Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận cao học phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.31 KB, 21 trang )

MỤC LỤC


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài Tiểu luận
Vấn đề bình đẳng giới là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các quốc
gia trên thế giới trong những thập kỷ qua. Một trong những khía cạnh nằm
trong mối quan tâm ấy là hiện tượng phụ nữ tham gia vào cơng tác lãnh đạo,
quản lý đang ngày càng có xu hướng gia tăng. Sự tham gia của phụ nữ trong
bộ máy lãnh đạo, quản lý được coi là thước đo cơ bản về vai trò của phụ nữ
trong nền chính trị hiện đại.
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm tham gia ký kết và phê chuẩn
Công ước quốc tế về xố bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW). Việt Nam đang tích cực xây dựng một xã hội bình đẳng, dân chủ
và văn minh, vấn đề nam nữ bình quyền được chú trọng hơn bao giờ hết .Việt
Nam cũng là nước được Liên hiệp Quốc đánh giá cao trong việc nỗ lực rút
ngắn khoảng cách Bình đẳng giới trong giáo dục, việc làm, tiền lương…
Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh
thần của phụ nữ, củng cố và tăng cường vị trí và đảm bảo quyền bình đẳng
của phụ nữ trong xã hội, tạo điều kiện và cơ hội cho cho phụ nữ tham gia
ngày càng nhiều hơn vào việc quản lý Nhà nước và xã hội.
Chỉ thị 37/CT-TW ngày 16-5-1994 khẳng định: " Nâng cao tỷ lệ nữ cán
bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế-xã hội là một yêu cầu quan
trọng để htực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát
huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ nữ". Trong lịch sử phát triển
xã hội loài người, bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về giới cũng đều cản trở sự
phát triển bền vững, tạo nên xung đột xã hội. Vì vậy, hướng tới sự bình đẳng
giới mang ý nghĩ hết sức sâu sắc về cả kinh tế, văn hố, chính trị.
Một trong những chỉ tiêu quan trọng mà Liên hiệp Quốc đã khuyến nghị


các quốc gia phải đạt dược trong tương lai là: Đảm bảo khơng ít hơn 30% phụ


2

nữ ở các cương vị hoạch định và giải quyết các chính sách và chủ trương. Phụ
nữ Việt Nam đã có nhiều đóng góp khơng nhỏ vào sự nghiệp phát triển đất
nước. Tuy nhiên, trên thực tế vị thế và vai trò của họ vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng và đóng góp của họ. Trong q trình tham gia cơng tác lãnh đạo,
quản lý, phụ nữ ngày càng có nhiều thuận lợi, song cũng khá nhiều rào cản
ảnh hưởng tới con đường tiến thân của họ. Bao trùm là định kiến giới còn tồn
tại, sự chênh lệch giới trong cơng tác giáo dục cịn cao, tâm lý tự ti an phận
của phụ nữ, chính sách xã hội và những phong tục lạc hậu, kéo theo những
bất cập khác khi họ tiếp cận hay tham gia công tác lãnh đạo, quản lý. Vì thế,
để người phụ nữ tự tin hoạt động trên con đường lãnh đạo, quản lý cùng nam
giới thì Đảng và Nhà nước ta cần có những cơ chế, chính sách và biện pháp
bảo đảm phù hợp hơn để vị thế và vai trò của người phụ nữ Việt Nam được
nâng lên một tầm cao hơn.
Vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài Tiểu luận: "Phụ nữ tham gia
lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay".
2. Mục tiêu và đối tượng nghiên cứu.
2.1. Mục tiêu:
- Đánh giá thực trạng của người phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản
lý ở Việt Nam hiện nay.
- Chỉ ra những rào cản chính mà phụ nữ gặp phải khi làm công tác lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp hỗ trợ để tháo gỡ những rào cản trên.
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu.

- Quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về bình đẳng giới.


3

- Các phương pháp cụ thể: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp nghiên cứu, phương pháp xử lý thông tin...
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
- Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm hiểu rõ hơn một số những luận cứ,
luận chứng cho một số lý thuyết Xã hội học …
- Góp phần đưa ra cái nhìn cụ thể hơn về thực trạng và những bất cập khi
những người phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam. Từ đó, góp phần
đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình giải phóng và
nâng cao vị thế cho người phụ nữ, hướng tới sự bình đẳng giới.
5. Cấu trúc Tiểu luận
A. Mở đầu
B. Nội dung
C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo.


4

B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ MỘT SỐ CÔNG CỤ
1. Giới, giới tính và bình đẳng giới.
Theo điều 5, luật bình đẳng giới của Quốc Hội khố XI, kỳ họp thứ 10 số
73/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định:
- Giới: Chỉ đặc điểm của, vị trí, vai trị của nam và nữ trong tất cả các

mối quan hệ xã hội.
- Giới tính: Chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
- Bình đẳng giới: Là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
- Định kiến giới: Là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về
đặc điểm, vị trí, vai trị và năng lực của nam hoặc nữ.
2. Bất bình đẳng giới và phát triển xã hội.
- Bất bình đẳng giới là khái niệm chỉ sự không ngang bằng nhau về các
cơ hội và lợi ích khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội.
- Phát triển xã hội là khái niệm chỉ sự vận động theo chiều hướng tiến
lên, cái mới, cái tiến bộ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu về mặt xã hội.
Theo nghĩa rộng: Phát triển xã hội là phát triển kinh tế, văn hóa, giáo
dục, y tế …sẽ là nềm tảng để thực hiện bình đẳng giới.
3. Lãnh đạo, quản lý và địa vị xã hội.
- Lãnh đạo là nỗ lực thông qua giá trị để tạo ra động lực ở người khác
khiến họ chủ động, tự hào và tự giác cộng lực vì mục tiêu chung. Nó khiến
người ta có được sức mạnh, có sự thôi thúc từ bên trong để hành động, theo
đuổi và tự chịu trách nhiệm về hành trình cũng như kết quả của mình.
- Quản lý được quan niệm là “nghệ thuật đạt được mục tiêu thông qua
người khác”.


5

- Địa vị xã hội là vị trí xã hội mà tương ứng với nó là những quyền hạn
và nghĩa vụ xác định. Đó là sự lượng giá, sự thẩm định của xã hội về phẩm
chất hay uy tín của một người nào đó tương ứng với cương vị của anh ta.
4. Kinh nghiệm một số nước trong việc giải quyết bình đẳng giới.
4.1. Chính sách tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận việc làm, tham gia chính

trị cho cả nam và nữ:
Tính đến tháng 1/2015, thế giới có 22% số Nghị sỹ tồn cầu là nữ và 19
nước có phụ nữ là người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ (theo Tổ chức
Phụ nữ Liên hợp quốc và IPU). Ở những quốc gia này họ rất quan tâm và tạo
ra nhiều cơ hội cho phụ nữ phát triển, nổi bật là:
- Cơ hội học tập để nâng cao trình độ, năng lực. Theo UNESCO có 32%
quốc gia tỷ lệ nữ sinh viên cao hơn nam sinh viên (Phần Lan, Nhật, Pháp …).
- Chính sách hỗ trợ nữ giới về cơng việc gia đình, coi cơng việc gia đình
là trách nhiệm của vợ, chồng, của Nhà nước, đặc biệt là chăm sóc con cái.
- Hỗ trợ khung pháp lý trong bầu cử, tuyển dụng … bảo đảm tỷ lệ bình
đẳng với nam giới và coi đó là yêu cầu bắt buộc đối với cơ quan Nhà nước.
4.2. Khuyến khích sự san sẻ của nam giới về trách nhiệm gia đình:
Hiện tại ở nhiều quốc gia phát triển, chính sách thai sản rất được coi
trọng, vì nó ảnh hưởng tích cực trực tiếp tới chất lượng cuộc sống của các bà
mẹ, trẻ em và bình đẳng giới. Nổi bật như: Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch …
là các quốc gia có chất lượng sống cho các bà mẹ tốt nhất, với tỷ lệ tử vong
của các bà mẹ và trẻ em thấp, dịch vụ chăm sóc y tế cao, chế độ nghỉ thai sản
khá rộng rãi. Khi phụ nữ ở các nước này nghỉ sinh con thì họ vẫn được nhận
lương cả năm. Những nỗ lực đó đã đưa tới kết quả chỉ số bình đảng giới
(GDI) của họ ln ở thứ bậc dẫn đầu trên thế giới trong nhiều năm qua.
Đây cũng là kinh nghiệm mà Việt Nam cần xem xét, nghiên cứu trong
quá trình thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.


6

II. THỰC TRẠNG PHỤ NỮ THAM GIA LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Phụ nữ Việt Nam tham gia lãnh đạo, quản lý trong lịch sử.
Đánh giá vai trò của phụ nữ đối với lịch sử phát triển của đất nước, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã nói: "non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng
như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ ". Hình ảnh người phụ nữ Việt
nam đã được in đậm trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập
dân tộc của đất nước trong hàng chục thế kỷ. Hình ảnh Hai Bà Trưng với hàng
trăm nữ tướng và đội quân nữ tham gia khởi nghĩa (năm 40 SCN) đã tạo nên
truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc ta.Trưng Vương đi vào lịch sử
như một nữ anh hùng của dân tộc, là người phụ nữ đầu tiên tham gia lãnh đạo
đất nước,…
Bên cạnh những nữ tướng, trong thời kỳ này cịn có những phụ nữ chấp
chính tài ba như: Nguyên phi Ỷ Lan, Thái hậu Dương Vân Nga… Tiếp bước
các nữ anh hùng dân tộc là thế hệ phụ nữ - chiến sĩ cách mạng sau này, như:
Nguyễn Thị Minh Khai, lãnh tụ đầu tiên của phong trào phụ nữ sau khi Đảng
Cộng sản Việt Nam được thành lập; Bí thư thành uỷ đầu tiên của Sài Gòn –
Gia Định, linh hồn của cuộc khởi nghĩa nam Kỳ: Hồng Thị Ngân – Bí thư
đoàn phụ nữ cứu quốc Bắc Bộ….
Thời kỳ chống Mỹ cứu nước lại ghi nhận những đóng góp của những
người phụ nữ như: Nguyễn Thị Thập - Nữ đại biểu Quốc hội từ khoá I đến VI;
Nguyễn Thị Định - Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thống nhất, đồng
thời là Phó chủ tịch Liên đồn phụ nữ quốc tế…
Có thể nói rằng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc cũng như hiện nay,
phụ nữ Việt Nam ln có những đại diện xứng đáng cho giới của mình trong
cơng cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển đất nước.Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ, phụ nữ Việt Nam đã có những cống hiến, hy sinh to


7

lớn cho đất nước, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của cả dân tộc. Trong
công cuộc xây dựng đất nước trên con đường cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
hiện nay, chị em tiếp tục đóng vai trị quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát

triển chung của xã hội.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ trong công tác
lãnh đạo, quản lý.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: "Đảng và Chính
phủ ta cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để
ngày thêm nhiều phụ nũ phụ trách mọi công việc kể cả cơng việc lãnh đạo.
Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa
đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ".
Chỉ thị số 44 CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư TW Đảng “Về một
số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”. Cùng với việc đánh giá những
thành tựu của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước; những
việc đã làm được của các cấp, các ngành trong bồi dưỡng, phát huy khả năng
của phụ nữ, Chỉ thị cũng chỉ ra: Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý và lãnh đạo
giảm sút, nhất là trong các cơ quan quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước; cán bộ
nữ hiện đang giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở cấp tỉnh, thành và Trung ương
phần nhiều lớn tuổi, nhưng diện cán bộ kế cận rất ít; tỷ lệ đảng viên nữ ở
nhiều nơi cũng giảm. Nhiều xã ở một số tỉnh miền Nam, ở miền núi chưa có
đảng viên nữ… Trong phương hướng tăng cường cán bộ nữ, Chỉ thị nêu rõ:
Vấn đề cán bộ nữ phải được đặt trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch
cán bộ nói chung của Đảng và Nhà nước ta. Phải tuyển chọn cán bộ nữ từ
những người ưu tú trong cơng nhân, nơng dân, trí thức xã hội chủ nghĩa, nhất
là trong công nhân đã trải qua rèn luyện trong thực tế phong trào cách mạng
của quần chúng. Phải quyết tâm và có kế hoạch cụ thể đào tạo, bồi dưỡng để
chị em có đủ năng lực, phẩm chất trên cơ sở đề bạt một cách vững chắc…


8

Nhất quán với đường lối đã định, mười năm sau, ngày 16/5/1994 Chỉ thị
số 37-CT/TW (ngày 16-5-1994) “Về một số vấn đề cơng tác cán bộ nữ trong

tình hình mới”, đặt ra việc: Tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm của Đảng
về vấn đề cán bộ nữ; có quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ;
nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp, các ngành; xây dựng chính sách, tạo
điều kiện cho cán bộ nữ làm việc và khuyến khích tài năng nữ phát triển; đẩy
mạnh công tác phát triển đảng trong phụ nữ.
Tiếp đó, từ các kỳ Đại hội đảng ta đều nhấn mạnh vị trí, vai trị và tầm
quan trọng của người phụ nữ trong xã hội. Đặc biêt ngày 27/4/2007, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết có ý nghĩa
quan trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đổi mới công tác
phụ nữ để họ tham gia ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày
càng lớn hơn cho sự phát triển của gia đình, đất nước và thực hiện bình đẳng
giới. Văn kiện Đại hội XII của Đảng (01/2016) xác định phương hướng: Nâng
cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu,
bổ sung và hoàn thiện luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện
để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình. Kiên quyết đấu tranh
chống các tệ nạn xã hội và xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo
lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ.
Quan điểm của Đảng về công tác phụ nữ được thể chế qua các Văn kiện,
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thể hiện quá trình
phát triển về mặt nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phụ nữ, góp
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” và phấn đấu "đến năm 2020, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ
có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa".


9

3. Thực trạng tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt

Nam hiện nay.
Có thể nói, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc giải phóng phụ
nữ, coi đó là một nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng. Đảng có nhiều Văn
kiện, Nghị quyết về công tác cán bộ nữ như Chỉ thị số 37/CT-TW ngày
16/5/1994 của Ban BTTW Đảng “về một số vấn đề cấp bách trong cơng tác
cán bộ nữ trong tình hình mới”, Nghị quyết số 04-NQ/TW của BCT cũng đã
đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ có tính chiến lược
trong tồn bộ cơng tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Những Nghị quyết, Chỉ
thị đó là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta có những chính sách, biện pháp cụ thể
nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý
trong hệ thống chính trị.
Ý thức được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, phụ nữ Việt Nam đã
không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực trong các lĩnh vực công tác, đảm
nhiệm những trọng trách quan trọng. Hầu hết các cán bộ nữ đều khẳng định
được vị trí, năng lực của mình và hiệu quả hoạt động ngày càng tăng. Tỷ lệ nữ
lãnh đạo các cấp, các ngành đã được tăng lên đáng kể trong những năm gần
đây, rõ nhất là trong hệ thống dân cử. Cụ thể:
- Theo thống kê, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đã tăng hơn 20% từ khóa I
(2,5%) đến khóa XII (25,7%), trong đó 6/12 khóa có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc
hội là 25% trở lên.
- Tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004-2011 ở cả ba cấp
đều dưới 30% (cấp tỉnh đạt 23,88%, cấp huyện 22,94% và cấp xã đạt 20,1%).
- Nhiệm kỳ 2010-2015, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt tỷ lệ như sau: Cấp
tỉnh đạt 11,3%, cấp huyện đạt 15,15%, cấp xã 17,98%.
- Tỷ lệ nữ ủy viên chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI vừa đạt 8,57%, tỷ lệ nữ ủy viên dự khuyết đạt 12%. Đáng chú ý, trong


10


nhiệm kỳ 2011-2016 có 02/04 Phó Chủ tịch Quốc hội là nữ. Tuy vậy, trong
Ủy ban thường vụ, chỉ có 02 trong số 12 thành viên là nữ. Trong số 09 Ủy ban
của Quốc hội, hiện chỉ có 01 Ủy ban có chủ tịch là nữ. Tuy nhiên, số lượng
Phó Chủ tịch có tăng nhẹ so với các nhiệm kỳ trước.
Vai trị và vị trí của các nữ đại biểu trong Quốc hội chủ yếu tập trung vào
một số lĩnh vực như các vấn đề xã hội (42%), văn hóa, giáo dục, thiếu niên
nhi đồng (35%) và khá mờ nhạt ở những lĩnh vực khác như ngoại giao (16%),
kinh tế (15%), tư pháp (10%), quốc phòng, an ninh (5%).
Tỷ lệ đại biểu Quốc hội là một con số minh chứng cho vị trí của người
phụ nữ trong Quốc hội nhưng nó chưa thể hiện được hết vai trị của họ trong
hệ thống cơ quan này. Bởi bên cạnh các thành viên chủ chốt của Quốc hội là
các Chủ tịch, Phó Chủ tịch thì Quốc hội Việt Nam cịn được phân chia thành
các Hội đồng và Ủy ban khác nhau để xem xét các đạo luật, sáng kiến pháp
lý, văn bản luật và các báo cáo của Quốc hội trên từng lĩnh vực. Là thành viên
của một Ủy ban hay Hội đồng, các đại biểu sẽ có cơ hội tác động tới các
quyết định trong từng lĩnh vực cụ thể. Hơn nữa, trong số thành viên của các
Ủy ban và Hội đồng, những thành viên chuyên trách cũng có nhiều cơ hội tác
động tới quá trình ra quyết sách hơn so với các thành viên kiêm nhiệm. Do
vậy, tỷ lệ phụ nữ được bầu làm các thành viên chuyên trách của các Ủy ban,
Hội đồng trong Quốc hội sẽ minh chứng rõ nét và chính xác hơn về quyền lực
thực sự của họ trong tổ chức này.
Như vậy, nếu xem xét tỷ lệ nữ giới là đại biểu Quốc hội thì nhiệm kỳ
2011-2016 con số này của Quốc hội Việt Nam là trên 25%. Tuy nhiên, xét
trên quan điểm đã đề cập ở trên thì tỷ lệ nữ giới có vai trò thực sự trong việc
ra quyết sách của Quốc hội chỉ là 17,5%.
Đánh giá chung về trình độ học vấn của nữ đại biểu Quốc hội, Trung
ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cho biết: Tuy tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội


11


khoá XII chưa đạt so với chỉ tiêu đề ra nhưng chất lượng đã cao hơn so với
các khóa trước. Cụ thể, đã có 91,34% đại biểu có trình độ đại học trở lên
(khố XI có 88,98%), trong đó, trên đại học là 32,28%, đại học là 59,06% và
chỉ có 8,66% đại biểu có trình độ dưới đại học. Việc tham gia xây dựng luật
pháp, chính sách và đóng góp ý kiến, tọa đàm với cử tri của các nữ đại biểu
Quốc hội ngày càng có chất lượng.
Sự tham gia của phụ nữ vào các cơ quan dân cử cấp tỉnh, huyện, xã cũng
là một đặc trưng đáng lưu ý. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, quy mô và mức
độ tham gia quản lý của phụ nữ Việt Nam trong hệ thống các cơ quan này vẫn
cịn hạn chế, khơng liên tục và ổn định. Theo đánh giá chung, tỷ lệ nữ trong
Hội đồng nhân dân các cấp tăng không đáng kể. Ngược lại, với số lượng phụ
nữ tham gia ở các cấp uỷ, tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo ở Hội đồng nhân dân càng
xuống cấp dưới càng thấp và thấp nhất ở cấp xã, phường.
Tỷ lệ nữ giới làm Chủ tịch xã, huyện, tỉnh đều rất thấp, tỷ lệ làm Phó
Chủ tịch các cấp có cao hơn so với tỷ lệ làm Chủ tịch nhưng nếu so với nam
giới thì vẫn hết sức chênh lệch. Điều này cho thấy một sự bất bình đẳng
nghiêm trọng giữa nam và nữ, khoảng cách giới về quyền lực tồn tại rất xa.
Những số liệu minh chứng trên cho phép chúng ta đi đến nhận định rằng sự
tham gia của phụ nữ trong quản lý nhà nước ở các cấp còn thấp. Việc đề bạt,
bố trí và sử dụng cán bộ nữ còn nhiều bất cập ở tất cả các cấp và vị trí lãnh
đạo. Tỷ lệ nữ tham gia quản lý nhà nước đã thấp lại chủ yếu đảm nhận vị trí
cấp phó, thừa hành, giúp cho cấp trưởng là nam giới.
Trong tương quan so sánh với thế giới, tính đến cuối năm 2011, Việt
Nam xếp thứ 43 về sự tham gia và đại diện nữ trong hệ thống chính trị, giảm
so với vị trí thứ 36 vào năm 2010 và 33 năm 2008, 31 năm 2007, 25 năm
2006 và 23 năm 2005. Việt Nam xếp thứ 7 trong khu vực châu Á Thái Bình
Dương. Tuy nhiên, đó cũng là kết quả của những nỗ lực, cố gắng của bản thân



12

các nữ cán bộ nói riêng và cả hệ thống chính trị ở nước ta thời gian qua nói
chung. Mặc dù vậy, cơng tác cán bộ nữ vẫn cịn nhiều hạn chế, cụ thể như:
- Tỷ lệ nữ là Bộ trưởng cũng còn thấp, những cán bộ nữ nắm giữ được
những vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị thường đã nhiều tuổi, khơng
có nhiều thời gian để phát huy hết năng lực của mình.
- Nữ lãnh đạo, quản lý cấp Vụ trở lên ở cấp Trung ương và cán bộ nữ
chủ chốt cấp tỉnh hiện nay hầu hết đều ở độ tuổi trên 50, tỷ lệ cán bộ nữ cấp
phòng ở huyện, quận giảm.
Nếu so sánh về việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở nước ta với một
số nước phát triển thì vẫn cịn một khoảng cách xa. Năm 2010, Phần Lan có
một nữ Thủ tướng và là Chủ tịch một đảng cầm quyền (Đảng Trung tâm). Tỷ
lệ nữ trong đại biểu Quốc hội chiếm 40%, 50% tồn nội các... Có đến 38%
tổng số chính quyền địa phương có 9/19 Bộ, 4/7 đảng do phụ nữ đứng đầu.
Các đảng phái chính trị ở Phần Lan đều thực hiện giới thiệu nữ vào ban lãnh
đạo cũng như tham gia ứng cử chính quyền các cấp bằng cách lập danh sách
ứng cử xen kẽ một nam, một nữ. Na Uy có hệ thống đào tạo cán bộ lãnh đạo
nữ rất tốt cho cả khu vực công và tư. Ở Thụy Điển, tỷ lệ nữ tham gia nội các
Chính phủ là 50% và 47% đại biểu Quốc hội là nữ.
Như vậy, so với những nước này, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt
Nam vẫn thấp hơn (25% so với khoảng hơn 40%). Vậy, lý do tại sao mà phụ
nữ Việt Nam mặc dù vị thế trong lĩnh vực chính trị của họ đã được nâng lên
nhưng vẫn còn hạn chế, rào cản là do đâu?
4. Những rào cản chính mà phụ nữ Việt Nam gặp phải khi tham gia
hoạt động lãnh đạo, quản lý trong xã hội.
Nhìn chung, phụ nữ Việt nam đã có những đóng góp khơng nhỏ vào sự
phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, vai trị và vị trí của họ vẫn chưa
xứng đáng với năng lực và sự đóng góp ấy, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có



13

những chủ trương và chính sách nhằm xố bỏ khoảng cách giữa nam giới và
nữ giới trong nhiều lĩnh vực. Những phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo,
quản lý đã không ngừng phấn đấu nỗ lực để vươn lên trên con đường sự
nghiệp nhưng khoảng cách giới vẫn cịn khá xa, bởi họ gặp khơng ít những
khó khăn hơn so với nam giới.
4.1. Tồn tại sự chênh lệch giới trong cơng tác giáo dục:
Trình độ học vấn là một yếu tố quan trọng cấu thành năng lực của người
cán bộ. Vì vậy, đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng để đề bạt, bổ
nhiệm phụ nữ vào những vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, tuy mức độ chênh lệch về trình độ giữa nam và nữ ở cấp học thấp
khơng đáng kể nhưng ở trình độ học vấn càng cao thì mức chênh lệch về giới
lại càng lớn. Tỷ lệ nữ giới đạt học vị tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, giáo sư thấp hơn
khoảng từ 5 đến 18 lần so với nam giới. Năm 2007, tỷ lệ cán bộ nữ được
phong hàm Phó Giáo sư chỉ chiếm 11,67%, trong khi đó tỷ lệ này của nam
giới là 88,33%. Đối với học hàm Giáo sư, phụ nữ cũng chỉ chiếm 5,1%, nam
giới chiếm tới 94,9%. Học vị Tiến sĩ khoa học, nam giới - 90,22%, phụ nữ 9,78%; học vị Tiến sĩ, nam giới - 82,98%, phụ nữ - 17,02%.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch giới về trình độ học vấn
ở mức cao như: Ở lứa tuổi này, phụ nữ thường bận rộn với công việc gia đình,
sinh con và chăm sóc con, phụ nữ thường nhường cơ hội học tập cao cho
người chồng của mình… Tuy nhiên, khi tỷ lệ phụ nữ có trình độ học vấn cao
thấp hơn nam giới thì họ sẽ bị thua kém hơn về cơ hội trong việc tham gia vào
các vị trí lãnh đạo, quản lý trong xã hội.
4.2. Định kiến giới vẫn còn tồn tại:
Việt Nam là một nước nơng nghiệp, trải qua hàng nghìn năm thuộc địa
phong kiến nên ý thức hệ phong kiến với quan niệm “trọng nam khinh nữ”;
việc làm quan, công việc đại sự là của nam giới, phụ nữ chỉ lo việc bếp núc



14

trong nhà, đã ăn sâu vào nếp nghĩ của không ít người. Mặc dù, hiện nay pháp
luật đã dần công nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực
nhưng tâm lý này vẫn còn tồn tại trong một bộ phận nhân dân, trong đó có
một bộ phận khơng nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Điều đó là một trở ngại cho
sự tham gia công tác lãnh đạo, quản lý của nữ giới. Bởi lẽ khi cấp trên khơng
tin tưởng thì sẽ khơng cất nhắc, đề bạt họ lên những vị trí quan trọng, chủ
chốt, khơng mạnh dạn giao việc cho cán bộ nữ đúng lúc, đúng việc, đúng tầm.
4.3. Tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ:
Do hoàn cảnh lịch sử để lại, phụ nữ ít có điều kiện, cơ hội để tham gia
những cơng việc trọng đại của cộng đồng, đất nước, ít có cơ hội để khẳng
định mình trước nam giới. Chính vì vậy, đã hình thành tâm lý tự ti, thiếu tin
tưởng vào khả năng của mình trong chính bản thân phụ nữ. Hơn nữa, với
thiên chức làm vợ, làm mẹ của mình, người phụ nữ có trọng trách rất lớn
trong việc xây dựng gia đình.
Chế độ xã hội phong kiến kéo dài hàng nghìn năm đã cột chặt người phụ
nữ vào trọng trách đó. Do vậy, mặc dù khi xã hội phát triển, phụ nữ được
tham gia các hoạt động xã hội nhiều hơn nhưng trước mâu thuẫn giữa sự
nghiệp và gia đình, nhiều phụ nữ có tâm lý an phận, đặt gia đình quan trọng
hơn sự nghiệp. Họ chấp nhận tham gia các hoạt động xã hội ít đi để có thể
dành được nhiều thời gian lo lắng, chăm sóc cho gia đình hơn. Thế nên, ngay
bản thân phụ nữ cũng đã tự dựng lên cho mình trở ngại trong việc tham gia
lãnh đạo, quản lý. Kết quả khảo sát thực tế về những khó khăn, cản trở mục
tiêu sự nghiệp phân tích theo giới tính cũng cho thấy, lý do vì là phụ nữ chiếm
10,7%, trong khi tỷ lệ tương ứng này ở nam giới chỉ là 1%.
4.4. Chính sách xã hội:
Một điều đáng quan tâm hiện nay là những cản trở về cơ chế, chính sách
đối với sự thăng tiến của phụ nữ. Một số chính sách đối với cán bộ nữ hiện



15

nay đã khơng cịn phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước về bình đẳng
giới và yêu cầu thực tiễn đặt ra, vẫn chậm được nghiên cứu sửa đổi làm ảnh
hưởng tiêu cực tới sự phát triển và hạn chế đóng góp của đội ngũ cán bộ nữ
nước ta.
Ví dụ: Tại "Điều 145 Bộ luật lao động quy định tuổi nghỉ hưu của nam là
60, nữ là 55; Thông báo 155/TB_Tc/TW ngày 15/7/1998 quy định tuổi bổ
nhiệm, đề bạt đối với cán bộ nam là 55 tuổi trở xuống, đối với cán bộ nữ là từ
50 tuổi trở xuống …" vì thế cán bộ nữ đã thấp lại bị hạn chế bởi tuổi nghỉ hưu
và tuổi đề bạt nên càng thiệt thịi hơn.
4.5. Văn hố truyền thống, tập tục phong kiến:
Ở Việt Nam những tập tục phong kiến, những nét văn hoá truyền thống
được coi là cổ hủ, lạc hậu cũng đã cản bước khơng ít tới việc phụ nữ tham gia
chính trị. Nam giới có thể đi đêm, về hơm, làm những điều họ thích… cịn
phụ nữ thì bị hạn chế rất nhiều. Những chuẩn mực bao đời nay gán vào nam
giới là chuyện bình thường, cịn với phụ nữ thì có mấy ai chấp nhận những
hành vi này? Chúng ta đang bước vào trình độ văn minh của xã hội XHCN
nhưng những tâm tính, sở thích, cách suy nghĩ vẫn mang nặng tư tưởng "trọng
nam khinh nữ ". Điều đó cũng được thể hiện ngay trong cả khi tiến hành bầu
cử HĐND, thái độ của người dân vẫn thiên về phía nam giới nhiều hơn.
III. GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA PHỤ NỮ
VÀO CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ HIỆN NAY
Phụ nữ muốn thăng tiến, muốn được nhìn nhận thì phải làm việc rất nỗ
lực và phải vượt qua nhiều thách thức hơn so với nam giới. Trở ngại chủ quan
có thể đến từ chính bản thân phụ nữ, khi họ khơng vượt qua được áp lực từ
chính mình. Các trở ngại khách quan phổ biến khác có thể bao gồm những rào
cản từ thể chế, chính sách, định kiến xã hội và áp lực xã hội. Trên cơ sở nhận

định như vậy, một số định hướng giải pháp có thể được đưa ra nhằm khắc


16

phục những rào cản khách quan và chủ quan, tạo điều kiện cho phụ nữ tham
gia ngày càng sâu rộng vào các hoạt động xã hội nói chung và vào cơng tác
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị nói riêng.
1. Thực hiện khắc phục định kiến giới.
Phụ nữ phải được xã hội và đặc biệt là nam giới tơn trọng, ủng hộ thì vai
trị của họ trong xã hội mới được phát huy. Nếu những cán bộ lãnh đạo, quản
lý có nhận thức đúng đắn về giới thì họ sẽ công bằng hơn trong đào tạo, đánh
giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ dù là nam hay nữ. Nếu nam giới nhận thức đúng
đắn hơn về bình đẳng giới thì họ sẽ cùng chia sẻ, gánh vác cơng việc gia đình
với phụ nữ theo điều kiện và khả năng có thể, tạo điều kiện cho phụ nữ có
thêm cơ hội để nâng cao trình độ học vấn, có thêm thời gian để làm việc, cống
hiến và tham gia cơng tác lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, để xóa bỏ một tâm lý,
tư tưởng đã ăn sâu trong nếp nghĩ của nhiều thế hệ người Việt Nam không
phải là việc dễ dàng, nó địi hỏi nỗ lực cao độ trong cơng tác giáo dục về bình
đẳng giới. Bởi lẽ, mặc dù pháp luật đã thừa nhận sự bình đẳng giới bằng văn
bản chính thống, nhưng nếu những tư tưởng, định kiến về giới vẫn cịn tồn tại
dù là khơng cơng khai thì cũng vẫn là cản trở rất lớn đối với việc tham gia
lãnh đạo, quản lý của phụ nữ. Chính vì vậy “đào tạo lại thế hệ người lớn tuổi
hiện nay là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là đào tạo thế hệ trẻ, bởi vì chính
thế hệ trẻ (có lẽ phải vài ba thế hệ kế tiếp nhau) mới có khả năng vượt qua
những định kiến do lịch sử để lại, rằng việc làm quan là việc của đàn ơng, cịn
việc nội trợ là việc của đàn bà”.
2. Có kế hoạch phát triển cán bộ nữ cụ thể.
Việc thay đổi định kiến về giới phải được biểu hiện bằng những hành
động mang tính thực tế, đó là phải có kế hoạch phát triển cán bộ nữ mang tính

chiến lược lâu dài và có tính đột phá. Chính vì vậy, cấp ủy và người đứng đầu
cơ quan, đơn vị cần phải có kế hoạch thiết thực trong việc đào tạo, bồi dưỡng


17

và cất nhắc cán bộ nữ. Tức là các cấp lãnh đạo cần phải thường xuyên quan
tâm, xây dựng chỉ tiêu cụ thể, chi tiết trong từng năm, từng thời kỳ cho công
tác cán bộ nữ và nghiêm túc thực hiện. Trong đó, phải coi việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nữ là khâu nền tảng. Nếu không chú ý đến việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nữ thì phụ nữ sẽ khó hội tụ đủ điều kiện và tiêu chuẩn để được
đề bạt, bổ nhiệm, cất nhắc.
3. Bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên.
Nếu như Đảng và Nhà nước tạo mọi điều kiện để phụ nữ phát huy hết
khả năng, trí tuệ của mình mà chính bản thân phụ nữ khơng cố gắng vươn lên
thì cũng khơng có ý nghĩa gì. Vì vậy, phụ nữ trước hết phải xóa bỏ tâm lý tự ti
và tin tưởng vào khả năng của mình. Khi đủ tự tin, phụ nữ sẽ khơng quản ngại
khó khăn, sẽ nỗ lực học tập để khẳng định mình, bởi lẽ chỉ có tự nâng cao
trình độ, trí tuệ thì phụ nữ mới có thể đảm đương được mọi công việc mà
Đảng và Nhà nước giao phó. Nếu khơng khẳng định được năng lực của mình
tương xứng với nam giới thì cơng tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn.
4. Phát triển các dịch vụ xã hội về gia đình.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng điều kiện để
người phụ nữ có thể tham gia vào nền sản xuất xã hội là phải làm công việc
nhà rất ít. Trong khi đó, thực tế cho thấy, phụ nữ hầu như phải dành nhiều thời
gian và tâm sức hơn nam giới cho cơng việc gia đình. Do đó, để phụ nữ có thể
phát huy hết khả năng của mình trong cơng tác lãnh đạo, quản lý thì phải phát
triển tốt các dịch vụ liên quan đến gia đình như: Nhà trẻ, nhà hàng, dịch vụ
dọn dẹp nhà cửa… nhằm giải phóng phụ nữ khỏi một phần cơng việc gia

đình. Nhà nước cần đầu tư, phát triển rộng khắp các dịch vụ xã hội liên quan
đến gia đình với mức chi phí phù hợp để nhiều gia đình có thể sử dụng các
dịch vụ này.


18

* Ngồi ra, có thể thực hiện lồng ghép cùng một số giải pháp khác
như:
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức vai trò của các cấp uỷ đảng, của thủ
trưởng đơn vị về thực hiện bình đẳng giới, nâng cao năng lực của phụ nữ.
- Tăng cường cải cách thể chế, luật pháp trên nền tảng của phát triển kinh
tế - xã hội.
- Nghiên cứu xây dựng khả thi mô hình bộ phận chuyên trách cán bộ nữ.
Từng ngành nghề, chức vụ, cấp bậc nhất định mà đảm bảo cơ cấu giới hợp
tình hợp lý...
Tuy nhiên, các giải pháp phải được thực hiện một cách đồng bộ mới có
thể góp phần vào việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ Việt Nam vào các
vị trí lãnh đạo, quản lý. Nó địi hỏi sự nỗ lực, cố gắng thay đổi trong cả nhận
thức và hành động của toàn xã hội, cả nam giới và nữ giới. Việc thực hiện
bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong chính trị nói riêng, là nhiệm vụ
chung của tồn xã hội, khơng phải là công việc của riêng một giới nào.


19

C. KẾT LUẬN
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta ln coi trọng xây dựng và
phát triển các chính sách, chương trình nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và bảo
đảm quyền cho phụ nữ. Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ Việt Nam cũng đạt

được những bước tiến quan trọng, hiện Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia
có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao trong khu vực và trên thế giới, đứng thứ
43/143 trên thế giới và thứ 2 trong 8 nước ASEAN có Nghị viện.
Những phân tích nêu trên cho thấy, xu hướng chung của phụ nữ làm lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay là có sự gia tăng khơng đồng đều và khá
chậm. Hiện nay, thông qua việc tham gia lãnh đạo, quản lý, phụ nữ đã có
nhiều đóng góp to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, tỷ lệ này không đồng đều ở các
lĩnh vực và bị hạn chế về số lượng, thậm chí, ở nhiều cơ quan, tổ chức, phụ
nữ lãnh đạo, quản lý ít có thực quyền. So với u cầu của sự nghiệp đổi mới
đất nước, số lượng nữ ở các cương vị quản lý như vậy chưa tương xứng với
vai trị, vị trí và những đóng góp của họ trong các hoạt động phát triển. Sự
thiếu hụt cán bộ nữ trên một số lĩnh vực quan trọng làm cho việc hoạch định
kế hoạch, chính sách thiếu tiếng nói đại diện của phụ nữ, dẫn đến thực hiện
bình đẳng giới về mọi mặt chưa đạt kết quả mong muốn.


20

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật bình đẳng giới số 73/2006/QH ngày 29/11/2006.
2. Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb ĐHQGHN,200,T6
3. Giáo trình cao cấp lý luận chính trị tập 14. Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
4. Giáo trình cao cấp lý luận chính trị mơn Khoa học lãnh đạo, quản lý.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
5. PGS, TS. Nguyễn Thị Vân Hạnh “Sự tham gia của phụ nữ vào hệ
thống chính trị ở Việt Nam hiện nay”.
6. Và một số tài liệu, bài viết khác có liên quan.




×