Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích lý luận của chủ nghĩa mác lênin về nhà nước sinh viên làm rõ bản chất ưu việt của nhà nước pháp quyền XHCN việt nam, trách nhiệm của bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.5 KB, 14 trang )

BỘ CƠNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
KHOA: Khoa Lý Luận Chính Trị
----------

CHỦ ĐỀ: NHÀ NƯỚC
Phân tích lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước. Sinh
viên làm rõ bản chất ưu việt của nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam, trách nhiệm của bản thân trong xây dựng và bảo vệ
nhà nước.
Giảng viên hướng dẫn: Mai Thị Hồng Hà
Sinh viên thực hiện: Nhóm 4
Lớp: DHQT16DTT

0

0


1.Khái niệm và nguồn gốc của nhà nước
- Khái niệm:
Nhà nước là một hiện tượng xã hội, tồn tại trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Do nhận thức, lợi ích giai cấp khác nhau, phương pháp tiếp cận khác nhau
nên trong lịch sử tư tưởng của nhân loại đã có nhiều cách hiểu khác nhau về nhà
nước xoay quanh những vấn đề cơ bản như: nguồn gốc, bản chất, chức năng của
nhà nước, cách phân loại các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử...
- Nguồn gốc nhà nước:
Trong xã hội nguyên thủy, với sự tồn tại của cộng đồng thị tộc, bộ lạc, chưa có nhà
nước với tư cách là cơ quan quyền lực của giai cấp, duy trì sự thống trị của giai


cấp, đối lập với nhân dân. Xã hội tồn tại theo thể chế tự quản. “Đến một giai đoạn
phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên phải gắn liền với sự phân chia xã
hội thành giai cấp thì sự phân chia đó làm cho nhà nước trở thành một tất yếu”
Vào giai đoạn cuối của xã hội cộng sản nguyên thủy, trong xã hội xuất hiện chế độ
tư hữu; sự bất bình đẳng, sự phân hóa giai cấp diễn ra phổ biến; xuất hiện giai cấp
thống trị và giai cấp bị thống trị. Quan hệ áp bức bóc lột dần dần thay cho quan hệ
bình đẳng giữa người với người, nền dân chủ công xã bị thay bằng nền độc tài.
Điều đó dẫn đến những mâu thuẫn giai cấp gay gắt, khơng thể điều hịa được. Các
cuộc đấu tranh nổi dậy của giai cấp bị trị chống lại giai cấp thống trị diễn ra thường
xuyên. Để bảo vệ địa vị thống trị và quyền lợi của mình, giai cấp thống trị sử dụng
công cụ bạo lực để đàn áp sự nổi dậy đấu tranh của giai cấp bị trị. Cuộc đấu tranh
giai cấp đầu tiên mang tính quyết liệt giữa hai giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô thời
cổ đại dẫn đến sự ra đời của nhà nước.
Ph. Ăngghen cho rằng: “muốn cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có quyền
lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, khơng đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn
cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vơ ích, thì cần phải có một lực lượng cần thiết,
một lực lượng rõ ràng là đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và
giữ cho sự xung đột đó nằm trong vịng “trật tự”. Và lực lượng đó, nảy sinh ra từ xã
hội, nhưng lại đứng trên xã hội và ngày càng tách rời khỏi xã hội, chính là nhà
nước”.
Nhà nước ra đời đáp ứng yêu cầu duy trì trật tự và thống trị xã hội của giai cấp

0

0


thống trị, để cho cuộc đấu tranh giai cấp không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu
diệt luôn cả xã hội, để duy trì xã hội trong vịng “trật tự”. V.I. Lênin cho rằng, khi
trong xã hội xuất hiện “biểu hiện của mâu thuẫn giai cấp không thể điều hịa được”

thì nhà nước ra đời; rằng “bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào
mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hịa
được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng
tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là khơng thể điều hịa được”.
Như vậy, có thể khẳng định, nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện
nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự dư
thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và về
của cải; còn nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự xuất hiện
nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt khơng thể điều hịa
được.
Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan để “làm dịu” sự xung đột giai
cấp, duy trì trật tự xã hội trong vịng “trật tự” mà ở đó, địa vị và lợi ích của
giai cấp thống trị được đảm bảo.

2. Bản chất của Nhà nước
2.1 Bản chất là gì?
- Bản chất là toàn bộ những mối liên hệ, quan hệ sâu sắc và những quy luật
bên trong quyết định những đặc điểm và khuynh hướng phát triển cơ bản
của hệ thống vật chất.
- Các câu nói của các nhà triết học:
Nhà nước ra đời trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nhà nước
chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh
giai cấp.
Theo Ăng-ghen: “chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này
dùng để trấn áp một giai cấp khác, điều đó trong chế độ Cộng hịa dân
chủ cũng hồn tồn giống như trong chế độ dân chủ”
Lenin lại khẳng định quan điểm của C.Mác về nhà nước: “Theo Mác,
nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của
một giai cấp này đối với một giai cấp khác; đó là sự kiến lập một “trật
tự”, trật tự này hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm

dịu xung đột giai cấp”

0

0


Nhà nước, về bản chất, là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị
về mặt kinh tế tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng
của giai cấp khác.

2.2 Bản chất của Nhà nước thể hiện qua các đặc điểm và chức
năng:
-

Gồm các chức năng và đặc điểm sau:
Một là, nhà nước thiết lập một quyền lực công đặc biệt.
Hai là, nhà nước phân chia cư dân theo lãnh thổ, hình thành các đơn
vị hành chính khơng phụ thuộc chính kiến, huyết thống, giới tính,
nghề nghiệp.
Ba là, nhà nước có chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị,
pháp luật đối ngoại, khơng phụ thuộc vào yếu tố bên ngồi.
Bốn là, nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lí bằng
pháp luật đối với tồn xã hội, nhà nước thực hiện sự quản lí xã hội
bằng pháp luật, các quy định do nhà nước đặt ra và bắt buộc mọi
người thực hiện
Bản chất của nhà nước còn được thực hiện qua chức năng của nhà
nước:Căn cứ vào phạm vi hoạt động, bản chất của nhà nước được chia
thành đối nội và đối ngoại.
Xuất phát từ nguyên nhân ra đời của nhà nước, mối quan hệ giữa tính giai

cấp và tính xã hội quyết định những đặc điểm cơ bản và xu hướng của nhà
nước.

2.3 Tính xã hội và tính giai cấp
-

Tính giai cấp của nhà nước: sự tác động của yếu tố giai cấp đến đặc điểm
và xu hướng phát triển cơ bản của nhà nước. Nhà nước có tính giai cấp vì:
Nhà nước có nguồn gốc giai cấp và là sản phẩm và biểu hiện của
những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hồ được.
Nhà nước là bộ máy, công cụ trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với
giai cấp khác.

0

0


Tính giai cấp của nhà nước thể hiện ở mục đích, chức năng bảo vệ trật tự
xã hội có lợi cho giai cấp thống trị, bảo vệ trước hết lợi ích giai cấp thống
trị.
- Tính xã hội của Nhà nước sự tác động của yếu tố xã hội đến đặc điểm và xu
hướng vận động cơ bản của nhà nước. Tính xã hội xuất phát từ:
Nhà nước ra đời đáp ứng nhu cầu quản lý giải quyết công việc chung,
bảo vệ lợi ích chung của xã hội.
Nhà nước đại diện cho ý chí chung, lợi ích chung.
Tính xã hội thể hiện trong mục đích, chức năng của nhà nước là đảm bảo
lợi ích chung, thể hiện ý chí chung của xã hội. Nhà nước sẽ không thể tồn
tại nếu nhà nước chỉ bảo vệ lợi ích của duy nhất giai cấp cầm quyền mà
không quan tâm đến việc bảo vệ lợi ích cơ bản của của các giai cấp khác

trong xã hội.
- Mối liên hệ giữa tính xã hội và tính giai cấp.
Bản chất nhà nước bao hàm sự tồn tại của cả hai tính chất này.
Sự đấu tranh và thống nhất giữa hai tính chất này tác động đến xu
hướng phát triển và những đặc điểm cơ bản của nhà nước
Xu hướng phát triển là tính xã hội của nhà nước ngày càng được mở
rộng.
Nhà nước dù có tồn tại dưới hình thức nào thì cũng phản ánh và mang bản
chất giai cấp. Do đó, để phân biệt nhà nước với các tổ chức xã hội khác
cần phản nhận biết các đặc trưng của nhà nước.
3.

Đặc trưng của nhà nước.

Theo Ph.Ăngghen, nhà nước thường có ba đặc trưng cơ bản:
- Thứ nhất, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định.
Đây là đặc trưng cơ bản của mọi nhà nước. Nhà nước đã lấy sự phân chia lãnh thổ
làm điểm xuất phát và để cho công dân “thực hiện những quyền và nghĩa vụ của họ
theo nơi cư trú, không kể họ thuộc thị tộc, bộ lạc nào.”
- Thứ hai, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp bao gồm bộ

máy quản lý hành chính và các lực lượng vũ trang đặc biệt mang tính cưỡng chế đối
với mọi thành viên.

0

0


Đây là đặc trưng thể hiện quyền lực công cộng đặc biệt của nhà nước, khơng cịn

hịa nhập với dân cư nữa, mang tính chính trị và giai cấp. Các cơ quan giúp nhà
nước thực hiện chức năng trấn áp sự phản kháng của các giai cấp thác là “Những
đội vũ trang đặc biệt, trong tay có những nhà tù,…”, “đội vũ trang đặc biệt” ngồi
qn đội nhà nghề cịn có cảnh sát vũ trang, và những cơ quan cưỡng bức, những
cơ quan hành chính thực hiện chức năng cai trị.
Nhà nước quản lý xã hội dựa vào pháp luật là chủ yếu. Bằng hệ thống pháp luật nhà
nước sử dụng phương thức “cưỡng bức” mọi cá nhân,tổ chức trong xã hội phải thực
hiện các chính sách theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị
- Thứ ba, nhà nước có hệ thống thuế khóa để ni bộ máy chính quyền.
V.I. Lênin cho rằng, “muốn duy trì quyền lực xã hội đặc biệt, đặt lên trên xã hội,
thì phải có thuế và quốc trái”. Ph. Ăngghen viết: “Để duy trì quyền lực cơng
cộng đó, cần phải có sự đóng góp của cơng dân, đó là thuế má”; “nắm được
quyền lực công cộng và quyền thu thuế, bọn quan lại, với tư cách là những cơ
quan của xã hội, được đặt lên trên xã hội”. Như vậy, để duy trì sự thống trị của
mình, giai cấp thống trị trước hết phải đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước.
Muốn bộ máy nhà nước hoạt động thì phải có nguồn tài chính. Nguồn tài chính
được nhà nước huy động chủ yếu là do thu thuế, sau đó là quốc trái thu được do
sự cưỡng bức hoặc do sự tự nguyện của công dân.

4. Chức năng cơ bản của nhà nước.
Chức năng của nhà nước được xem xét dưới nhiều gốc độ khác nhau như chức
năng thống trị chính trị và chức năng xã hội, chứng năng đối nội và chức năng
đối ngoại,…
*Chức năng thống trị chính trị và chưng năng xã hội
- Chức năng thống trị chính trị của nhà nước chịu sự quy định bởi tính giai cấp

của nhà nước. Là công cụ thống trị giai cấp, nhà nước thường xuyên sử dụng bộ
máy quyền lực để duy trì sự thống trị đó thơng qua hệ thống chính sách và pháp
luật. Bộ máy quyền lực mọi sự phản kháng của giai cấp bị trị, các lực lượng
chống đối nhằm bảo vệ địa vị và của nhà nước từ trung ương đến cơ sở, nhân

danh nhà nước duy trì trật tự xã hội, đàn áp quyền lợi của giai cấp thống trị.

0

0


- Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân danh xã

hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công việc chung
của xã hội như: thủy lợi, giao thông, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường... để duy
trì sự ổn định của xã hội trong “trật tự” theo quan điểm của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, theo Ph. Ăngghen, nhà nước là đại biểu chính thức của tồn xã hội
chỉ trong chừng mực nó là nhà nước của bản thân giai cấp đại diện cho toàn xã
hội trong thời đại tương ứng.
Mối quan hệ giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của nhà
nước: Do bản chất giai cấp, nhà nước bao giờ cũng đặt chức năng thống trị chính
trị của mình lên hàng đầu. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước như một cơng cụ
thống trị để duy trì quyền thống trị của mình, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp
mình. Chính vì vậy, chức năng thống trị chính trị của nhà nước giữ vai trị quyết
định, chi phối và định hướng chức năng xã hội của nhà nước.
Tuy nhiên, để duy trì trật tự xã hội, nhà nước của giai cấp thống trị còn phải thực
hiện chức năng xã hội của mình. Ph. Ăngghen cho rằng: “chức năng xã hội là cơ
sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào
nó cịn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”. Do vậy, chức năng xã hội của nhà
nước có vai trị rất quan trọng đối với sự tồn tại của nhà nước. Nếu chính quyền
nhà nước nào khơng chú ý tới chức năng xã hội thì sớm muộn sẽ sụp đổ.
Như vậy, giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của nhà nước
ln có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Một nhà nước tồn tại lâu dài khi giai cấp
thống trị giải quyết ổn thỏa lợi ích của giai cấp và lợi ích của toàn xã hội trong

những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
* Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Để thực hiện vai trị của mình đối với giai cấp thống trị và với toàn xã hội, nhà
nước còn thực hiện chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối
nội của nhà nước là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy trì trật tự xã hội
thơng qua các cơng cụ như: chính sách xã hội, luật pháp, cơ quan truyền thơng,
văn hóa, giáo dục,... Chức năng đối nội được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục,... của mỗi quốc gia, dân tộc nhằm đáp
ứng và giải quyết những nhu cầu chung của toàn xã hội.

0

0


Chức năng đối nội được nhà nước thực hiện một cách thường xun, liên tục
thơng qua lăng kính giai cấp của giai cấp thống trị. Chức năng đối ngoại của nhà
nước là sự triển khai thực hiện chính sách đối ngoại của giai cấp thống trị nhằm
giải quyết mối quan hệ với các thể chế nhà nước khác dưới danh nghĩa là quốc
gia, dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu trao đổi kinh tế,
văn hóa, khoa học - kỹ thuật, y tế, giáo dục,... của mình. Trong xã hội hiện đại,
chính sách đối ngoại của nhà nước được các quốc gia coi trọng, xem đó như là
điều kiện cho sự phát triển của mình. Các nhà nước khơng chỉ quan hệ với nhau
mà cịn quan hệ với các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ,...
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước là hai mặt của một thực
thể thống nhất, hỗ trợ và tác động lẫn nhau nhằm thực hiện đường lối đối nội và
đường lối đối ngoại của giai cấp cầm quyền. Trong mối quan hệ này, chức năng
đối nội của nhà nước giữ vai trò chủ yếu, vì, nhà nước trước hết, nếu khơng muốn
bị sụp đổ thì phải duy trì được trật tự xã hội, phải giải quyết những công việc xã
hội, để xã hội tồn tại trong vịng trật tự nhất có thể, theo quan điểm của giai cấp

thống trị. Có làm tốt chức năng đối nội thì nhà nước mới có điều kiện để thực
hiện tốt chức năng đối ngoại. Khi chức năng đối ngoại được thực hiện tốt thì chức
năng đối nội lại càng có điều kiện thực hiện.
Kết luận: Sự phân định các chức năng của nhà nước chỉ có ý nghĩa tương đối. Vì
trong chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội cũng bao hàm chức năng
đối nội và chức năng đối ngoại. Trong chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
cũng bao hàm chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của nhà nước.

1.Hình thức nhà nước là gì?
-Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp
nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội
nào.
-Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Hình thức nhà
nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền
lực nhà nước. Nói cách khác đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.
-Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tương quan
lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp – xã hội, bởi đặc điểm truyền thống
chính trị của đất nước…

0

0


2. Kiểu và hình thức của các loại Nhà nước:
-Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là hình thái
kinh tế – xã hội chiếm hữu nơ lệ, hình thái kinh tế – xã hội phong kiến và hình thái
kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa là bốn kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ,
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước vô sản. Tùy theo tình hình kinh
tế – xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu nhà nước được tổ chức theo những

hình thức nhất định. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất “giai cấp vô sản”,
nhưng lại là một kiểu nhà nước đặc biệt.
2.1. Nhà nước chiếm hữu nô lệ:
-Đây là nhà nước của giai cấp chủ nơ thời cổ đại mà tiêu biểu là các hình thức lịch
sử nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại như chính thể quân chủ và chính thể
cộng hịa, chính thể q tộc và chính thể dân chủ. Các hình thức này chỉ khác nhau
về cách thức và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, còn bản chất của
chúng đều là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chun chính đối với
nơ lệ.
2.2. Nhà nước phong kiến:
-Đây là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến cũng được
tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Nói chung, ở phương Tây, hình thức qn
chủ phân quyền là hình thức nhà nước phổ biến. Quyền lực nhà nước được chia
thành quyền lực độc lập, địa phương phân tán. Mỗi chúa phong kiến là một ông vua
trên lãnh thổ của mình. Mối liên hệ thực sự giữa các chúa phong kiến châu Âu chủ
yếu được thiết lập bằng các hình thức liên minh của các nhà nước cát cứ, trong đó
Thiên Chúa giáo trở thành mối quan hệ tinh thần thiêng liêng giữa các tiểu vương
quốc phong kiến.
-Ở phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và ấn Độ), hình thức quân chủ tập quyền
là hình thức nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất.
Trong nhà nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, hịang đế có uy
quyền tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật.
-Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, nhà nước phong kiến cũng chỉ là chính quyền
của giai cấp địa chủ, quý tộc, là cơ quan bảo vệ những đặc quyền phong kiến, là
công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến dùng để áp bức, thống trị nông nô.

0

0



2.3. Nhà nước tư sản:
-Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nói
chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hịa và hình thức qn chủ
lập hiến. Hình thức cộng hịa lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như
cộng hòa Đại nghị, cộng hòa Tổng thống trong đó hình thức cộng hịa Đại nghị là
hình thức điển hình và phổ biến nhất. Trong thực tế, nhằm thích ứng với điều kiện
lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, các hình thức cụ thể của nhà nước tư sản hiện đại
lại có sự khác nhau khá lớn, về chế độ bầu cử, chế độ tổ chức một viện hay hai viện,
về nhiệm kỳ tổng thống, về sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và nội các.
-Hình thức của nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng khơng làm thay đổi bản
chất của nó – đó là cơng cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị giai cấp vô
sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp tư sản.
Đúng như V.I.Lênin đã đã chỉ ra: “Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức
khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy,
vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chun chính tư sản”.
-Tuy nhiên có thể thấy trước khi có nền dân chủ vơ sản thì nền dân chủ đạt được
trong chủ nghĩa tư bản là nấc thang khá quan trọng trong sự tiến hóa của nền dân
chủ trong lịch sử. Sự ra đời chế độ dân chủ tư sản là một bước tiến về chất trong sự
phát triển của nhà nước. ở đó, nó đã kết tinh được những giá trị dân chủ được sáng
tạo ra trong thời kỳ trước khi giai cấp công nhân cầm quyền, đồng thời thể hiện
được những nhân tố mang tính nhân loại, mang tính nhân dân chứa đựng trong một
số chuẩn mực dân chủ đang được thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa. Sự phát
triển hợp quy luật của các giá trị đó là những nhân tố nội tại dẫn tới phủ định chủ
nghĩa tư bản. Nền dân chủ vô sản với tư cách là nền dân chủ cao về chất so với dân
chủ tư sản cũng chỉ ra đời một khi biết kế thừa, phát triển toàn bộ những giá trị dân
chủ mà loài người đã sáng tạo ra trong lịch sử, đặc biệt là những giá trị dân chủ đạt
được trong chủ nghĩa tư bản.

0


0


2.4. Nhà nước vô sản:
Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử. Tính chất đặc biệt
của nó trước hết là ở chỗ nó chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản,
nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài người. C.Mác khẳng
định: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời
kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền
chun chính cách mạng của giai cấp vô sản”1.
Sự tồn tại của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ này là tất yếu vì trong thời kỳ
q độ xã hội cịn tồn tại các giai cấp bóc lột và các lực lượng xã hội, chúng chống
lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến giai cấp công nhân và nhân dân lao
động phải trấn áp chúng bằng bạo lực. Hơn nữa, trong thời kỳ q độ cịn có các
giai cấp và tầng lớp trung gian khác. Do địa vị kinh tế – xã hội của mình, họ dễ dao
động giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, họ không thể tự mình tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Giai cấp vơ sản phải tìm mọi cách thu hút lực lượng đơng đảo về phía
mình. ở đây, chun chính vơ sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để bảo đảm sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân.
Tính chất đặc biệt của nhà nước vơ sản cịn thể hiện ở chỗ chức năng cơ bản nhất,
chủ yếu nhất của nó khơng phải là chức năng bạo lực mà là chức năng tổ chức xây
dựng kinh tế – xã hội. Khi đề cập tới vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng chun chính
vơ sản khơng phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng khơng phải chủ yếu là
bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Cũng vì những tính chất đặc biệt như vậy của nhà nước vô sản mà những nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định rằng nhà nước vô sản là một kiểu
nhà nước đặc biệt trong lịch sử; đó là “nhà nước khơng cịn ngun nghĩa”, là nhà

nước “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế, xã hội của sự xuất hiện và tồn
tại của nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ khơng cịn. Sự mất đi của nhà nước vô sản
không phải bằng con đường “thủ tiêu”, “xóa bỏ” mà bằng con đường “tự tiêu vong”.
Sự tiêu vong của nhà nước vô sản là một q trình rất lâu dài.
Tính chất đặc biệt của nhà nước vơ sản cịn thể hiện ở cơ sở quyền lực của nhà nước
– đó là nền tảng liên minh cơng – nơng làm nịng cốt cho sự liên minh với mọi tầng
lớp những người lao động khác trong xã hội.
Để thực hiện sứ mệnh của mình, giai cấp cơng nhân cần có sự hỗ trợ, cộng tác, liên
minh, vững chắc và ngày càng củng cố với những người lao động khác. Do vậy,

0

0


chun chính vơ sản là một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân với quần
chúng lao động không vô sản. Nhà nước vô sản do vậy phải là chính quyền của
nhân dân, là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cũng do đó, chế độ dân chủ vô sản là
chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này. Đó là nền dân chủ bao quát toàn
diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó lấy dân chủ trên lĩnh vực kinh tế làm cơ
sở.
Chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ, thiếu sự
thực hiện một cách đầy đủ và mở rộng không ngừng dân chủ. “Phát triển dân chủ
đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình
thức ấy trong thực tiễn, v.v.” là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cách mạng
xã hội chủ nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hịan thiện nhà
nước vơ sản.
Giai cấp cơng nhân khơng chỉ có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh để giải
phóng dân tộc mình, mà cịn có vai trị lịch sử tồn thế giới. Do vậy, chun chính
vơ sản cịn phải làm nghĩa vụ quốc tế của mình, bằng việc giúp đỡ từ mọi phương

diện có thể được cho cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhà nước vô sản là tổ chức, thông qua đó, Đảng của giai cấp cơng nhân thực hiện
vai trị lãnh đạo của mình đối với tồn xã hội. Khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, nhà nước đó khơng giữ được bản chất giai cấp cơng nhân của mình. Do vậy,
bảo đảm vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước là nguyên tắc sống
cịn của chun chính vơ sản. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước không chỉ là
yếu tố bảo đảm bản chất giai cấp vô sản của nhà nước, mà cịn là điều kiện để giữ
tính nhân dân của nhà nước đó. Đây cũng là một tính chất đặc biệt của nhà nước vơ
sản
Nhà nước vơ sản có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Cơng xã Pari năm
1871 đã sản sinh ra nhà nước vô sản kiểu Cơng xã. Hình thức thứ hai của chun
chính vơ sản là Xôviết. Ở một số nước, nhà nước vô sản cịn tồn tại dưới hình thức
nhà nước dân chủ nhân dân v.v..
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nước vơ sản nhiều hình thức
mới. Tính đa dạng của nhà nước đó tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của thời
điểm xác lập nhà nước ấy, tùy thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp và
khối liên minh giai cấp tạo thành cơ sở xã hội của nhà nước, tùy thuộc vào nhiệm vụ
kinh tế – chính trị – xã hội mà nhà nước đó phải thực hiện, tùy thuộc vào

0

0


truyền thống chính trị của dân tộc. Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời kỳ quá
độ có thể rất khác nhau, nhưng bản chất của chúng chỉ là một: chun chính cách
mạng của giai cấp vơ sản

6. Bản chất ưu việt của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn

mạnh một số đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, tồn tại theo nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”.
- Bản chất của hình thức nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Đảng ta tiếp tục khẳng định: “bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đối mới
phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân
chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hồn thiện mơ hình tổ chức của Nhà
nước, phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, coi trọng
kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường
và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân”.
- Sự hình thành và từng bước hoàn thiên nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với
tư cách là một yếu tố của kiến trúc thương tầng, phản ánh sự phù hợp với cơ sở hạ
tầng, có tác động tích cực tới sự phát triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đó là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị.
Xây dựng và từng bước tiến tới hoàn thiên Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

7. Trách nhiệm của bản thân trong xây dựng và bảo vệ nhà nước
- Nhận thức đúng đắn và đầy đủ bản chất của nhà nước.
-Phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân
chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà
nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan
và cán bộ cơng chức Nhà nước.
-Tham gia xây dựng và hồn hiện nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch,

vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
- Nêu cao tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc.
-Tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền, đồng thời coi trọng nền tảng đạo đức.

0

0


0

0



×