Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu đối với phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.9 KB, 8 trang )

QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

TÁC ĐỘNG CỦA THIÊN TAI VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Vũ Thị Nhung*

Tóm tắt: Thiên tai và biến đổi khí hậu (BĐKH) đang là những thách thức lớn nhất đối với
nhân loại, có tác động bất lợi trên nhiều lĩnh vực của đời sống trên cả quy mơ tồn cầu, khu vực
và quốc gia. BĐKH không những khiến nhiệt độ tăng và nước biển dâng, mà còn khiến cho các
thảm họa thiên tai biến động mạnh hơn cả về không gian, thời gian, xảy ra với tần suất nhiều hơn
và diễn biến bất thường hơn. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của
các thảm họa thiên tai và BĐKH. Trên cơ sở khái quát về tình hình các thảm họa thiên tai và
những biểu hiện của BĐKH tại Việt Nam, bài viết tập trung làm rõ những tác động của các hiện
tượng này đối với phát triển bền vững ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm ứng phó với thiên tai và thích ứng với BĐKH hướng tới phát triển bền vững ở Việt Nam.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu; Phát triển bền vững; Tác động; Thiên tai; Việt Nam.
1. Tổng quan về tình hình thiên tai và biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay
BĐKH “là sự thay đổi của khí hậu do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của hoạt động của
con người khiến thành phần của bầu khí quyển tồn cầu biến đổi và làm tăng tính biến động của
khí hậu tự nhiên được quan sát trong thời gian so sánh” (Ngân hàng Phát triển châu Á, 2015, tr.
1). Các biểu hiện của BĐKH bao gồm nhiệt độ trung bình tồn cầu tăng lên; sự dâng cao mực
nước biển do giãn nở vì nhiệt và băng tan; sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển; sự di
chuyển của các đới khí hậu trên các vùng khác nhau của trái đất; sự thay đổi cường độ hoạt động
của q trình hồn lưu khí quyển, chu trình tuần hồn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh
địa hóa khác; sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của
thủy quyển, sinh quyển và địa quyển. Trong các biểu hiện trên, sự gia tăng nhiệt độ trung bình
tồn cầu và mực nước biển dâng thường được coi là hai biểu hiện chính của BĐKH (Nguyễn Thị
Lan, 2019).
Theo Báo cáo của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) về Tình trạng Khí hậu Tồn cầu năm
2020, nhiệt độ trung bình tồn cầu từ tháng 01 đến tháng 10 năm 2020 cao hơn khoảng 1,2°C so
với đường nhiệt cơ sở giai đoạn 1850-1900 (đây là mức được sử dụng làm giá trị ước tính của thời


*

Thạc sĩ, Giảng viên khoa Lý luận chính trị & Khoa học xã hội nhân văn, Học viện An ninh nhân dân, email:


118


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

kỳ tiền công nghiệp) (WMO, 2021). Năm 2020 là một trong ba năm ấm nhất được ghi nhận trên
toàn cầu. Hiện nay, Bắc Cực và Bắc Siberia phải chịu nền nhiệt độ trung bình vơ cùng khắc nghiệt
với một khu vực rộng lớn cao hơn 3°C so với mức trung bình dài hạn. Sự tăng lên của nhiệt độ
trung bình tồn cầu làm cho băng tan ở các vùng cực, trên đỉnh núi cao, cùng với sự giãn nở nước
ở các đại dương làm cho mực nước trung bình ở các biển và đại dương trên tồn thế giới tăng cao.
Theo ước tính của Ủy ban Liên chính phủ Liên Hợp quốc về BĐKH mực nước biển trung bình
trên thế giới tăng 4mm mỗi năm. Các nhà khoa học cũng dự báo, đến năm 2100, mực nước biển
có thể dâng cao lên tới 1,3m (dẫn lại Mạnh Hùng, 2020).
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, diễn biến của khí hậu cũng có những nét tương đồng với
tình hình chung trên thế giới. Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm cả nước tăng khoảng
0,62°C. Nghiên cứu về “Tác động của biến đổi khí hậu tới tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt
Nam” của Cơ quan Phát triển quốc tế Đan Mạch, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương,
Đại học Copenhaghen và Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển Thế giới dự báo đến năm 2050, nhiệt
độ của Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 1,5 đến 2oC (CIEM và DOE, 2012).
Thiên tai và BĐKH luôn được xem là những vấn đề phức tạp, vừa mang tính cấp bách trước
mắt, vừa mang tính lâu dài, tác động tới tất cả các vùng, miền, các lĩnh vực, từ tự nhiên đến kinh
tế xã hội trên phạm vi tồn cầu và tới tiến trình phát triển bền vững của các quốc gia. Nếu xem xét
BĐKH một cách toàn diện, BĐKH ở những mức độ nhất định và những khu vực nhất định cũng
có những tác động tích cực. Chẳng hạn, nhiệt độ tăng, nắng nhiều là cơ hội cho phát triển năng
lượng mặt trời. Trong sản xuất nông nghiệp, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ

tạo cơ hội để thúc đẩy các nước đổi mới công nghệ, phát triển các công nghệ sạch, công nghệ thân
thiện với môi trường và các hoạt động nghiên cứu và phát triển nói chung có liên quan. Ở một số
nước ơn đới, khi nhiệt độ tăng lên, sẽ thuận lợi hơn để phát triển nông nghiệp, năng lượng để sưởi
ấm cũng được tiết kiệm hơn. Tuy nhiên, những năm gần đây, BĐKH dẫn đến việc các thảm họa
thiên tai xảy ra với tần suất cao, cường độ mạnh và diễn biến khó lường, không theo quy luật,
không chỉ gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, mà cịn gây khó khăn cho việc thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên toàn cầu.
Là quốc gia nằm trên bán đảo Đơng Dương, có Biển Đơng thơng ra Thái Bình Dương, với
hơn 75% dân số sống dọc theo một bờ biển dài hơn 3260km và tập trung tại 2 khu vực đồng bằng
(Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long), Việt Nam là một trong những quốc gia bị
ảnh hưởng và chịu tác động nặng nề nhất của BĐKH. Các hiểm họa, thiên tai liên quan đến khí
hậu như bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, sạt lở đất có tần suất ngày càng gia tăng. Những kỷ
lục mới vẫn được thiết lập mỗi năm. Các cụm từ “mưa lớn kỷ lục”, “nắng nóng kỷ lục”, “kỷ lục
về lũ lụt” đã và đang xuất hiện ngày càng phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng trong
những năm gần đây.
Do đặc điểm địa lý, mỗi khu vực có vị trí và địa hình khác nhau, mức độ chịu ảnh hưởng của
BĐKH đối với mỗi vùng cũng khác nhau và xuất hiện các loại thiên tai khác nhau.
119


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Với hai vùng đồng bằng, hiện nay, Đồng bằng sông Cửu Long là vùng chịu tác động nặng nề
nhất của BĐKH bởi tình trạng ngập mặn và triều cường do nước biển dâng. Theo tính tốn kịch
bản BĐKH của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ tăng khoảng 3,4oC,
mực nước biển tăng thêm 1m và sẽ có khoảng 40% diện tích đất ở khu vực này bị ngập vĩnh viễn
(Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016).
Đối với khu vực miền núi, ảnh hưởng chính của BĐKH là gây ra các hiện tượng thiên tai
mang tính bất thường. Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, BĐKH gây ra mưa lớn và đặc biệt
lớn xảy ra thường xuyên trên diện rộng và cục bộ, bất thường hơn về thời gian, tần suất và cường

độ. Điều này đã dẫn tới tình trạng lũ lớn, ngập lụt, lũ quét, sạt lở đất, lốc xoáy, mưa đá, xảy ra tập
trung chủ yếu vào nửa đêm và sáng sớm, nhanh và nguy hiểm. Ngoài ra, ở khu vực Miền núi Bắc
Trung Bộ vào mùa hè, nền nhiệt tăng, cùng với khô hạn dễ dẫn đến cháy rừng, suy giảm đa dạng
sinh học. Trong khi đó, vào mùa đơng, ở khu vực Miền núi phía Bắc, nhiệt độ giảm sâu gây ra rét
đậm, rét hại, tuyết, băng giá xảy ra thường xuyên hơn, thời gian kéo dài hơn và bất thường hơn.
Bên cạnh đó, vùng Duyên hải Trung Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, Trung du Bắc bộ và Tây Nguyên
cũng chịu rủi ro cao hơn và dễ bị tổn thương hơn do nắng nóng xảy ra với tần suất và cường độ
ngày càng gay gắt hơn, dẫn tới tình trạng hạn hán và thiếu nước, tăng hoang mạc hóa ở Việt Nam.
Ngoài ra, hàng năm, Việt Nam phải gánh chịu hàng chục cơn bão và các đợt áp thấp nhiệt
đới. Số lượng các cơn bão có cường độ mạnh có xu thế tăng lên. Mùa mưa bão có xu hướng kết
thúc muộn hơn trước đây và nhiều cơn bão đổ bộ vào khu vực phía Nam trong những năm gần
đây, nhất là khu vực ven biển miền Trung và các vùng biển phía Nam.
2. Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu tới sự phát triển bền vững ở Việt Nam
Các thảm họa thiên tai và BĐKH trên đang hiện hữu ngày càng nhiều hơn, rõ rệt hơn và ảnh
hướng tới sự phát triển bền vững ở Việt Nam bởi những tác động trực tiếp cũng như gián tiếp tới
đời sống, sức khỏe người dân, tới sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước và tới mơi trường sinh
thái. Điều đó sẽ đe dọa tới việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nếu chúng ta khơng có kế
hoạch tổng thể để giảm thiểu rủi ro thiên tai và thích ứng với BĐKH với tầm nhìn dài hạn.
Trước hết, tác động của thiên tai và BĐKH đối với đời sống và sức khỏe con người.
Sự thay đổi của thời tiết và khí hậu kết hợp với các hiện tượng thiên tai như bão, lũ lụt, nóng
và hạn hán đang trở thành mối đe dọa trực tiếp với sức khỏe người dân. Đây cũng là môi trường
sống lý tưởng cho các loài muỗi, những loài ký sinh, chuột và nhiều sinh vật mang bệnh khác. Do
đó, nhiều loại dịch bệnh sẽ gia tăng dưới tác động của sự thay đổi nhiệt độ và hoàn cảnh, nhất là
bệnh sốt xuất huyết, sốt rét, viêm não, bệnh về phổi,… Đồng thời nhiều loại bệnh khác trên người
và gia súc, gia cầm sẽ có khả năng bùng nổ trên diện rộng. Những bệnh này có diễn biến phức tạp,
bất thường và gây ra những thiệt hại đáng kể, thậm chí có thể dẫn đến tử vong và những bệnh tật
nghiêm trọng khác.
120



RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Bên cạnh đó, thiên tai và BĐKH cũng đe dọa trực tiếp môi trường sống của con người, từ đó
ảnh hưởng tới đời sống và hoạt động lao động sản xuất, công ăn việc làm của người dân. Điển
hình như tình trạng ơ nhiễm mơi trường gia tăng; nguồn cung cấp thực phẩm, nguyên nhiên liệu
phục vụ cho sinh hoạt và lao động, sản xuất và cả thu nhập của con người cũng sẽ thay đổi theo
chiều hướng giảm xuống. Những thiệt hại về người và tài sản là vô cùng lớn mỗi khi các thảm họa
thiên tai xảy ra. Trong đó, nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số, những người có thu nhập thấp, phụ
thuộc vào khí hậu, người già, phụ nữ, trẻ em, người bị bệnh tật chịu sự ảnh hưởng cao nhất do
thiên tai và BĐKH. Họ sẽ phải đối mặt với những rủi ro ngày càng gia tăng. Vì vậy mà thiên tai
và BĐKH sẽ là trở ngại lớn đối với những nỗ lực giảm nghèo và các mục tiêu về an sinh xã hội
khác của quốc gia và từng người dân.
Hai là, BĐKH ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Tùy vào điều kiện của từng vùng chịu tác động của các yếu tố khác nhau, những ngành lĩnh
vực có mức độ phơi bày và độ nhạy cao với thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan sẽ chịu
ảnh hưởng nhiều nhất. Là nước nơng nghiệp, hiện nay, Việt Nam cịn phụ thuộc rất nhiều vào thời
tiết. Khi nhiệt độ, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu tăng, gây ra các thảm họa
thiên tai, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất nơng nghiệp. Tình trạng ngập mặn, mưa bão, ngập lụt
trái mùa, sạt lở đất, hạn hán, nắng nóng kéo dài, thay đổi mơi trường nước,… sẽ khơng chỉ làm
thu hẹp diện tích và làm giảm chất lượng đất và nước canh tác nơng nghiệp mà cịn làm gia tăng
dịch bệnh, dịch hại trong nông nghiệp; từ đó sẽ ảnh hưởng đến sự phân bổ của cây trồng, rau màu,
vật nuôi, làm giảm năng suất nông sản. Vì vậy, điều này sẽ đặt ra những thách thức, đe dọa đến
đời sống của nông dân.
Vấn đề xuất khẩu gạo và an ninh lương thực cũng sẽ bị đe dọa nếu như khơng có biện pháp
chủ động phịng ngừa. BĐKH làm giảm năng suất một số loại cây trồng chủ lực. Dự báo đến năm
2100, khu vực Đồng bằng sơng Cửu Long có nguy cơ bị ngập 89.473 ha, tương ứng sẽ mất khoảng
7,6 triệu tấn lúa/năm nếu nước biển dâng 100 cm (Lê Minh Nhật, 2019). Khi đó, Việt Nam sẽ có
nguy cơ thiếu lương thực trầm trọng, làm gia tăng tỷ lệ đói nghèo,...
Thiên tai và BĐKH còn ảnh hưởng tới cơ sở vật chất hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông
vận tải. Theo nghiên cứu của kịch bản BĐKH, nếu mực nước biển dâng cao 1m thì sẽ có khoảng

9% hệ thống đường quốc lộ, 12% hệ thống đường tỉnh lộ, 4% hệ thống đường sắt sẽ bị ảnh hưởng,
trong đó tập trung nhiều nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng chiếm 28% đường quốc lộ và 27%
đường tỉnh lộ của cả nước, tiếp đến là các tỉnh ven biển miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long
(Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016).
Ngồi ra, các thảm họa thiên tai và BĐKH cịn ảnh hưởng rất nhiều đến ngành công nghiệp,
du lịch, thương mại, năng lượng và các hoạt động kinh tế khác một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Những ảnh hưởng này trong những năm vừa qua đã biểu hiện khá rõ nét và mỗi ngành, lĩnh vực
đều có thể đánh giá được ảnh hưởng của BĐKH. Từ đó, thiên tai và BĐKH tác động đến năng
suất, sản lượng và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nên các chu kì tăng trưởng không bền vững.
121


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Theo dự báo của Kịch bản nước biển dâng của Bộ Tài Nguyên và Môi trường, các tác động ở mức
nhẹ nhất của thiên tai và BĐKH cũng khiến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) nước ta giai đoạn
2046-2050 giảm từ 0-2,5%. GDP năm 2050 của Việt Nam, theo đó, thiệt hại do thiên tai và
BĐKHlên đến khoảng 40 tỷ USD(Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016).
Ba là, thiên tai và BĐKH sẽ làm giảm đa dạng sinh học, ảnh hưởng tới tài nguyên và hệ
sinh thái.
Thiên tai và BĐKH đã đẩy nhiều lồi sinh vật tới tình trạng suy giảm số lượng hoặc tuyệt
chủng do môi trường sống của các loài động thực vật ngày càng bị thu hẹp. Khi các thảm họa thiên
tai xảy ra, đặc biệt là hiện tượng sa mạc hóa, ngập mặn và nước trên các đại dương ngày càng ấm
hơn, nhiều lồi khơng thể thích ứng kịp thời với những biến đổi trên. Chẳng hạn, tại các khu vực
ven biển, khi nước biển dâng cao, cây sẽ chết vì ngập mặn, diện tích hệ thống rừng ngập mặn đóng
vai trị là lá chắn của vùng sẽ giảm. Do đó, các lồi sinh vật khác trong hệ sinh thái rừng ngập mặn
sẽ bị đe dọa.
Đặc biệt, thiên tai và BĐKH đang làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài
nguyên nước. Trong khi nhu cầu nước sinh hoạt cho con người, nước phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, năng lượng,… đều tăng, sự suy thoái tài nguyên nước cả về số lượng và chất

lượng sẽ trở nên trầm trọng hơn bởi tình trạng lượng bốc hơi của các thủy lực (ao hồ, sông, suối)
tăng, sự thay đổi về lượng mưa, lượng nước ngầm,… Hiện nay, Việt Nam được xếp vào nhóm các
quốc gia thiếu nước với tổng bình qn đầu người cả nước mặt và nước ngầm trên phạm vi lãnh
thổ là 4400m3/người/năm (so với bình quân thế giới là 7400m3/người/năm) (Bộ Tài ngun và
Mơi trường, 2018).
Ngồi ra, thiên tai và BĐKH còn làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần xã sinh vật của
nhiều hệ sinh thá, nhất là trong các hệ sinh thái ven biển, các lồi nhiệt đới sẽ giảm đi và có xu
hướng chuyển dịch lên các đới và vĩ độ cao hơn. Nhiệt độ tăng còn làm gia tăng khả năng cháy
rừng, nhất là các khu rừng trên đất than bùn, vừa gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa tăng lượng
phát thải khí nhà kính và làm gia tăng BĐKH. Điều đó sẽ dẫn tới sự nhiễu loạn của nhiều hệ sinh
thái, sự xâm lấn của các sinh vật lạ và sinh vật biến đổi gen và vấn đề an ninh môi trường, an ninh
sinh thái càng trở nên cấp bách hơn.
Tóm lại, những tác động của thiên tai và BĐKH trên đang đặt ra những thách thức, nguy cơ
rất lớn đối với sự ổn định và phát triển đất nước trong tiến trình phát triển bền vững. Vì vậy, chủ
động ứng phó với thiên tai và BĐKH là một trong những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước và là trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trị chủ đạo.
Tuy nhiên, chúng ta khơng chỉ coi đây là thách thức, mà còn là cơ hội thúc đẩy chuyển đổi
mơ hình tăng trưởng theo hướng bền vững. Thời gian qua, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động
để giảm thiểu rủi ro thiên tai và chủ động thích ứng với BĐKH. Điển hình là nâng cấp mở rộng
các kênh rạch thoát lũ; nạo vét các kênh rạch, kết hợp nâng cấp các đê bao kiểm soát lũ bảo vệ sản
122


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

xuất lúa màu, cây ăn trái; củng cố và nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông, đê cửa sông; đầu tư,
nâng cấp các công trình cấp nước nơng thơn, các cơng trình vệ sinh tự hoại, theo hướng chủ động
thích ứng với BĐKH.
3. Khuyến nghị

Trong tương lai, BĐKH sẽ tiếp tục diễn biến khó lường và những tác động bất lợi của nó sẽ
ngày càng nghiêm trọng. Để thực sự chủ động trong ứng phó với thiên tai, thích ứng với BĐKH,
hướng tới xây dựng “quốc gia có khả năng quản lý rủi ro thiên tai” góp phần phát triển bền vững
đất nước, thời gian tới cần lưu ý một số nội dung sau:
Thứ nhất, tăng cường phổ biến, truyền thông để quán triệt chủ trương, giải pháp của Đảng,
Nhà nước; nâng cao nhận thức về ảnh hưởng của thiên tai và BĐKH, nâng cao kỹ năng phịng,
chống thiên tai và thích ứng với BĐKH; chủ động ứng phó với thiên tai và thích ứng với BĐKHđối
với mọi tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành nhất là những diễn biến trong bối cảnh mới. Cần
coi BĐKHvà thiên tai là tình trạng “bình thường mới” của nước ta, từ đó huy động sức mạnh tổng
hợp của cả cộng đồng trong cơng tác phịng chống thiên tai và thích ứng với BĐKH.
Thứ hai, tiếp tục rà sốt để hồn thiện các khn khổ pháp luật và cơ chế chính sách có liên
quan đến các vấn đề thiên tai, BĐKH và phát triển bền vững như chính sách đất đai, thu hút đầu
tư, tín dụng và bảo hiểm. Đặc biệt, quá trình quy hoạch và xây dựng hệ thống chính sách và pháp
luật của nước ta hiện nay cần phải được tiếp cận theo cả hai hướng: chính sách, pháp luật chuyên
về thiên tai và BĐKH và lồng ghép việc thích ứng với BĐKH trong chính sách pháp luật của một
số ngành, lĩnh vực có liên quan trực tiếp (nông nghiệp, công nghiệp, du lịch,…); để từ đó có những
biện pháp chủ động ứng phó phù hợp với những ảnh hưởng của thiên tai và BĐKH đối với từng
ngành, lĩnh vực và từng vùng phù hợp với thực tiễn đang và sẽ diễn ra. Trong đó cần chú ý tới
những kịch bản BĐKH, nhất là kịch bản nước biển dâng thêm 1m từ nay đến cuối thế kỷ 21 để có
những tính tốn đầy đủ và phương án quy hoạch phù hợp đối với hoạt động sản xuất các ngành,
lĩnh vực, phân bố dân cư và chuyển đổi phát triển kinh tế theo cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ
phù hợp nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thứ ba, tăng cường công tác đầu tư nhằm nâng cao năng lực ứng phó với thiên tai và thích
ứng với BĐKH. Đây là yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo phát triển bền vững. Theo đó, Nhà
nước ưu tiên bố trí nguồn lực cho cơng tác phịng chống thiên tai và thích ứng với BĐKH trên
phạm vi cả nước. Các địa phương chủ động bố trí nguồn lực để ứng phó với thiên tai và thích ứng
với BĐKH trên địa bàn. Đặc biệt cần nâng cao năng lực theo dõi, giám sát, dự báo, cảnh báo, phân
tích thiên tai; nâng cao và ứng dụng khoa học cơng nghệ ứng phó với thiên tai như các phương
tiện, trang thiết bị phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tiên tiến, hiện đại.
Thứ tư, cần phân công, phân cấp, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các bộ ban ngành,

các địa phương trong ứng phó với thiên tai và thích ứng với BĐKH; đảm bảo sự phối hợp và điều
phối theo chiều dọc và chiều ngang một cách hiệu quả; đồng thời, tổ chức lực lượng làm cơng tác
ứng phó với thiên tai và thích ứng với BĐKH theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, bảo đảm hiệu
123


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

lực, hiệu quả và được trang bị đầy đủ kiến thức và trang thiết bị cần thiết với những phương tiện,
trang thiết bị phịng chống thiên tai và thích ứng với BĐKH tiên tiến, hiện đại.
Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các mơ hình canh tác sinh thái mới,
hiệu quả, cho phép chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thủy sản phù hợp với những diễn biến
thời tiết khắc nghiệt như các mơ hình kinh tế dựa vào hệ sinh thái, dựa vào cộng đồng và dựa vào
tự nhiên cho mỗi địa phương; lấy kiến thức bản địa kết hợp với khoa học công nghệ mới, đặt sinh
kế và sự an toàn của người dân lên hàng đầu. Từ những kết quả đạt được, cần nhân rộng mơ hình
cho từng địa phương, cho từng vùng.
Thứ sáu, huy động tài chính đầu tư cho hoạt động ứng phó với thiên tai và thích ứng với
BĐKH; trong đó nâng cao vai trị của doanh nghiệp và người dân nhằm tạo ra cơ chế tạo nguồn
lực, nhất là nguồn lực tài chính. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân tham gia vào cơng tác phịng chống thiên tai. Bên cạnh đó, cần phối hợp với các
tổ chức, các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; tăng cường hơn nữa hợp tác quốc tế, nắm bắt
cơ hội để có những chuyển giao về khoa học cơng nghệ thế hệ mới, đầu tư tài chính và kinh nghiệm
quốc tế trong ứng phó với thiên tai và thích ứng với BĐKH.
4. Kết luận
Trước những tác động của thiên tai và BĐKH, Việt Nam cần chủ động ứng phó và thích ứng;
cần nâng cao năng lực của nền kinh tế thông qua việc đổi mới mơ hình tăng trưởng, hướng tới
trăng trưởng xanh, lựa chọn các ngành kinh tế phù hợp để tập trung phát triển. Đồng thời,cần sử
dụng mạnh mẽ hơn các biện pháp nhằm tăng cường khả năng ứng phó với thiên tai và nâng cao
năng lực cộng đồng thích ứng với BĐKH. Nhưng trước tiên, cần thay đổi dần tư duy và hành động
để chủ động ứng phó với thiên tai và thích ứng với BĐKH một cách hiệu quả thơng qua những

việc làm thiết thực và có ý nghĩa trong cuộc sống hàng ngày, như sử dụng tiết kiệm tài nguyên và
giảm chi phí, khai thác sử dụng nguồn năng lượng sạch và ít gây hại; tích cực trồng rừng, bảo vệ
rừng, trồng các loại cây xanh ở nơi công cộng, công viên, ven đường, ven sông, trong sân nhà,…
Như vậy, thiên tai và BĐKH không chỉ là “thách thức” mà còn là “cơ hội” để Việt Nam cùng các
quốc gia trên thế giới phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016). Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho
Việt Nam.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018). Thông báo quốc gia lần thứ 3 của Việt Nam cho
công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu.
3. CIEM và DOE (2012). Tác động của biến đổi khí hậu tới tăng trưởng và phát triển kinh tế
ở Việt Nam, Nxb Thống kê.
124


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

4. Mạnh Hùng (2020). Biến đổi khí hậu vẫn tiếp tục hồnh hành dữ dội trong năm 2020,
/>5. Nguyễn Thị Lan (2019). Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới kinh tế nơng
nghiệp Việt Nam, Tạp chí tài chính, kỳ I tháng 9/2019, />6. Lê Minh Nhật (2019). Nơng nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, Báo Nhân dân cuối
tuần, tháng 1/2019, />7. Ngân hàng phát triển châu Á (2015). Sổ tay tập huấn nhằm hỗ trợ giới biến đổi khí hậu
theo mục tiêu quốc gia- Chính sách, chiến lược và xây dựng chương trình.
8. WMO (2021), The State of the Global Climate 2020.

125



×