Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

THÂM hụt NGÂN SÁCH NHÀ nước tác ĐỘNG của THÂM hụt NGÂN SÁCH NHÀ nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.33 KB, 32 trang )

I. THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC & TÁC ĐỘNG CỦA
THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm
Trong hệ thống tài chính thống nhất, NSNN là khâu tài chính tập
trung giữ vị trí chủ đạo. NSNN cũng là khâu tài chính được hình thành
sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ
thống quản lý nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hóa, tiền tệ.
Cho đến nay thuật ngữ NSNN được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh
tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song, quan niệm về NSNN thì lại chưa thống
nhất. Trên thực tế, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về NSNN không
giống nhau tùy theo quan điểm của người định nghĩa thuộc các trường
phái kinh tế khác nhau, tùy theo mục đích nghiên cứu khác nhau.
Ở nước ta, trong Luật NSNN có ghi rằng: Ngân sách nhà nước
(NSNN) là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự tốn đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước.
1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước
Vai trò tất yếu của NSNN ở mọi thời đại và trong mọi mô hình
kinh tế là cơng cụ điều chỉnh vĩ mơ nền kinh tế xã hội, là vai trò quan
trọng của ngân sách trong cơ chế thị trường. Vai trò này, về mặt chi tiết
có thể đề cập đến ở nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng khác
nhau, song trên góc độ tổng hợp, có thể khái quát trên ba khía cạnh sau
đây:


Thứ nhất, NSNN kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều
tiết trong lĩnh vực kinh tế). Trước kia trong cơ chế thị trường kế hoạch
hóa tập trung, NSNN gần như chỉ là một cái túi đựng sổ thu để rồi thực
hiện việc bao cấp vốn cố định, vốn lưu động, cấp bù lôc, bù giá, bù


lương,.. Hiệu quả các khoản thu chi NSNN không được coi trọng và tất
yếu, tác động của ngân sách nhà nước đến các hoạt động kinh tế nhằm
điều chỉnh các hoạt động đó và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế là rất hạn
chế. Sau này nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, trong lĩnh vực
kinh tế, Nhà hước định hướng về việc hình thành cơ cấu kinh tế mới,
kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Điều đó
được thực hiện thơng qua các chính sách thuế và chính sách chi tiêu của
ngân sách chính phủ để vừa kích thích vừa gây sức ép với các doanh
nghiệp, nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, NSNN giúp giải quyết các vấn đề xã hội. Trong thời kỳ
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tính chất bao cấp tràn lan cho mọi lĩnh
vực kinh tế - xã hội đã hạn chế đáng kể vai trò của NSNN trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội. Những chế độ bao cấp về nhà ở, cung cấp lương
thực thực phẩm… với giá thấp đã làm giảm hiệu quả công tác, hiệu quả
tiền vốn, không đảm bảo công bằng xã hội. Chuyển sang cơ chế kinh tế
mới, NSNN có vai trò đặc biệt quan trọng để nhà nước thực hiện các
nhiệm vụ có tính chất chung tồn xã hội, khơng vì mục tiêu lợi nhuận.
Bên cạnh đó hằng năm chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt cho tầng lớp
dân cư có thu nhập thấp. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thơng qua
các loại trợ giúp trực tiếp được dành cho những người có thu nhập thấp
nhất hoặc có hồn cảnh đặc biệt, các loại trợ giúp gián tiếp dưới hình
thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu (lương thực, điện, nước,…), các
khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, các
chương trình quốc gia lớn về chống mù chữ, dịch bệnh… Bên cạnh các
khoản chi ngân sách cho việc thực hiện các vấn đề xã hội, thuế cũng
được sản xuất để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo công


bằng xã hội. Việc kết hợp giữa thuế trực thu và thuế gián thu, vừa tăng
cường các khoản thu cho ngân sách nhà nước, vừa điều tiết thu nhập của

tầng lớp có thu nhập cao, điều tiết tiêu dùng, đảm bảo thu nhập hợp lý
cho các tầng lớp người lao động.
Thứ ba, NSNN góp phần bình ổn giá cả, chống lạm phát. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường, giá cả chủ yếu phụ thuộc vào quan hệ
cung cầu hàng hóa trên thị trường. Do đó để ổn định giá cả, chính phủ có
thể tác động vào cung hoặc cầu hàng hóa trên thị trường. Sự tác động
này khơng chỉ được thực hiện thơng qua thuế mà cịn được thực hiện
thơng qua chính sách chi tiêu của NSNN. Bằng nguồn vốn cấp phát của
chi tiêu ngân sách nhà nước hàng năm, các quỹ dự trữ nhà nước về hàng
hóa và tài chính được hình thành. Trong trường hợp thị trường có nhiều
biến động, giá cả lên cao hoặc xuống quá thấp, nhờ lực lượng dự trữ
hàng hóa và tiền, chính phủ có thể điều hịa quan hệ cung cầu hàng hóa,
vật tư đủ bình ổn giá cả trên thị trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
và ổn định sản xuất. Chính phủ cũng có thể sử dụng NSNN nhằm khống
chế và đẩy lùi lạm phát một cách có hiệu quả thong qua việc thực hiện
chính sách thắt chặt ngân sách, nghĩa là cắt giảm các khoản chi tiêu ngân
sách, chống tình trạng bao cấp, lãng phí trong chi tiêu, đồng thời có thể
tăng thuế tiêu dùng để hạn chế cầu, mặt khác có thể giảm thuế với đầu
tư, kích thích sản xuất phát triển để tăng cung. Ngồi ra việc chính phủ
phát hành các cơng cụ nợ để vay nhân dân nhằm bù đắp thiếu hụt của
NSNN cũng góp phần to lớn vào việc giảm tốc độ lạm phát trong nền
kinh tế quốc dân.
Ngồi ra, NSNN cịn có vai trị lịch sử, đó là cung cấp nguồn lực
tài chính để duy trì sự hoạt động và vận hành của bộ máy nhà nước.
2. THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. Khái niệm


Thâm hụt NSNN là tình trạng khi tổng chi tiêu của NSNN vượt
q các khoản thu khơng mang tính hồn trả trong cân đối của NSNN.

Để phản ánh mức độ thâm hụt NSNN, người ta thường sử dụng
chỉ tiêu tỷ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng thu trong NSNN.
2.2. Nguyên nhân
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt NSNN đã trở thành
một hiện tượng khá phổ biến trong các nước đang phát triển và những
nước kinh tế chậm phát triển. Tuy nhiên ở mỗi nước, những ngun
nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng này có khác nhau. Người ta đã tổng
hợp lại và cho thấy có hai nhóm ngun nhân chính dẫn đến thâm hụt
NSNN. Trước hết đó là những ngun nhân mang tính khách quan do
diễn biến của chu kỳ kinh doanh, do tác động của môi trường, điều kiện
tự nhiên. Thứ hai là những ngun nhân mang tính chủ quan, thuộc về
q trình quản lý và điều hành NSNN.
a) Nguyên nhân khách quan: là những tác động của chu kỳ kinh
tế và môi trường. Khủng hoảng kinh tế làm cho thu nhập của Nhà nước
co lại. Tuy nhiên những khó khăn về kinh tế - xã hội lại yêu cầu nhà
nước phải chi ra một phần ngân sách để giải quyết những khó khăn đó.
Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. Ngồi ra, tình hình bất ổn
của an ninh thế giới và diễn biến phức tạp của thiên tai sẽ làm gia tăng
nhu cầu chi cho quốc phòng và an ninh trật tự xã hội, gia tăng nhu cầu
chi NSNN để khắc phục hậu quả của thiên tai.
b) Nguyên nhân chủ quan: thuộc về quá trình quản lý và điều
hành NSNN. Nhà nước chủ động sử dụng bội chi như một cơng cụ của
chính sách tài khóa để kích cầu, khắc phục tình trạng suy thối của nền
kinh tế. Khi sản lượng của nền kinh tế ở mức thấp dưới mức sản lượng
tiềm năng, chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận có thâm
hụt ngân sách để tăng tổng cầu, qua đó thúc đẩy sự mở rộng của nền


kinh tế. Sử dụng gói kích cầu một mặt kích thích tiêu dùng, tăng trưởng
kinh tế, tuy nhiên sẽ làm cho mức thâm hụt ngân sách tăng rất cao

khoảng 8-12% GDP. Ngồi ra trong q trình quản lý ngân sách xảy ra
một số bất cập cũng gây thâm hụt NSNN như: thất thu thuế nhà nước,
đầu tư công kém hiệu quả, quy mơ chi tiêu của chính phủ q lớn.
* Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho NSNN. Tuy
nhiên do hệ thống phấp luật nước ta còn nhiều bất cấp, sự quản lý chưa
chặt chẽ đã tạo kẽ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây
thất thu một lượng đáng kể cho NSNN. Bên cạnh đó việc dãn thuế, giảm
thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh nghiệp có thêm nguồn vốn
đầu tư, duy trì mở rộng sản xuất, mặt khác làm ảnh hưởng tới các khoản
thu chi NS khác gây thâm hụt NSNN.
* Tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn
chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm
quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả, đã gây lãng phí nguồn NSNN và
kìm hãm sự phát triển của các vùng miền gây nên thâm hụt NSNN.
* Chi tiêu của chính phủ giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời
trong ngắn hạn. Nhưng khi chi tiêu của chính phủ vượt quá một ngưỡng
nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế do gây ra phân bổ nguồn lực
một cách không hiệu quả dẫn đến thâm hụt NSNN.

2.3. Phân loại thâm hụt NSNN
Tài chính cơng hiện đại phân thâm hụt NSNN thành hai loại là
thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
a) Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi
những chính sách tùy biến của chính phủ như thuế suất, trợ cấp bảo hiểm
xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,…


b) Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng
của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và
thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng

dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho
trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt ngân sách có tác dụng quan
trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi
thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến
thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp
điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế.

3. TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
3.1.Tác động tới lãi suất
Mối quan hệ giữa thâm hụt NSNN và lãi suất được nghiên cứu
rộng rãi trên cả phương diện lí thuyết và thực nghiệm. Về mối quan hệ
này có nhiều quan điểm khác nhau từ các trường phái kinh tế khác nhau.
Trường phái tân cổ điển cho rằng tăng thâm hụt hiện tại sẽ kéo
theo sự gia tăng về gánh nặng thuế trong tương lai. Theo đó, người tiêu
dùng sẽ có xu hướng tăng tiêu dùng tại thời điểm hiện tại. Do đó, trong
trường hợp này, tiết kiệm quốc gia sẽ giảm xuống. Khi tiết kiệm quốc
gia giảm, lãi suất trên thị trường sẽ tăng và lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu
tư, qua đó tạo ra hiện tượng thối lui đầu tư. Vì thế, trường phái này cho
rằng tăng thâm hụt ngân sách sẽ ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế.
Trong khi đó trường phái Keynes lại cho rằng tăng thâm hụt ngân sách
sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế. Trường phái này lập luận rằng
tuy thâm hụt ngân sách làm tăng lãi suất nhưng vẫn có thể tăng tiết kiệm
và đầu tư. Khi chính phủ tăng chi ngân sách từ thâm hụt sẽ kích thích
tổng cầu, các nhà đầu tư thấy triển vọng sẽ đầu tư nhiều hơn làm tăng
đầu tư. Trường hợp chính phủ chấp nhận thâm hụt thông qua việc giảm


thuế sẽ làm cho thu nhập của các cá nhân và hộ gia đình tăng lên. Khi đó
tiêu dùng tăng và làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.

Nhưng trường phái này cũng cho rằng, thâm hụt ngân sách chỉ có tác
động trong ngắn hạn, đặc biệt trong trường hợp nền kinh tế trong tình
trạng suy thối có sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng. Cịn
trong khi nề kinh tế đang ở trạng thái tồn dụng nhân công (không dư
thừa về các yếu tố sản xuất) thì việc tăng thâm hụt ngân sách khơng
những khơng kích thích tổng cầu tăng mà cịn gây ra những rủi ro lớn
đối với nề kinh tế, trước mắt là tăng lạm phát.
Quan điểm của trường phái Ricardo cho rằng, thâm hụt ngân
sách không tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô cả trong ngắn hạn và
dài hạn. Theo trường phái này ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách và
thuế đối với tiêu dùng là tương đương nhau. Việc tăng thâm hụt ngân
sách do giảm thuế ở thời điểm hiện tại sẽ phải trả giá bằng việc tăng thuế
trong tương lai, bao gồm cả trả lãi cho khoản vay. Do vậy thâm hụt ngân
sách dẫn đến vay nợ trong hiện tại sẽ đồng nghĩa với việc tăng thuế
trong tương lai. Với hàm ý này người tiêu dùng trong thời điểm hiện tại
sẽ tiết kiệm một khoản cần thiết để trả cho tương lai. Nói cách khác,
người tiêu dùng thường dự đoán tương lai, quyết định tiêu dùng của họ
khơng chỉ dựa vào thu nhập hiện tại mà cịn dựa vào thu nhập kỳ vọng
trong tương lai. Theo trường phái Ricardo, thâm hụt ngân sách sẽ khơn g
có tác động đến tiết kiệm và đầu tư. Theo họ khi thâm hụt ngân sách
tăng do giảm thuế thì thu nhập khả dụng tăng, hơn nữa người dân ý thức
được cắt giảm thuế trong hiện tại sẽ dẫn đến tăng thuế trong tương lai,
do đó họ tiết kiệm nhiều hơn. Trong khi đó thâm hụt ngân sach lại làm
cho tiết kiệm nhà nước giảm. Do đó tiết kiệm quốc gia là tổng tiết kiệm
tư nhân và tiết kiệm nhà nước. Do đó thâm hụt NSNN sẽ khơng tác động
đến tiết kiệm, đầu tư, tăng trưởng.
Hai trường phái trên cho rằng thâm hụt NSNN và lãi suất có tác
động cùng chiều. Thâm hụt ngân sách tăng làm tăng lãi suất do tăng cầu
tiền. Thâm hụt tăng cũng đồng nghĩa với nhu cầu huy động vốn của
chính phủ tăng. Nếu như một phần của số vốn cần huy động để bù đắp

cho thâm hụt được thực hiện thông qua thị trường nợ trong nước thì cầu
về vốn trong nước sẽ tăng, qua đó sẽ làm gia tăng sức ép đối với mặt


bằng lãi suất trong nước. Trong trường hợp này, ngân hàng trung ương
có thể bắt buộc phải giảm sức ép gia tăng về lãi suất thơng qua chính
sách tiền tệ mở rộng. Trường hợp ngân hàng trung ương không can thiệp
thì áp lực đối với lãi suất là khơng thể tránh khỏi.
Trên thực tế, khi thâm hụt NSNN, tổng chi cao hơn tổng thu. Để
bù đắp lượng tiền thâm hụt, chính phủ sẽ phát hành trái phiếu bán cho
người dân và các NHTM hoặc đi vay nợ.
Thứ nhất, khi chính phủ phát hành trái phiếu bán ra cho người
dân. Người dân mua TPCP sẽ làm giảm lượng tiền gửi vào ngân hàng.
Lượng tiền trong ngân hàng giảm làm lãi suất tăng. Khi chính phủ phát
hành trái phiếu bán cho các NHTM. Các NHTM mua TPCP làm giảm
lượng tiền dự trữ nên NHTM sẽ huy động tiền gửi vào ngân hàng từ các
doanh nghiệp và công chúng làm lãi suất tăng.
Thứ hai, chính phủ có thể đi vay trong nước hoặc nước ngồi để
tài trợ thâm hụt. Khi chính phủ đi vay nước ngồi, vay ngoại tệ (ví dụ
USD). Khi vay được tiền chính phủ phải quy đổi USD ra VNĐ để tài trợ
thâm hụt. Khi đó, chính phủ phải bán USD để thu VNĐ về làm cho
cung VNĐ trên thị trường tiền tệ giảm, do đó làm tăng lãi suất. Tương tự
việc đi vay trong nước làm cầu về vốn vay tăng nên cũng làm tăng lãi
suất.
Nhưng khi chính phủ dùng biện pháp in tiền để giải quyết thâm
hụt. Khi đó sẽ làm tăng lượng tiền cơ sở và tăng cung tiền lại làm lãi
suất giảm.
Như vậy thâm hụt ngân sách có thể có tác động cùng chiều hoặc
ngược chiều với lãi suất. Thâm hụt có thể làm lãi suất tăng hoặc giảm
tùy vào từng trường hợp cụ thể.



3.2. Tác động tới lạm phát
Lạm phát là hiện tượng lượng tiền lưu thông vượt qua mức cần
thiết làm cho chúng bị mất giá và là sự gia tăng liên tục của mức giá
chung.
Thâm hụt NSNN có nguy cơ cao dẫn đến lạm phát. Vì khi thâm
hụt ngân sách, chính phủ phải phát hành tiền hoặc vay nợ hoặc tiến hành
cắt giảm chi tiêu mà các giải pháp đó đều có thể gây lạm phát.
Thứ nhất, khi thâm hụt ngân sách, nhà nước phải đi vay hoặc in
tiền để bù đắp cho những khoản chi dư thừa. Điều đó khiến cho lượng
tiền cung ứng trong nền kinh tế tăng lên gây ra lạm phát. Khi giá cả đã
tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in thêm một lượng
tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Sự gia tăng cung tiền có thể
khơng làm tăng lạm phát khi nền kinh tế đang đà tăng trưởng, mức cầu
tiền giao dịch tăng lên phù hợp mức tăng của cung tiền. Tuy nhiên trong
trường hợp khu vực tư nhân đã thỏa mãn đối với lượng tiền họ nắm giữ
(lượng cầu tiền tương đối ổn định) thì sự gia tăng cung tiền làm giảm lãi
suất, và sẽ kích thích đầu tư khiến tổng cầu tăng, mặt bằng giá cả tăng
theo và gây áp lực lạm phát.
Người ta gọi trường hợp chính phủ tăng cung tiền để tài trợ
THNS là chính phủ đang thu “ thuế lạm phát” từ những người đang nắm
giữ tiền.
Thứ hai, bù đáp thâm hụt bằng cách vay nợ trong nước hoặc
nước ngoài bằng cách phát hành trái phiếu ra thị trường. Phát hành liên
tục sẽ làm tăng lượng cầu quỹ cho vay, làm lãi suất thị trường tăng. Để
giảm lãi suất NHTW phải can thiệp bằng cách mua các trái phiếu đó,
điều này làm tăng cơ sở tiền tệ gây lạm phát. Vay nợ nước ngoài để bù
đắp thâm hụt ngân sách bằng ngoại tệ, lượng ngoại tệ phải đổi ra nội tệ



để chi tiêu bằng cách bán cho NHTW, điều này làm tăng lượng nội tệ
gây áp lực lạm phát.
Thứ ba, việc chính phủ tăng thu giảm chi để hạn chế thâm hụt
ngân sách cũng làm lạm phát tăng. Ví dụ chính phủ tăng thu bằng cách
tăng thuế vào các loại hàng hóa làm giá cả hàng hóa tăng lên dẫn đến
lạm phát.

3.3. Tác động tới cán cân xuất nhập khẩu
Sự gia tăng chi tiêu công và thâm hụt ngân sách, sẽ ngay lập tức
làm cho tổng chi tiêu trong nước lớn hơn sản lượng trong nước. Để đáp
ứng lượng chi tiêu tăng thêm này, bên cạnh sản xuất trong nước tăng, thì
nhập khẩu cũng sẽ tăng và gây thâm hụt thương mại.
Thứ nhất, thâm hụt NSNN làm lãi suất trong nước tăng tương đối
so với lãi suất nước ngoài, dẫn đến luồng tiền từ nước ngoài đổ vào
trong nước tăng, làm tăng gía trị thực của đồng tiền trong nước. Khi đó,
hàng hóa trong nước sẽ đắt tương đối so với hàng hóa nước ngồi, làm
giảm xuất khẩu rịng. Trên thực tế những năm gần đây tỉ giá danh nghĩa
có tăng lên song tỉ giá thực giữa VND và USD lại có chiều hướng giảm.
Tỉ giá thực giảm đồng nghĩa với việc nhập khẩu được lợi hơn trong khi
xuất khẩu gặp khó khăn. Đây cũng là nguyên nhân khiến thâm hụt cán
cân thương mại tăng mạnh.
Thứ hai, thâm hụt ngân sách làm tăng lãi suất, khiến cho việc sản
xuất hàng hóa trong nước trở nên khó khăn. Lượng hàng hóa cung cấp
trong nước sẽ ít đi địi hỏi phải nhập khẩu thêm hàng ngoại làm nhập
khẩu tăng.
Như vậy, thâm hụt NSNN sẽ làm giảm xuất khẩu, tăng nhập
khẩu dẫn đến tình trạng “nhập siêu”. Cán cân thương mại sẽ thâm hụt.



3.4. Tác động đến đầu tư
Thâm hụt ngân sách sẽ làm suy giảm đầu tư trong tương lai. Khi
có thâm hụt ngân sach, nhà nước phải tìm cách để bù đắp thâm hụt ngân
sách, chủ yếu là vay nợ trong nước và nước ngoài. Thâm hụt NSNN kéo
dài trong nhiều năm làm gánh nặng nợ ngày càng nặng nề, việc bù đắp
cho trả nợ thâm hụt sẽ làm giảm nguồn tiền dành cho đầu tư. Mặt khác
để cải thiện thâm hụt kéo dài, nhà nước cũng phải tìm cách giảm chi tiêu
chính phủ. Việc này ảnh hưởng lớn đến đầu tư chính phủ cho nền kinh
tế quốc dân.

3.5. Tác động tới tiết kiệm quốc gia
Tiết kiệm quốc gia là tổng tiết kiệm khu vực tư nhân và tiết kiệm
chính phủ.
Thâm hụt NSNN do chi NSNN lớn hơn thu NSNN. Chính phủ
chi tiêu nhiều cho các khoản chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.
Bên cạnh đó khi thâm hụt ngân sách, chính phủ phải chi lượng tiền tiết
kiệm trong quỹ ra để bù đắp phần nào thâm hụt. Điều đó làm giảm lượng
tiết kiệm của chính phủ nên làm giảm tiết kiệm quốc gia.

3.6. Ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội
Hằng năm NSNN dành ra một khoản chi rất lớn để thực hiện
phúc lợi xã hội như chi cho sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ
thuật… Các khoản chi cho sự nghiệp giáo dục nhằm mục đích nâng cao
trình độ dân trí của các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống cho nhân dân. Chi cho sự


nghiệp y tế, cơng tác phịng bệnh chữa bệnh nhằm nâng cao mức sống
cho người dân trong xã hội. Việc nâng cao chất lượng hoạt động khám,
chữa bệnh và tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền y học

hiện đại đòi hỏi cần thêm nhiều nguồn vốn nữa. Khoản chi cho các vấn
đề xã hội nhằm đảm bảo đời sống của người lao động khi gặp khó khăn,
tai nạn, già yếu, những người khơng có khả năng lao động, đồng thời
giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, hỗ trợ cho đồng bào khi xảy ra
lũ lụt, thiên tai. Để bù đắp thâm hụt NSNN trong thời gian dài, nhà nước
phải cắt giảm các khoản chi tiêu của chính phủ làm ảnh hưởng khơng
nhỏ đến việc thực hiện phúc lợi xã hội nhằm hỗ trợ và cải thiện đời sống
cho người dân.

II.THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH & TÁC ĐỘNG CỦA
THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỚI SỰ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
1. THỰC TRẠNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GIAI
ĐOẠN 2010-2015
Trong những năm gần đây, với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, Việt Nam đã và đang theo đuổi những chính sách thâm hụt ngân
sách có định hướng. Phân tích về thực trạng thâm hụt ngân sách Việt
Nam trong thời gian qua cũng đã chỉ ra một số vấn đề cần lưu ý, cụ thể
là:
Thứ nhất, mặc dù thu NSNN liên tục tăng, nhưng chi luôn vượt
thu, điều này dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên và có mức
độ ngày càng gia tăng. Thâm hụt ngân sách (theo cách tính của Việt
Nam) giai đoạn 2010 - 2015 ở mức cao (trung bình 5.2% GDP). Việc
kéo dài tình trạng này sẽ làm giảm niềm tin vào chính sách và tiềm ẩn
nhiều rủi ro kinh tế vĩ mô.


Bảng 1: Bảng thu chi NSNN giai đoạn 2010-2015
Tổng thu cân
Năm đối NSNN

(tỷ đồng)
2010
461 500

Tổng chi cân
đối NSNN
(tỷ đồng)
582 200

Thâm hụt
NSNN
(tỷ đồng)
119 700

Tỷ lệ thâm hụt
NSNN so với
GDP (%)
6.2

2011

595 000

725 600

120 600

5.3

2012


740 500

903 100

140 200

4.8

2013

816 000

978 000

162 000

4.8

2014

782 700

1 006 700

224 000

5.3

2015*


911 100

1 147 100

236 000

5.0

(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT Bộ Tài Chính)

Quy mơ chi NSNN tăng đã đáp ứng được nhu cầu thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong từng thời kỳ. Cơ
cấu chi NSNN theo hướng giảm tỷ trọng chi đầu tư, tăng tỷ trọng chi
thường xuyên cho các lĩnh vực an ninh xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu
thực tiễn của nền kinh tế. Tỷ trọng chi thường xuyên trong tổng chi
NSNN có xu hướng tăng dần, từ 57.6% tổng chi vào năm 2010 lên đến
66.9% vào năm 2015. Trong khi đó tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong
tổng chi có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 2010-2015 từ 21.6%
xuống còn 17%. Đặc biệt trong giai đoạng 2010-2012 (sau khủng hoảng
tài chính tồn cầu cuối năm 2009), để kích thích kinh tế, Chính phủ đã
thực hiện các chính sách kích cầu đầu tư nhằm ngăn chặn suy thối thì
chi tiêu NSNN cho đầu tư phát triển đã tăng mạnh lên so với các năm
khác.


Bảng 2: Các khoản chi chính trong cân đối ngân sách nhà nước
giai đoạn 2010-2015
Năm


Tỷ lệ chi
đầu tư phát triển
so với tổng chi (%)

Tỷ lệ chi
trả nợ và viện trợ
so với tổng chi (%)

Tỷ lệ chi
thường xuyên
so với tổng chi (%)

2010

21.6

12.1

57.6

2011

20.9

11.9

60.9

2012


25.0

11.1

60.0

2013

17.9

10.7

67.4

2014

16.2

11.9

70.0

2015

17.0

13.1

66.9


(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT Bộ Tài Chính)
Nguyên nhân chủ yếu của việc chi thường xuyên chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng chi là do trong những năm qua, kinh tế Việt Nam bị ảnh
hưởng bởi suy thoái kinh tế thế giới nên nhu cầu chi cho đảm bảo an
ninh xã hội có xu hướng tăng lên. Đồng thời, giai đoạn này cũng là giai
đoạn Chính phủ đang thực hiện chương trình cải cách tiền lương trong
các đơn vị hành chính, sự nghiệp để phù hợp với tình hình thực tiễn nên
chi thường xuyên vẫn luôn giữ tỷ trọng lớn trong chi tiêu hàng năm. Do
khoản chi tiêu này chiếm tỷ trọng lớn, nếu tiếp tục tăng lên sẽ là một
trong những tác nhân đẩy thâm hụt ngân sách tăng theo. Bên cạnh đó,
chi trả nợ và viện trợ cũng chiếm một phần đáng kể trong GDP.
Thứ hai, thâm hụt ngân sách liên tục đã kéo theo sự gia tăng của
nợ công. Tổng nợ công của Việt Nam đã tăng từ khoảng 51.7% GDP
vào năm 2010 lên 54.9%GDP vào năm 2011, lên 55.7% vào năm 2012,
56.2% GDP năm 2013, 60.3% GDP vào cuối năm 2014 và khoảng 64%
GDP vào cuối năm 2015. Mặc dù, mức nợ công này vẫn trong giới hạn
quy định an toàn cho phép theo Nghị quyết của Quốc hội (không quá


65%) nhưng đây là vấn đề đáng quan tâm, ảnh hưởng xấu đến tăng
trưởng kinh tế.
Biểu đồ 1: Nợ công Việt Nam giai đoạn 2010-2013 (triệu tỷ đồng)

(Nguồn: Bản tin nợ cơng số 3)
Nhìn chung, chi ngân sách có xu hướng tăng cao và luôn vượt
thu ngân sách. Nguyên nhân một phần là do chính sách tăng chi ngân
sách để thực hiện các gói kích cầu nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế.
Kết quả là bội chi NSNN năm 2010 đã tăng tới mức cao nhất là 6,2%
GDP. Một nguyên nhân khác là do yêu cầu đảm bảo nguồn lực thực hiện
các chủ trương của Nhà nước trong việc tăng chi cho cơng tác an sinh xã

hội, xóa đói, giảm nghèo trong những năm gần đây. Năm 2014 là năm
thứ 4 Việt Nam thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2011-2015. Trong năm 2014, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam diễn ra
trước bối cảnh thế giới tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Kinh tế thế
giới phục hồi chậm hơn so với dự báo. Xung đột mâu thuẫn xảy ra ở
nhiều nơi đặc biệt căng thẳng trên biển Đơng. Trước tình hình đó, mặc
dù thống kê cho thấy kinh tế Việt Nam đã xuất hiện dấu hiệu phục hồi,


nhưng năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn chưa mấy được
cải thiện, tỷ lệ thâm hụt tăng lên 5.3%.
Tuy nhiên, theo những con số thâm hụt ngân sách này thì hiện tại vẫn
chưa phản ánh đúng bản chất của thâm hụt ngân sách, việc thống kê về
thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện có nhiều nguồn khác nhau. Điều
này sẽ dẫn tới những khó khăn nhất định trong việc so sánh chỉ tiêu và
đưa ra những chính sách tài chính phù hợp với tình hình thực tế.
2. TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH TỚI SỰ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Tác động tới GDP
Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế
tồn cầu cùng những yếu kém nội tại, Nhà nước phải sử dụng NSNN để
giải quyết những vấn đề khó khăn. Giai đoạn 2010-2015, kinh tế nước ta
tăng trưởng chậm lại, mức độ tăng trưởng trung bình khoảng 5.97%
(trước đó giai đoạn 2006-2010 là 7%).
Bảng 3: Bảng số liệu tăng trưởng GDP (%) Việt Nam
giai đoạn 2010-2015
Năm

2010 2011 2012 2013 2014 2015*


Tỷ lệ thâm hụt NSNN

5.0
6.2

5.3

4.8

4.8

5.3

so với GDP (%)
Tăng trưởng GDP (%)

6.78 5.89 5.25 5.42 5.98

6.5

(Nguồn: Tổng cục thống kê)


Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm qua chủ yếu
dựa phần lớn vào việc liên tục gia tăng quy mô các nguồn lực, vốn đầu
tư (đặc biệt là đầu tư cơng). Trong cơ cấu đầu tư tồn xã hội, đầu tư từ
khu vực nhà nước luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đóng vai trị chủ đạo
trong khu vực nhà nước là vốn đầu tư từ NSNN. Trong thời gian qua,
mặc dù kinh tế gặp nhiều khó khăn, NSNN thâm hụt ở mức độ khá cao,
song đầu tư vẫn tăng cao, góp phần duy trì đà tăng trưởng. Tuy nhiên,

hiệu quả đầu tư lại đang có xu hướng giảm sút, đặc biệt là đầu tư công.
Đầu tư kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư tồn xã hội
và có xu hướng tăng, nhưng mức độ đóng góp của khu vực kinh tế nhà
nước vào GDP lại có xu hưởng giảm. Điều này phần nào thể hiện hiệu
quả đóng góp của đầu tư cơng cho tăng trưởng kinh tế đang có xu hướng
suy giảm.
Trong thời gian qua, việc cơ cấu lại chi ngân sách theo hướng
giảm tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tăng tỷ trọng chi đầu tư cho con
người, đảm bảo an sinh xã hội, điều chỉnh tiền lương là cần thiết, song
nó cũng tạo ra những hệ lụy. Đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong
tổng vốn đầu tư toàn xã hội luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Trong đầu tư
của khu vực kinh tế nhà nước, vốn đầu tư từ NSNN cũng chiếm tỷ trọng
lớn nhất. Điều này cho thấy vai trò đầu tư của NSNN còn rất lớn. Do đó,
khi cơ cấu lại NSNN theo hướng giảm đầu tư phát triển sẽ ảnh hưởng tới
tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong khi, tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam hiện nay vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào tổng lượng vốn đầu tư
hàng năm. Đồng thời, tỷ trọng vốn đầu tư liên tục giảm cũng dẫn tới
nhiều cơng trình kết cấu hạ tầng cần thiết phải bị kéo dài hoặc phải bỏ
dở dang, gây thất thốt, lãng phí, giảm hiệu quả đầu tư.
Từ bảng số liệu chúng ta có thể thấy: năm nào có tỷ lệ thâm hụt
ngân sách càng cao thì tăng trưởng GDP càng cao. Khi chính phủ thực
hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức


thâm hụt NSNN. Nhưng từ đó, tổng sản phẩm trong nước cũng tăng lên.
Khi nhận thấy thâm hụt đang ở mức cao để cân đối lại ngân sách, chính
phủ sẽ tăng thu giảm chi. Thường là chính phủ sẽ tăng thuế. Thuế tăng
làm cho người dân tiêu dùng ít hơn. Cùng với sự giảm bớt chi tiêu của
chính phủ sẽ làm GDP giảm. Sau 2010, tỷ lệ thâm hụt giảm và tăng
trưởng GDP cũng giảm. Tuy nhiên đến năm 2014, cú sốc về giá dầu

giảm khiến NSNN gặp khó khăn nhưng lại có lợi cho đa số các doanh
nghiệp và người tiêu dùng, kích thích nền kinh tế. Do vậy, NSNN thì
thâm hụt cịn GDP tăng trưởng cao.
2.2. Tác động tới lãi suất
Bảng 4: Bảng số liệu lãi suất Việt Nam giai đoạn 2010-2015
Năm

2010

2011

2012

2013

2014

2015*

Lãi suất huy
động (%/năm)
Lãi suất cho
vay (%/năm)

11

14

9


7.5

5.5

4.58

18

18.5-20

12

9

7

5.5 - 6

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Cứ mỗi khi lãi suất tăng, người ta đều cho rằng đó là lỗi của khu
vực ngân hàng. Tuy nhiên, nếu có điều kiện để nhìn xa hơn, người ta có
thể thấy ngun nhân có thể lại là từ tình trạng thâm hụt NSNN. Trong
những năm qua, Việt Nam chủ trương tăng trưởng cao. Đồng thời kéo
theo thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách gia tăng chắc chắn đã ảnh
hưởng đến tình trạng thiếu hụt nguồn vốn trên thị trường tiền tệ. Khi
NSNN thâm hụt, Chính phủ phải huy động vốn trên thị trường tiền tệ,
dẫn đến cầu về vốn tín dụng của thị trường tăng lên và đẩy lãi suất tăng
lên.



Giai đoạn 2010-2011, sau cuộc khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thâm
hụt NSNN ở mức cao. Chính phủ phải huy động vốn bằng việc phát
hành trái phiếu với mức trần lãi suất TPCP dao động trong khoảng từ
10-14%/năm. Theo đó trần lãi suất cho vay trên thị trường lên đến
20%/năm. Cũng trong năm 2011, thâm hụt cao làm tỷ lệ lạm phát cao kỷ
lục (18.13%), chính phủ yêu cầu “phanh gấp” cung tiền để kiềm chế lạm
phát. Cung tiền bị thắt chặt nên huy động từ dân cư khó khăn hơn dẫn
đến lãi suất tăng cao. Sau 2011, tỷ lệ thâm hụt giảm dần nên lãi suất
giảm theo. Từ 2014 và dự kiến 2015, mặc dù thâm hụt tăng lên trên mức
5% nhưng lãi suất tiếp tục giảm để kích thích tăng trưởng kinh tế.
2.3. Tác động tới phân phối thu nhập
Hằng năm nhà nước đều có những chính sách trợ cấp cho những
người thất nghiệp, thu nhập thấp. Khi có thâm hụt ngân sách chính phủ
tăng thuế thu nhập cá nhân làm cho những người có thu nhập cao phải
chịu nhiều thuế hơn. Sau đó chính phủ sẽ dùng nguồn thu để trợ cấp cho
những người có thu nhập thấp, có thể là trợ cấp về y tế, giá điện, lương
thực thực phẩm... Họ sẽ giảm bớt được gánh nặng về những khoản tiền
ấy. Vì vậy thâm hụt NSNN sẽ làm phân phối lại thu nhập của người
dân, giảm bớt khoảng cách thu nhập các tầng lớp, góp phần đảm bảo
công bằng xã hội.
2.4. Tác động tới lạm phát
Trong những năm qua, việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh
tế nhờ việc tăng vốn đầu tư từ NSNN ngoài những mặt tích cực giúp nền
kinh tế vượt qua khó khăn trong thời kỳ khủng hoảng, thì cũng khiến
nền kinh tế phải đối diện với bất ổn kinh tế vĩ mô, đặc biệt là sự gia tăng
lạm phát. Thể hiện rõ nhất sau gói kích cầu năm 2009, lạm phát đã tăng
cao bất thường vào năm 2010 và 2011. Chi tiêu chính phủ tăng nhanh và
mở rộng trong nhiều năm dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài,



buộc Chính phủ phải bù đắp bằng việc đi vay trong nước và ngoài nước
hoặc phát hành TPCP để vay nợ.
Ở Việt Nam những năm qua, thâm hụt tài khóa được tài trợ phần
lớn bởi vay nợ thông qua phát hành TPCP. Việc phát hành trái phiếu, tín
phiếu này sẽ không tác động làm thay đổi cung tiền nếu được bán cho
cơng chúng (hộ gia đình và doanh nghiệp). Nhưng thực tế số trái phiếu
này hầu hết bán cho tổ chức tín dụng và các tổ chức tín dụng sử dụng để
chiết khấu hoặc bán cho Ngân hàng Nhà nước qua nghiệp vụ thị trường
mở, theo đó trở thành một nhân tố làm tăng cung tiền và gây lạm phát
cao trong nền kinh tế.

Bảng 5: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2010-2015
Năm

2010

2011

2012

2013

2014

2015*

Lạm phát (%)

11.75


18.13

6.81

6.04

1.84

2.00

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Theo thống kê của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, tổng giá trị
của TPCP phát hành trong năm 2010 là 119.000 tỷ đồng, năm 2011 là
117.000 tỷ đồng, năm 2012 là 163.000 tỷ đồng, năm 2013 là 183.000 tỷ
đồng, năm 2014 là 330.000 tỷ đồng. Như vậy, cùng với nhu cầu tín dụng
cao của khu vực tư nhân, chi tiêu công tài trợ thông qua phát hành trái
phiếu cũng đã gián tiếp dẫn đến sự gia tăng mạnh của cung tiền trong
những năm gần đây.
Ngoài ra, việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng nguồn huy động từ
bên trong hay ngoài nước tăng về cơ bản cũng làm tăng cung tiền vào thị
trường trong nước. Điều này có thể giải thích là do phần huy động từ
vay nước ngoài đã làm tăng lượng cung tiền vào trong nước, vì số tiền
vay nước ngồi về phải đổi ra VND để chi tiêu trên cơ sở bán cho


NHNN là chính, mà NHNN lại phát hành tiền ra để mua ngoại tệ là cơ
bản. Có thể thấy việc mở rộng chi tiêu công cũng đã gián tiếp dẫn đến sự
gia tăng cung tiền trong những năm gần đây khiến lạm phát tăng cao
trong năm 2010 - 2011. Từ năm 2011 tới nay, với mục tiêu ưu tiên kiềm
chế lạm phát và tăng trưởng ở mức hợp lý, Chính phủ đã thực hiện chính

sách tài khóa thắt chặt, theo đó cắt giảm đầu tư cơng. Theo dõi diễn biến
lạm phát, có thể thấy từ tháng 9/2011, tốc độ CPI so với cùng kì năm
trước đã có xu hướng giảm. Năm 2012 và 2013, chỉ số CPI đã giảm
xuống còn 6,81% và 6,04%, thấp hơn mức 11,83% của năm 2011. Việc
thắt chặt đầu tư công và các biện pháp rà sốt đầu tư cơng cũng là nhân
tố giúp làm giảm lượng cung tiền vào thị trường, đồng thời nâng cao
hiệu quả đầu tư, từ đó góp phần giảm bớt khoảng cách cầu vượt cung, do
đó kiềm chế được lạm phát.
Đặc biệt, năm 2014 sở dĩ lạm phát thấp như vậy là do chịu ảnh
hưởng bởi giá cả hàng hóa thế giới giảm, trong đó giá dầu thơ giảm đến
gần một nửa. Dầu cũng được tính là một trong những chi phí sản xuất
của doanh nghiệp, đó là chi phí vận chuyển, chi phí chạy máy móc. Giá
dầu giảm cũng có nghĩa chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra giảm đi nên
hàng hóa bán ra thị trường đồng loạt hạ giá làm mức giá chung giảm. Từ
đó tỷ lệ lạm phát giảm đi.

2.5. Tác động tới cán cân thương mại

Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất - nhập khẩu và cán cân thương mại


giai đoạn 2010-2014

Thâm hụt ngân sách 2010 đạt mức cao nhất trong 5 năm qua
(6.2%) làm cho cán cân thương mại thâm hụt, tình trạng xấu nhất trong
những năm gần đây. Như số liệu về tỷ lệ thâm hụt NSNN và tốc độ tăng
trưởng GDP ở bảng 3, những năm có tốc độ tăng GDP cao thì tỷ lệ thâm
hụt cũng cao. Khi GDP của một nước tăng lên làm nhu cầu về hàng nhập
khẩu cũng tăng lên khiến cho cán cân thương mại xấu đi. Trong giai
đoạn 2010-2015 tốc độ tăng trưởng GDP có giảm dần sau đó lại tăng.

Tương ứng chúng ta cũng thấy được cán cân thương mại tốt dần lên sau
đó lại giảm đi khơng nhiều. Mức độ thâm hụt NSNN giảm dần làm cán
cân thương mại chuyển biến tốt lên. Trong giai đoạn này, lượng hàng
hóa xuất khẩu cao hơn nhiều nhập khẩu nên có thặng dư thương mại.


3. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC ĐẾN SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
3.1. Tác động tích cực
Khi mức thâm hụt NSNN nhỏ hơn mức 5% sẽ tạo động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế. Thâm hụt ngân sách tạm thời trong giai đoạn suy
thối sẽ kích thích đầu tư phát triển, góp phần đưa đến tăng trưởng cao.
Việc tăng bội chi ngân sách sé giúp chống được suy thoái kinh tế. Khi
nền kinh tế gặp khủng hoảng, việc tăng chi tiêu chính phủ sẽ kích thích
kinh tế phát triển tạo ra việc làm lâu bền cho người lao động góp phần
làm doanh thu từ thuế tăng và trợ cấp thất nghiệp giảm.
3.2. Tác động tiêu cực
Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài làm xói mịn niềm tin đối với
năng lực điều hành vĩ mơ của chính phủ. Việc gia tăng thâm hụt ngân
sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân hay
gia tăng thâm hụt cán cân thương mại. Tác động của thâm hụt ngân sách
đối với thâm hụt thương mại cũng sẽ đặc biệt nghiêm trọng ở những
nước có sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên vật liệu
nhập khẩu như Việt Nam. Khơng những thế, việc nhập khẩu khẩu hàng
hóa và dịch vụ cũng sẽ dẫn đến sự dịch chuyển ngược của dịng tài sản
ra nước ngồi. Khi nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu, ban đầu chúng ta
phải trả ngoại tệ cho người nước ngồi. Sau đó, lượng ngoại tệ này có
thể được người nước ngồi sử dụng để mua cổ phiếu, trái phiếu cơng ty,
trái phiếu chính phủ hoặc bất động sản. Do vậy, khi thâm hụt ngân sách
xảy ra, Việt Nam trở thành nước nhập khẩu rịng hàng hóa và dịch vụ,

đồng thời cũng là nước xuất khẩu ròng tài sản. Lượng tài sản trong nước
nắm giữ bởi người nước ngoài sẽ ngày càng nhiều hơn.
Thâm hụt gây ra lạm phát. Lạm phát đã làm cho giá cả hàng hóa,
dịch vụ tăng, trong đó có những loại tác động trực tiếp vào sản xuất kinh


doanh như xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng. Đời sống người lao
động bị tác động trực tiếp bởi sự tăng giá lương thực, thực phẩm. Cung
tiền tăng, lạm phát cao đã khiến cơng chúng tìm cách trú ẩn vào những
tài sản có giá trị ổn định như vàng, ngoại tệ mạnh và bất động sản, gây
ra sự bất ổn trên các thị trường tài sản và làm giảm hiệu lực của chính
sách tiền tệ trong nước. Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh
tế: lạm phát làm lệch lạc cơ cấu giá cả, kéo theo là nguồn tài nguyên,
vốn và nguồn nhân lực không được phân bố một cách hiệu quả, kết cục
làm cho tăng trưởng chậm lại.
Thâm hụt cũng có thể làm lãi suất tăng. Các hộ gia đình và doanh
nghiệp sẽ gặp khó khăn về vốn vay kinh doanh, đầu tư của khu vực tư
nhân sẽ giảm. Cuối cùng là nền kinh tế có tăng trưởng thấp hoặc thậm
chí là tăng trưởng âm.

III.GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC THÚC ĐẨY VAI TRÒ CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.ĐỊNH HƯỚNG DUY TRÌ THÂM HỤT NGÂN SÁCH CỦA CHÍNH
PHỦ
Sự thâm hụt ngân sách nhà nước những năm gần đây được coi
như là một cơng cụ của chính sách tài khóa để tăng trưởng kinh tế.
Ví dụ thâm hụt ngân sách do chính phủ chi tiêu nhiều sẽ làm
tăng tổng cầu, kích thích kinh tế phát triển, các nhà đầu tư thấy triển
vọng sẽ tiếp tục đầu tư. Nếu khi thâm hụt ngân sách, chính phủ chấp

nhận giảm thuế sẽ làm thu nhập tăng, làm tăng tổng cầu, kích thích kinh
tế phát triển.


Theo kinh nghiệm quốc tế thì trong điều kiện bình thường, tỉ lệ
thâm hụt NSNN ở mức 3% GDP được coi là đáng lo ngại, và ở mức 5%
GDP được coi là đáng báo động, tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống
kinh tế xã hội.
Vì vậy chính phủ thường có xu hướng duy trì thâm hụt ở mức
vừa phải để tránh những tác động tiêu cực, bên cạnh đó kích thích tăng
trưởng kinh tế.

2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ KHẮC PHỤC THÂM HỤT NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
Để khắc phục thâm hụt ngân sách nhà nước, tùy theo bối cảnh,
tình hình kinh tế mà có thể sử dụng các biện pháp như sau:
2.1. Phát hành tiền
Khi ngân sách nhà nước thâm hụt, chính phủ sẽ đi vay ngân hàng
trung ương để bù đắp. Để đáp ứng nhu cầu này, ngân hàng trung ương sẽ
phải in thêm tiền. Điều này làm tăng cơ sở tiền tệ. Chính vì vậy nó được
gọi là tiền tệ hóa thâm hụt.
* Ưu điểm: Nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách được giải
quyết nhanh chóng, khơng phải trả lãi, khơng phải gánh thêm gánh nặng
nợ nần.
* Nhược điểm: Việc in tiền và phát hành tiền làm cho cung tiền
vượt quá cầu tiền và làm lạm phát tăng khơng kiểm sốt nổi. Trong
những năm 80 của thế kỉ XX, nước ta tài trợ thâm hụt bằng cách phát
hành tiền vào lưu thông.Việc này làm cho tỉ lệ lạm phát tăng đến mức
đỉnh điểm lên tới 600%. Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít
khi được sử dụng. Từ năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in

tiền để tài trợ thâm hụt.


×