi trong công tác dân vận
của Đảng. Đảng chỉ với khoảng 3.000 đảng viên, nhưng đã
tin vào dân, gắn bó với dân, hiểu dân, dựa vào sức mạnh
của dân; tuyên truyền giác ngộ nhân dân hiểu rõ con
đường giành độc lập, tự do, giành quyền sống; tổ chức tập
hợp nhân dân vào Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội
và các hình thức tổ chức khác một cách linh hoạt; hướng
dẫn quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao và cuối cùng là
nổi dậy, khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân.
1.2. Giai đoạn 1945-1954
Lãnh đạo công tác dân vận bằng đường lối kháng chiến
kiến quốc, thông qua việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị,
sắc lệnh lãnh đạo nhiệm vụ cách mạng.
Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc xác định những vấn đề cơ bản về chủ
__________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7,
tr.148.

91


trương, đường lối và phương pháp cách mạng trong tình hình
mới. Chỉ thị nhấn mạnh: “Cuộc cách mạng Đơng Dương lúc
này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”1 với khẩu

hiệu “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”. Chỉ thị chỉ rõ “Kẻ
thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải tập
trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”2. Đồng thời, Đảng chủ
trương mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường
đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên, Lào chống thực dân
Pháp xâm lược.
Để bảo đảm nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, ngày
4/9/1945, Chính phủ ra Sắc lệnh xây dựng Quỹ Độc lập và
gửi Thư kêu gọi các tầng lớp nhân dân hưởng ứng Tuần lễ
vàng (từ ngày 17 đến ngày 24/9/1945). Mặt trận Việt Minh
và các cấp chính quyền bằng nhiều hình thức tun truyền,
giải thích cho nhân dân hiểu rõ ý nghĩa của việc xây dựng
Quỹ Độc lập, Tuần lễ vàng; cử cán bộ về tận thơn, xóm vận
động nhân dân tích cực tham gia3.
Đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến trong giai đoạn
“chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”, Trung ương
Đảng quyết định tổng động viên toàn dân, toàn quốc theo
nguyên tắc vừa dân chủ thuyết phục, vừa bắt buộc để gấp rút
__________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8,

tr.26.

3. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt

Minh, Chính phủ, nhân dân cả nước phấn khởi góp quỹ cứu nước. Chỉ
hơn hai tuần sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh, nhân
dân đã tự nguyện quyên góp 370 kg vàng, 20.000.000 đồng vào Quỹ Độc
lập và 40.000.000 đồng đảm phụ quốc phòng (số tiền thu về từ đảm phụ
quốc phòng chỉ tính riêng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ).


92


tăng cường lực lượng kháng chiến của dân tộc. Tăng cường
hoạt động quân sự tiêu diệt địch, đồng thời kêu gọi nhân dân
tích cực đi dân cơng vận chuyển vũ khí, lương thực, thuốc
men phục vụ chiến trường. Thực hiện Sắc lệnh tổng động
viên nhân lực, vật lực, tài lực của nhân dân để tiến tới tổng
phản công do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày
12/2/1950, tồn dân nô nức hưởng ứng, phong trào thi đua ái
quốc và công cuộc tổng động viên kết hợp với nhau, phát
triển sôi nổi mạnh mẽ trên tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến,
tất cả cho chiến thắng”.
Tháng 2/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng được tiến hành, quyết nghị đưa Đảng ra hoạt động
công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam. Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam nêu rõ hai nhiệm vụ chính
trong những nhiệm vụ mới của Đảng là: “đẩy kháng chiến
đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt
Nam”1. Các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận trong giai đoạn mới càng được phát huy trong mọi
lĩnh vực.
1.3. Giai đoạn 1954-1975
Đảng lãnh đạo công tác dân vận bằng việc ban hành các
chính sách vận động phù hợp với từng đối tượng cần vận động.
Trong lãnh đạo kháng chiến ở miền Nam và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trên cơ sở bám sát thực tiễn,
Đảng, Nhà nước luôn chú trọng lãnh đạo cơng tác dân vận,
thơng qua việc ban hành các chính sách sát hợp nhiệm vụ

__________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.2.

93


cụ thể với mỗi giai đoạn cách mạng, với từng đối tượng cần
vận động. Đây là một phương thức lãnh đạo cơng tác dân
vận bảo đảm tính cấp thiết, cụ thể, sâu sát và hiệu quả rõ
rệt. Hội nghị lần thứ mười hai Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa III họp từ ngày 21 đến ngày 26/12/1965, xác
định: “chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả
dân tộc”1. Để chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968, Đảng cử cán bộ đến tận cơ sở, nắm các tổ
chức quần chúng, sử dụng các hình thức công khai, hợp
pháp, nửa hợp pháp, đẩy mạnh phong trào của nhân dân.
Thông qua hoạt động của đội ngũ nịng cốt trong các tổ chức
Liên đồn Lao động, Liên hiệp các nghiệp đoàn tự do, Tổng
hội học sinh, Tổng hội sinh viên, phong trào dân tộc tự
quyết, Nghiệp đoàn ký giả, Lực lượng quốc gia tiến bộ,... để
tổ chức quần chúng thành đội quân chính trị hùng hậu,
tham gia vào cuộc tổng tiến công và nổi dậy.
Trong phiên khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Đại hội
này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà”2. Đại hội
khẳng định cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở
miền Nam còn lâu dài, gian khổ, cần phải ra sức vận động
giáo dục công nhân, nông dân, thợ thủ công và người buôn
bán nhỏ, giáo dục trí thức cũ và mới, tăng cường sự nhất trí

về chính trị và tinh thần của nhân dân lao động miền Bắc.
__________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.V.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21,

tr.944.

94


Đảng lãnh đạo, tổ chức, vận động quần chúng nhân dân
thông qua chỉ đạo xây dựng và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất.
Hội nghị Trung ương 8 khóa II (tháng 8/1955), đề ra
đường lối củng cố miền Bắc, thông qua Cương lĩnh Mặt trận
dân tộc thống nhất mới - Mặt trận Tổ quốc, nhằm tập hợp
lực lượng toàn dân chống đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ, tiến tới xây
dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh. Bản Cương lĩnh mới của Mặt trận kết
hợp tính nguyên tắc với tính linh hoạt cao, tranh thủ rộng
rãi bất cứ người nào có thể tranh thủ được, cô lập đế quốc
Mỹ và tay sai.
Nghị quyết Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 7 và 8
khóa II đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ của cơng tác dân
vận trong tình hình mới. Trong đó, nhấn mạnh, bên cạnh các
thành phần giai cấp là lực lượng chủ yếu của cách mạng,
phải chú ý vận động giới trí thức, vận động đồng bào dân tộc
thiểu số nhằm đồn kết rộng rãi, huy động mọi lực lượng,
đóng góp cho cơng cuộc kháng chiến ở miền Nam và xây dựng

chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
ngày 9/5/1962, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về cơng tác
Mặt trận, trong đó nêu rõ: “Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn
đóng một vai trị quan trọng và cơng tác mặt trận vẫn phải
được tăng cường”1, khẳng định vai trò quan trọng của Mặt trận
__________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.23,

tr.509.

95


trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặt trận cũng là một
phương thức để Đảng củng cố hơn nữa sự nhất trí về chính
trị và tinh thần trong nhân dân, do đó, Đảng ln xác định
cần tăng cường cơng tác Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
Từ phong trào đấu tranh của quần chúng đã dẫn đến sự
ra đời của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa
bình Việt Nam vào tháng 4/1968. Bản Tuyên ngôn cứu nước
của Liên minh nêu rõ mục tiêu là đoàn kết mọi lực lượng và
cá nhân yêu nước, kiên quyết chống ngoại xâm, đánh đổ chế
độ ngụy quyền, thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc giành
độc lập, dân chủ và hịa bình.
Giữ vai trị là Đảng cầm quyền, Đảng Lao động Việt Nam
ln ln đồn kết thân ái, hợp tác lâu dài với Đảng Dân chủ
Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam để cùng nhau tiến lên
chủ nghĩa xã hội và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ

nhân dân trong cả nước.
Các hình thức, biện pháp lãnh đạo công tác vận động
quần chúng nhân dân mà các cấp bộ đảng đã tiến hành là sự
vận dụng tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đồn kết và động viên tồn dân phấn khởi, hăng hái tham
gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vì mục tiêu độc lập, hịa
bình, thống nhất.
Đối với cách mạng miền Nam, Hội nghị lần thứ mười lăm
Ban Chấp hành Trung ương (tháng 1 và tháng 5/1959) xác
định đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam. Hội nghị
xác định: “Lực lượng cách mạng miền Nam gồm công nhân,
nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Hội nghị chủ trương
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công,
96


nông làm cơ sở, đồng thời tranh thủ những người có khuynh
hướng hịa bình, trung lập trong các tầng lớp khác tham gia,
ủng hộ kháng chiến”.
Đảng chủ trương thông qua vai trò, chức năng, nhiệm vụ
và hoạt động của Mặt trận để vận động nhân dân, khai thác
được khả năng của quần chúng, sử dụng lực lượng của quần
chúng, xây dựng khối “Công - nông - binh liên hiệp”, chĩa
mũi nhọn vào kẻ thù chính, trực tiếp là đế quốc Mỹ và chính
quyền Ngơ Đình Diệm. Cách mạng miền Nam cần xây dựng
Mặt trận dân tộc thống nhất phù hợp với đặc điểm, tính chất
và nhiệm vụ ở miền Nam nhằm tập hợp rộng rãi mọi lực
lượng chống xâm lược.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968,
bên cạnh những chiến cơng, những thắng lợi về chính trị,

phong trào cách mạng chịu tổn thất về lực lượng, cơ sở cách
mạng... Trung ương Cục miền Nam sử dụng mọi hình thức,
biện pháp để tuyên truyền, giáo dục quần chúng thấy rõ âm
mưu và ý đồ phản động của địch; đẩy mạnh phong trào đấu
tranh của quần chúng. Phát động phong trào quần chúng
diệt ác phá kìm, bám trụ sản xuất, chống khủng bố gom dân,
phát triển chiến tranh du kích, hình thành xã chiến đấu,
phát động phong trào binh vận rộng lớn; chống bắt lính đơn
qn; khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ dân vận để đáp
ứng được yêu cầu cách mạng mới.
1.4. Giai đoạn 1975-1986
Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá III) ngày 29/9/1975 ra Nghị quyết về nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: “Hoàn thành
97


thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc phải tiếp tục
đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải
đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội”1. Nghị quyết nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước
vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của đồng bào cả nước,
vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt
Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”2 và đặt ra nhiệm vụ
thống nhất đất nước về mặt Nhà nước càng sớm thì càng tạo
ra sức mạnh mới, thuận lợi mới, để phát triển kinh tế, văn
hóa và quốc phịng. Đối với cơng tác dân vận, Nghị quyết đề
ra nhiệm vụ đẩy mạnh phong trào cách mạng trong quần

chúng và các nhiệm vụ cụ thể đối với Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể nhân dân về cơng tác dân tộc, ngoại kiều, tơn giáo,
trí thức.
Đầu năm 1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành
Thơng báo về cơng tác dân vận. Đây là sự lãnh đạo trực tiếp
bằng văn bản đầu tiên của Đảng đối với công tác dân vận, kể
từ sau khi đất nước thống nhất. Thông báo số 01-TB/TW của
Ban Bí thư, ngày 23/01/1976 về “cơng tác dân vận và Mặt
trận” nêu rõ: “các đoàn thể cần nhận rõ vai trị của mình,
nhiệm vụ hàng đầu, cực kỳ quan trọng của các đoàn thể là
tập hợp quần chúng vào nhiều hình thức từ thấp đến cao,
giáo dục, động viên, tổ chức quần chúng, thực hiện những
nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra. Các đồn thể phải là
__________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36,

tr.394, 392.

98


trường học rèn luyện quần chúng và cách rèn luyện tốt nhất
là đưa quần chúng vào hành động cách mạng”1 và đề ra các
nhiệm vụ cụ thể: đẩy mạnh phong trào lao động sản xuất;
vận động tổng tuyển cử; góp ý kiến vào dự thảo báo cáo của
Trung ương trình Đại hội IV, nhất là về công tác dân vận;
chuẩn bị và thống nhất các đoàn thể và Mặt trận.
Thực hiện chủ trương Đại hội IV của Đảng, để tăng cường
lãnh đạo cơng tác dân vận, ngày 8/3/1977, Ban Bí thư Trung
ương Đảng ra Chỉ thị số 05-CT/TW về tăng cường công tác

dân vận và Mặt trận. Chỉ thị nêu rõ mục tiêu chính của cơng
tác dân vận là xây dựng chế độ làm chủ tập thể và phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Phát huy vai
trị của các đồn thể trên các mặt cơng tác chính: tăng cường
giáo dục chính trị, tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân; đẩy
mạnh phong trào, trước hết là phong trào thi đua lao động
sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội; động viên và
tổ chức quần chúng tham gia xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội;
phát triển và củng cố các đoàn thể cách mạng của quần
chúng nhằm tập hợp mọi người dân vào các hình thức tổ chức
quần chúng thích hợp, kiện tồn cơ quan lãnh đạo các cấp
của các đoàn thể, củng cố và phát triển tổ chức cơ sở.
Củng cố tổ chức bộ máy làm công tác dân vận, ngày
29/3/1976, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 249-NQ/TW
về thành lập Ban Dân vận và Mặt trận Trung ương quy định
chức năng, nhiệm vụ chung của Ban Dân vận và Mặt trận
__________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37,

tr.45.

99


Trung ương là cơ quan chuyên môn, tham mưu giúp Trung
ương Đảng lãnh đạo công tác dân vận và Mặt trận trên cả
nước; ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập
Ban Dân vận và Mặt trận tỉnh, thành ủy để giúp cấp ủy lãnh
đạo công tác dân vận và mặt trận tại địa phương.

Quét mã để xem video

Triển khai Nghị quyết Đại hội V của Đảng, ngày
28/11/1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số
53-CT/TW về tăng cường công tác quần chúng của Đảng. Chỉ
thị chỉ rõ 6 nhiệm vụ mà các tổ chức đảng, cấp ủy đảng cần tăng
cường lãnh đạo, đó là: (1) Làm cho tồn Đảng, tồn hệ thống
chính trị qn triệt sâu sắc quan điểm quần chúng và công tác
quần chúng của Đảng trong giai đoạn mới. Coi nhẹ công tác
quần chúng là trái với đường lối, quan điểm của Đảng, làm yếu
sức mạnh của Đảng và Nhà nước. (2) Phát huy quyền làm chủ
tập thể, sử dụng sức mạnh tổng hợp, đẩy mạnh phong trào cách
mạng của quần chúng trên mọi lĩnh vực; thực sự tôn trọng
quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thực hiện khẩu hiệu: Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trong tất cả các mặt có
quan hệ trực tiếp đến nhân dân; tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa
tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể trong việc tổ chức và
động viên phong trào. (3) Cải tiến và nâng cao trình độ chỉ đạo
công tác quần chúng của các tổ chức đảng và cấp ủy đảng; phải
thường xuyên nắm chắc tình hình quần chúng, ra các quyết định
về công tác quần chúng, kiểm tra các cấp, các ngành, các đoàn
thể phối hợp làm cơng tác quần chúng. Các cấp ủy đảng đều
phải có ủy viên thường vụ trực tiếp phụ trách công tác dân vận.
(4) Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức chính quyền đối với
100


công tác quần chúng. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân và dựa vào các đoàn thể trong việc tham gia xây dựng và
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. (5) Phát huy

vai trị và chức năng của các đồn thể. Tích cực củng cố tổ chức
cơ sở của các đoàn thể và mở rộng các hình thức tập hợp rộng
rãi các tầng lớp quần chúng. Khắc phục lối làm việc hành chính,
quan liêu, hình thức chủ nghĩa. (6) Tăng cường cơng tác cán bộ
làm công tác vận động quần chúng.
Những quan điểm chỉ đạo công tác dân vận, công tác quần
chúng của Đảng trong các văn bản trên là căn cứ quan trọng để
các cấp bộ đảng từ Trung ương đến các địa phương quán triệt,
vận dụng và đổi mới các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận, là những định hướng căn bản cho đội ngũ cán
bộ làm công tác dân vận của Đảng trên cả nước.
2. Đa dạng các hình thức tuyên truyền, vận động
quần chúng nhân dân nhằm đạt hiệu quả tối đa trong
vận động nhân dân
2.1. Giai đoạn 1930-1945
Để chuẩn bị những điều kiện cho việc thành lập Đảng,
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đề ra những luận điểm mới về
phương pháp vận động quần chúng, gieo niềm tin cách mạng
trong quần chúng nhân dân, tuyên truyền, giảng giải lý luận
chủ nghĩa để mọi người hiểu, cùng chung chí hướng, đồng
lịng thực hiện, để “làm cách mạng cho đến nơi”. Đối với cán
bộ, muốn làm cách mạng thành cơng thì phải vận động nhân
dân, làm cho dân giác ngộ; phải giảng giải lý luận và chủ
nghĩa cho dân hiểu; phải bày sách lược, cách thức cho dân
đấu tranh. Khai thác tối đa các kênh thông tin, phương tiện
101


báo chí của Đảng, báo chí cách mạng, tiến bộ; tuyên truyền,
vận động miệng... để tuyên truyền đường lối, chủ trương của

Đảng và tập hợp, tổ chức quần chúng.
Sử dụng sách báo để tuyên truyền, vận động, chuẩn bị
mọi điều kiện thành lập Đảng. Tác phẩm Đường Kách mệnh
là mẫu mực về phương thức tuyên truyền, tổ chức quần
chúng nhân dân rất hiệu quả, Người chỉ ra phương pháp,
cách thức xây dựng các tổ chức quần chúng. Thông qua việc
nêu rõ vai trị và cách thức tổ chức Cơng hội, Dân cày và Hợp
tác xã, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: muốn tập hợp
lực lượng của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất định và không
thể không tổ chức, phát huy vai trò của các tổ chức quần
chúng đó... Trong cơng tác tổ chức các hội quần chúng, Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ dẫn cụ thể, tỉ mỉ về cách tổ chức
các đoàn thể làm sao cho “thống nhất, bí mật, nghiêm ngặt”
để “người chỉ huy dễ và hành động cũng nhất trí” tránh được
sự khủng bố và chống phá của kẻ địch. “Tuyên truyền tốt
trong nông dân và tổ chức tốt trong công nhân nếu chúng ta
làm tốt được điều đó thì tương lai thuộc về chúng ta”1.
Nông dân, công nhân là lực lượng đông đảo của cách mạng
Việt Nam, việc đi sâu vào vận động, tổ chức và đưa họ ra
tranh đấu là nhiệm vụ của những người cộng sản, là điều
kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng thành công.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập tờ báo Thanh niên2, cơ
quan tuyên truyền của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
__________________
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.1, tr.221.
2. Tờ báo tồn tại từ năm 1925 đến năm 1930, đã góp phần quan trọng
thúc đẩy sự truyền bá rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận cách
mạng, cung cấp những tài liệu quý giá cho quá trình vận động quần chúng.


102


nhằm mục đích giáo dục, tập hợp và thống nhất tư tưởng,
hành động của các chiến sĩ cách mạng, trang bị những kiến
thức chính trị cho đội ngũ cán bộ đi sâu vào quần chúng và
vận động quần chúng. Trong thời kỳ vận động dân chủ, báo
chí cơng khai do Đảng chỉ đạo ngày càng ảnh hưởng sâu rộng
trong quần chúng.
Tiêu biểu có thể thấy, tại các nhà tù đế quốc, trong xà
lim, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh vẫn tập trung trí tuệ, tổng
kết thực tiễn, viết bản cơng tác vận động công nhân để
truyền lại cho các đảng viên. Trong nhiều chi bộ nhà tù đã tổ
chức thành công các lớp huấn luyện, bồi dưỡng lý luận Mác Lênin, đường lối cách mạng, kinh nghiệm vận động cách
mạng cho đảng viên; đồng thời tổ chức nhiều lớp học bổ túc
các kiến thức về văn hóa, ngoại ngữ... Nhiều tài liệu huấn
luyện được bí mật biên soạn ngay trong nhà tù như: Chủ
nghĩa duy vật lịch sử, Gia đình và Tổ quốc, Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, Những vấn đề cơ bản của cách mạng Đông
Dương... Nhiều tờ báo được bí mật xuất bản trong tù để phục
vụ học tập và đấu tranh tư tưởng như: Hỏa Lị có báo Đuốc
đưa đường, Con đường chính; Cơn Đảo có báo Người tù đỏ và
tạp chí Ý kiến chung...
Bằng những lý lẽ sắc bén, sự nhiệt huyết và tinh thần
cách mạng của những người cộng sản, nhiều đảng viên Quốc
dân Đảng bị phân hóa, một số chuyển hẳn sang lập trường vơ
sản, đứng về hàng ngũ của Đảng Cộng sản. Nhà tù đế quốc
với những người cộng sản đã trở thành trường học cách
mạng, một trận tuyến đấu tranh, nơi rèn luyện thử thách
cán bộ của Đảng.

103


Trong giai đoạn 1941-1945, Đảng và Mặt trận Việt
Minh xuất bản các tờ báo, sách1 để tuyên truyền, vận động
và tổ chức quần chúng; giáo dục truyền thống yêu nước,
truyền thống đoàn kết toàn dân, động viên tinh thần chiến
đấu, hy sinh của nhân dân vào cuộc vận động khởi nghĩa vũ
trang. Báo chí và các tác phẩm đó được các tổ chức đảng và
các đoàn thể cứu quốc sử dụng làm tài liệu tuyên truyền,
vận động quần chúng tích cực tham gia đấu tranh ở các địa
phương, cơ sở.
2.2. Giai đoạn 1945-1954
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên của độc lập,
tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Bước vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, Quân đội nhân dân đã trở
thành lực lượng đông đảo, có quy mơ quốc gia. Kế thừa,
phát triển truyền thống dân vận của Đội Việt Nam Tuyên
truyền giải phóng quân, tất cả các đơn vị của Quân đội
nhân dân Việt Nam đều vừa thực hiện nhiệm vụ chiến đấu
vừa thực hiện cơng tác dân vận.
Với phương châm tồn qn làm dân vận, bằng những
hình thức tuyên truyền, vận động, bằng những hành động cụ
__________________
1. Tại Cao Bằng, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập và trực tiếp
phụ trách báo Việt Nam độc lập, gọi tắt là Việt lập làm cơ quan tuyên
truyền của Mặt trận Việt Minh trong tỉnh. Việt lập còn phát hành cuốn
“Ngũ tự kinh” để phổ biến chương trình Việt Minh bằng văn vần. Bên

cạnh đó, Người còn biên soạn nhiều tác phẩm như Lịch sử nước ta, Địa
lý Việt Nam...

104


thể của cán bộ, chiến sĩ, đi đến đâu, bộ đội cũng vận động
nhân dân thực hiện lời hiệu triệu toàn dân kháng chiến, toàn
diện kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh; tuyên truyền,
cổ động đường lối trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh
của Đảng trong nhân dân. Ở Nam Bộ, các đội Võ trang tuyên
truyền (VT3) được thành lập, luồn sâu vào vùng địch, vừa
chiến đấu, vừa tuyên truyền (tuyên truyền là chủ yếu), bằng
nhiều cách thức khác nhau, giữ vững thế trận lòng dân, là
một phương thức đặc sắc, hiệu quả trong công tác dân vận
của Đảng ở Nam Bộ.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các chiến sĩ
Quân đội nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ phát động chiến tranh du kích toàn dân, đi sâu vào vùng
sau lưng địch, kết hợp tác chiến với vận động quần chúng,
với binh - địch vận, thể hiện hành động và phẩm chất tốt đẹp
của chiến sĩ đội quân nhân dân, vừa chiến đấu vừa công tác.
Ở Tây Bắc, bộ đội đã chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội,
thực hiện tốt các chính sách đối với đồng bào các dân tộc
thiểu số ở những vùng cịn ít biết đến cách mạng, cùng dân,
giúp dân bằng những hành động cụ thể, đã gây dựng được
tình cảm quân dân sâu đậm. Điều đó đã có ảnh hưởng chính
trị rất sâu rộng, biến những vùng mới giải phóng thành căn
cứ địa của cách mạng, của kháng chiến.
Ngày 5/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc

dân đồng bào đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội lần đầu tiên trong
lịch sử, mỗi công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do, dân
chủ của người dân một nước độc lập. Bằng sự tuyên truyền,
vận động trách nhiệm, hiệu quả của Đảng và Mặt trận Việt
Minh cùng các đoàn thể, ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử phổ
105


thông đầu phiếu lần đầu tiên trong lịch sử đã diễn ra thành
cơng, dù phải tiến hành trong hồn cảnh khó khăn, địch ra
sức phá hoại1. Với sự đồng lịng, ủng hộ của nhân dân, nền
hành chính cách mạng được củng cố, cả nước được chia thành
12 khu. Kết quả trên đã thể hiện niềm tin của nhân dân vào
Đảng và Chính phủ trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng, đồng thời khẳng định cơng tác dân
vận với những phương pháp, cách thức rất hiệu quả, sát hợp
với thực tiễn kháng chiến.
Trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến, với nhiều
hình thức vận động, tuyên truyền, nhân dân không tiếc
công sức, tiền của, xương máu, nỗ lực cao nhất tham gia
vào cuộc kháng chiến. Hàng chục vạn thanh niên nơ nức
ghi tên tịng qn2.
Bên cạnh những thuận lợi, Đảng, Nhà nước còn non trẻ và
cả dân tộc phải đương đầu với mn vàn khó khăn, thách thức.
__________________
1. Từ tiền tuyến đến hậu phương, tồn thể cơng dân nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đi bầu cử, nhiều nơi đạt tỷ lệ 100%. Với uy tín tuyệt đối
của lãnh tụ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra ứng cử ở Hà Nội và được cử
tri tín nhiệm với 98,4% số phiếu bầu. Ở miền Nam, tổng tuyển cử mặc dù
diễn ra dưới bom đạn của thực dân Pháp song vẫn đạt kết quả tốt. Nhân

dân cả nước đã bầu được 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà.
2. Ở Liên khu III, chỉ trong thời gian ngắn có 280.000 thanh niên
ghi tên tịng qn, 700.000 dân cơng tham gia phục vụ chiến dịch và
vận chuyển thóc gạo. Ngồi đội quân chủ lực, nhân dân tham gia vào
lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đến cuối năm 1950,
từ Thanh Hóa trở ra có 45.000 bộ đội địa phương, ở các tỉnh Liên khu IV
và Việt Bắc, mỗi huyện có một đại đội, nhiều tỉnh đã có tiểu đoàn bộ đội
địa phương.

106


Thù trong, giặc ngồi cấu kết hịng tiêu diệt Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Yêu cầu đặt ra đối với công
tác dân vận của Đảng lúc này là tập hợp, tổ chức toàn dân
tham gia kháng chiến, kiến quốc, giữ vững nền độc lập, tự do
và xây dựng chế độ mới.
Thực tiễn địi hỏi cơng tác tuyên truyền vận động của
Đảng đối với các tầng lớp nhân dân phải được tăng cường,
thường xuyên đổi mới cho phù hợp với thực tiễn từng vùng,
từng khu và đối tượng quần chúng.
Sau Đại hội II của Đảng, Mặt trận Liên Việt và các đồn
thể tổ chức nhiều hình thức tuyên truyền sâu rộng về Đảng
Lao động Việt Nam, làm cho hội viên, mọi người dân hiểu
được tôn chỉ, mục đích của Đảng, vai trị, vị trí của Mặt trận;
động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện những nhiệm vụ
mà Trung ương Đảng đề ra.
Lập các hình thức tổ chức, các cơ quan phụ trách công tác
tuyên truyền, vận động quần chúng.

Tại Bắc Bộ, Đảng chủ trương mở cuộc vận động các giới
thật rộng rãi để tiến hành công cuộc kiến thiết đất nước và
bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc vừa giành được.
Phương thức vận động hết sức đa dạng, linh hoạt, dựa trên
nền tảng đường lối kháng chiến của Đảng, nắm chắc nguyên
tắc giữ vững nền độc lập dân tộc. Trước hết là vận động công
nhân, thanh niên, phụ nữ - lực lượng quần chúng nịng cốt
trong phong trào cách mạng. Thơng qua các tổ chức quần
chúng, lập các ban vận động, do cấp ủy đảng trực tiếp lãnh
đạo. Mỗi tỉnh lập một tiểu ban cơng nhân tỉnh và tồn xứ
thành lập một tiểu ban cơng vận tồn Xứ do Xứ ủy lãnh đạo.
Với Thanh niên cứu quốc, từ làng đến tỉnh tới toàn Kỳ,
107


thành lập một ban toàn Kỳ của Thanh niên cứu quốc nhằm
đưa phong trào thanh niên phát triển mạnh mẽ. Đẩy mạnh
vận động các giới với các hình thức tuyên truyền cơng khai
như chào cờ, báo tường, hội họp, mít tinh... Đồng thời mở
rộng thêm các hình thức tổ chức mới, các biện pháp vận động
khác nhau để thu hút các tầng lớp nhân dân tạo thành lực
lượng lớn, ủng hộ chính quyền.
Tại Nam Bộ, phương thức lãnh đạo dân vận rất linh hoạt,
có chú ý những đặc điểm riêng của vùng miền, địa phương và
sát hợp sự chuyển biến tình hình thực tiễn. Ngay từ đầu
kháng chiến, cơng tác dân vận được xác định là nhiệm vụ hết
sức cấp thiết, được đặt ra từ thực tiễn cuộc kháng chiến đầy
khó khăn, phức tạp ở Nam Bộ. Xứ ủy Nam Bộ sớm đề ra chủ
trương và quán triệt tới các cấp bộ đảng, chính quyền, đồn
thể, cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của cơng tác vận

động, đồn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân tham gia
kháng chiến, vận động phong trào đấu tranh của nông dân,
công nhân, vực dậy vai trị của cơng đồn trong nội thành;
phát triển các đội võ trang tuyên truyền trong lực lượng vũ
trang, vận động đồng bào các tơn giáo đồn kết kháng chiến;
vận động gia đình binh lính, trí thức trong hàng ngũ chính
quyền Bảo Đại... đến vận động các giới đồng bào, các dân tộc
đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt,
trong các tổ chức đoàn thể cứu quốc. Công tác tuyên truyền,
vận động đối với mỗi tầng lớp, giai cấp có những yêu cầu
khác nhau, do đó, phải sâu sát để tìm ra tiếng nói chung có
lợi cho cách mạng, có hình thức tổ chức, có khẩu hiệu hành
động phù hợp. Công tác dân vận không chỉ là một nhiệm vụ
của Đảng mà là trách nhiệm của tất cả các đồn thể: cơng
108


nhân, nông dân, phụ nữ, các tổ chức tôn giáo, Đảng Dân
chủ... Xứ ủy và các cấp ủy đảng ở Nam Bộ đã lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ dân vận của Đảng với những cách thức, biện
pháp rất sáng tạo và hiệu quả.
Các tài liệu xuất bản, sách, báo chí cách mạng - một
trong những phương thức truyên truyền, vận động sâu rộng,
đông đảo quần chúng nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng cơng tác dân
vận, chú trọng sử dụng các kênh thơng tin, báo chí cách
mạng để tuyên truyền, chỉ đạo công tác dân vận. Năm 1947,
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc,
chỉ rõ nguyên tắc trong công tác dân vận phải theo đường
lối quần chúng; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơng

tác dân vận là phải có “cách làm việc khoa học”, “phải học
hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng”; tin
vào dân, dựa vào ý kiến của nhân dân mà sửa chữa cán bộ
và tổ chức.
Ngày 15/10/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo
“Dân vận” đăng trên báo Sự thật - cơ quan ngôn luận của
Ðảng. Bài báo hàm chứa quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nước, về tầm
quan trọng của cơng tác dân vận; phân tích và chỉ ra những
nội dung cốt yếu của cơng tác dân vận, đó là: “Dân vận là vận
động tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một
người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành
những cơng việc nên làm, những cơng việc Chính phủ và Đồn
thể đã giao cho”1. Người nhấn mạnh: “Lực lượng của dân rất to.
__________________
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.6, tr.232.

109


Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”1. Bài báo
“Dân vận” đã trở thành kim chỉ nam cho công tác vận động
quần chúng của Ðảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể, để
lại bài học vô cùng quý báu cho cách mạng Việt Nam.
Quét mã để xem video

2.3. Giai đoạn 1954-1975
Ở thời kỳ này, với hai nhiệm vụ chiến lược vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng

miền Nam, thống nhất nước nhà, kế thừa các hình thức
tuyên truyền có hiệu quả như: tun truyền thơng qua báo,
đài, tun dương các điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực
(chiến đấu ở tiền tuyến, sản xuất, học tập, công tác ở hậu
phương...). Bên cạnh đó, sự đổi mới, sáng tạo trong việc tổ
chức phát động các phong trào thi đua có tác dụng khơi gợi
mạnh mẽ lịng u nước, tinh thần tự giác cao của nhân
dân. Tại Hội nghị chính trị đặc biệt (họp ngày 27/3/1964),
một hội nghị “Diên Hồng” trong hồn cảnh mới, Chủ tịch
Hồ Chí Minh kêu gọi: “mỗi người chúng ta phải làm việc
bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”2.
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong
trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”
ra sức thi đua xây dựng và bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng
hộ cách mạng miền Nam.
__________________
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.6, tr.234.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.14, tr.278.

110


Phong trào đã lan tỏa khắp các địa phương ở miền Bắc,
miền Trung; trong các cơ quan, trường học; từ nông thôn đến
thành thị, miền xuôi đến miền ngược. Khẩu hiệu hành động
“Nhà nhà thi đua, người người thi đua, ngành ngành thi đua”
đã huy động mạnh mẽ sức người, sức của phục vụ chiến
trường miền Nam. Trên các công trường, nhà máy, xí nghiệp,
hầm mỏ, hàng chục vạn cơng nhân đã sôi nổi “luyện tay
nghề, thi thợ giỏi”, ra sức phát huy sáng kiến cải tiến kỹ

thuật. Ở nhiều nơi, nhiều đơn vị sản xuất liên tục hoàn
thành vượt mức kế hoạch nhiều năm liền... Thi đua với công
nhân và nông dân trên mặt trận lao động sản xuất, các
ngành: y tế, giáo dục, thương nghiệp, văn hóa nghệ thuật,
thơng tin tun truyền, cơng tác chính quyền, đồn thể...
cũng nêu cao tinh thần phục vụ. Cùng với các phong trào:
“Sóng Dun Hải” trong sản xuất cơng nghiệp, “Gió Đại
Phong” trong sản xuất nông nghiệp, “Cờ Ba nhất” trong quân
đội, “Trống Bắc Lý” trong giáo dục, “Thanh niên Ba sẵn
sàng”, “Phụ nữ Ba đảm đang”, phong trào thi đua “Mỗi người
làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” đã thực sự phát
huy hiệu quả; tạo nguồn sức mạnh vật chất và tinh thần to
lớn để toàn dân tộc đứng lên đánh Mỹ và thắng Mỹ, thống
nhất Tổ quốc.
Ngày 13/8/1974, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số
236-NQ/TW nhấn mạnh: “Ở miền Bắc, đẩy mạnh phong trào
thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã
hội, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, củng
cố quốc phòng, làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam ruột thịt.
Đẩy mạnh phong trào “Thi đua quyết thắng” trong các lực
111


lượng vũ trang nhân dân, với khẩu hiệu nâng cao cảnh giác,
sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Hết lòng hết sức
chi viện cho miền Nam đánh thắng quân ngụy được Mỹ viện
trợ và điều khiển”1.
Từ các phong trào thi đua trong thực tiễn kháng chiến ở
miền Nam và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, các hình
thức tổ chức Đại hội tuyên dương anh hùng, chiến sĩ thi đua

đã góp phần tuyên truyền, vận động, nêu cao tinh thần tự
nguyện, tự giác, cống hiến của cán bộ, đảng viên, quần chúng
nhân dân. Tháng 5/1962, Đại hội liên hoan Anh hùng, Chiến
sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III đã họp. Tham gia Đại hội có
1.060 anh hùng và chiến sĩ thi đua thuộc các ngành, các giới,
các địa phương và đại diện của các đơn vị tiên tiến. Đại hội đã
tuyên dương các đơn vị là lá cờ đầu và 45 anh hùng lao động.
Tháng 7/1963, Trung ương Đoàn tổ chức Đại hội những người
xuất sắc trong phong trào xung phong tình nguyện vượt mức
kế hoạch 5 năm; 600 đại biểu xuất sắc thay mặt cho hơn 1
triệu nam, nữ thanh niên đã đăng ký thi đua phấn đấu.
Để động viên phong trào thi đua, ngày 30/12/1966, Đảng
và Chính phủ đã tổ chức Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua
chống Mỹ, cứu nước. Đại hội đã tuyên dương nhiều đơn vị
anh hùng và 111 anh hùng. Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi
đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam
lần thứ II (tháng 9/1967) được tổ chức tại vùng giải phóng.
Về dự Đại hội có 111 đại biểu của cả ba thứ quân trên các
chiến trường từ Trị Thiên, Liên khu V đến Nam Bộ. Đại hội
__________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr.122-123.

112


×