Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Vai trò của Đông Dương tạp chí trong việc hình thành thể loại kịch tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.83 KB, 5 trang )

VAI TRỊ CỦA ĐƠNG DƯƠNG TẠP CHÍ
TRONG VIỆC HÌNH THÀNH THỂ LOẠI KỊCH TẠI VIỆT NAM
Tạ Anh Thư
TĨM TẮT
Q trình thâm nhập của thể loại kịch có thể kể từ việc thực dân Pháp đưa vào chương
trình học ở Việt Nam nhiều tác phẩm văn học Pháp, trong đó có kịch bản văn học. Do đó, nhiều
người xuất thân từ nhà trường Pháp – Việt đã nắm bắt sơ bộ về kịch bản, sân khấu và chính họ
chứ khơng ai khác đã cầm lá cờ tiên phong trong việc xây dựng nền kịch nói nước ta.. Một
trong số đó là Nguyễn Văn Vĩnh với tờ Đơng Dương tạp chí. Đóng góp của Đơng Dương tạp
chí đối với thể loại này chủ yếu là trên phương diện kịch bản.
Từ Khố: Đơng Dương tạp chí, Kịch Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kịch là một thể loại mới, có nguồn gốc từ phương Tây và du nhập vào Việt Nam trong
những năm đầu thế kỷ XX. Kịch ra đời để đáp ứng những nhu cầu thị hiếu của lớp công chúng
mới. Dù rằng, trước đó, nước ta cũng đã có những thể loại tuồng, chèo. Tuy vậy, trong bối cảnh
xã hội giao thời đầu thế kỷ XX, lớp thị dân mới đã nảy sinh những nhu cầu mới theo sự thay
đổi của tâm thức xã hội. Những cải biến ở thể loại tuồng, chèo cũng đã đem lại một số thành
tựu nhất định tuy nhiên vẫn khơng cứu vãn nổi tình hình. Nói như Nguyễn Văn Vĩnh trong
Đơng Dương tạp chí, thì sân khấu ta xưa chỉ là một ước thể, “nghĩa là chỉ dùng những cách
phác diễn ra cho người ta biết việc thế nào mà thôi, chứ không cần phải tả cho in sự thực”.
Tuy là một thể loại văn học sinh sau đẻ muộn nhưng kịch lại có ý nghĩa đặc biệt. Có thể
nói, cùng với tiểu thuyết và Thơ Mới, sự ra đời và phát triển của kịch nói đã tạo một bước ngoặt
trong lịch sử văn học Việt Nam. Kịch là một trong ba loại hình văn học bên cạnh tự sự và trữ tình.
Nó được coi là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, vừa thuộc về sân khấu vừa thuộc về văn học.
2. NỘI DUNG
Như đã trình bày, để hiện đại hố, văn học Việt Nam cần phát triển các thể loại mới. Trữ
tình vốn là thế mạnh của nền văn học trung đại, vì vậy cần phải ưu tiên hơn cho thể loại tự sự
và kịch. Về mặt cải cách ngôn ngữ văn học, thể loại này rất thích hợp để làm hình mẫu cho sự
ra đời những tác phẩm văn học mang tính hiện đại.
Ngơn ngữ kịch là một hệ thống ngơn ngữ mang tính hành động, tức là thứ ngơn ngữ
mang đặc tính tranh luận, biện bác, tác động trực tiếp và thúc đẩy mâu thuẫn, xung đột tăng tiến


tạo kịch tính với những sắc thái tấn cơng phản cơng; thăm dò lảng tránh; chất vấn chối cãi;
thuyết phục phủ nhận; cầu xin từ chối; đe doạ, coi thường. Hệ thống ngơn ngữ ấy có nhiệm vụ
mơ tả chân dung nhân vật kịch bằng một loạt các thao tác, hành động.
567


Ngồi ra, ngơn ngữ kịch cũng thể hiện cao độ đặc tính sống động, giàu chất thơng tục của
ngơn ngữ đời thường. Khác với hình thái ngơn ngữ mang tính ước lệ; cách điệu trong ngôn ngữ
truyền thống như tuồng, chèo hoặc cải lương, ngơn ngữ kịch nói khơng sử dụng thứ ngôn ngữ xa lạ
với đời sống mà sử dụng ngôn ngữ hội thoại giản dị, tự nhiên, gần với cuộc sống thường ngày. Tuy
nhiên, sự giản dị tự nhiên ấy khơng mâu thuẫn với cách nói năng giàu ẩn ý và mang tính hình tượng
mà có ý nghĩa triết lý sâu xa – điều thường có và phải có trong tác phẩm kịch. Là một hình thái
ngơn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ trong tác phẩm kịch phải đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện.
Chính vì những đặc điểm này, khi kịch du nhập vào Việt Nam, các nhà nghiên cứu, biên khảo
lịch sử văn học Việt Nam cận – hiện đại đều thống nhất với nhau ở một điểm: coi đây là những sự
kiện mới có ý nghĩa quyết định, làm thay đổi diện mạo của cả nền văn học. Bởi với sự ra đời và
phát triển của thể loại này, văn học Việt Nam đã gia nhập vào quỹ đạo của nền văn học thế giới.
Với tư cách một thể loại văn học, cũng giống như ở tiểu thuyết, thoạt đầu, một số kịch bản
Việt Nam được phóng tác từ kịch nước ngồi; sau đó, những kịch bản thuần Việt mới xuất hiện.
Văn xuôi tự sự và kịch vốn rất gần gũi, vì thế, việc chuyển thể từ truyện ngắn truyện vừa
rất dễ xảy ra: Từ 1920, một vở kịch mang tên Ai giết người? đã được diễn ở rạp Quảng Lạc.
Tác giả kịch bản nói rõ mình phỏng theo truyện ngắn cùng tên của Mân Châu Nguyễn Mạnh
Bổng in trên Nam Phong. Về sau, các tiểu thuyết nổi tiếng như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt,
Lá ngọc cành vàng… đều có lúc được chuyển thể đề diễn trên sân khấu.
Một trong những dấu hiệu quan trọng nhất, chứng tỏ một thể tài văn học đã hình thành
đó là nhiều nhà văn tìm đến thử sức ở lĩnh vực kịch. Bắt đầu hình thành một loại tác gia ở Việt
Nam: những nhà viết kịch. Đó là Nam Xương (các vở Chàng ngốc, Ông Tây An Nam), Vũ Đình
Long (Tồ án lương tâm, Chén thuốc độc), Vi Huyền Đắc (Kim tiền) Đoàn Phú Tứ (Ngã ba).
Một số tác giả trên còn viết cả các thể tài khác, nhưng họ vẫn nổi hơn cả ở lĩnh vực kịch.
Ngược lại, một số tác giả khác, chủ yếu làm thơ viết truyện, cũng có lúc tạt ngang sang kịch.

Thái Phỉ có Học làm sang, Phùng Bảo Thạch có Văn Sĩ, Vũ Trọng Phụng có Khơng một tiếng vang,
Khái Hưng có Tục lụy và Đồng bệnh, Thâm Tâm có nhiều kịch ngắn đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy,
và báo Bắc Hà. Đó là chưa kể các kịch thơ của Phạm Huy Thông, Hàn Mặc Tử, Phan Khắc Khoan…
Quá trình thâm nhập của thể loại kịch có thể kể từ việc thực dân Pháp đưa vào chương
trình học ở Việt Nam nhiều tác phẩm văn học Pháp, trong đó có kịch bản văn học. Do đó, nhiều
người xuất thân từ nhà trường Pháp Việt đã nắm bắt sơ bộ về kịch bản, sân khấu và chính họ
chứ khơng ai khác đã cầm lá cờ tiên phong trong việc xây dựng nền kịch nói nước ta.
Nhắc đến sự ra đời của thể loại này ở Việt Nam, người ta thường kể ra những cái tên quen
thuộc như Trần Tuấn Khải, Thế Lữ, Vũ Đình Long, Vi Huyền Đắc. Ít người biết rằng, bên cạnh
những đóng góp của các nhân vật này thì đã có nhiều nỗ lực trước đó của những người làm văn
học, văn hố. Một trong số đó là Nguyễn Văn Vĩnh với tờ Đơng Dương tạp chí. Đóng góp của
Đơng Dương tạp chí đối với thể loại này chủ yếu là trên phương diện kịch bản.56
Ngay từ thời cổ đại, trong lịch sử văn học và nghệ thuật phương Tây đã tồn tại thuật ngữ Drame. Bản thân thuật
ngữ này đã cho ta thấy rất rõ đời sống hai mặt của tác phẩm kịch: đời sống văn học thể hiện ở phương diện kịch
bản còn đời sống sân khấu được thể hiện ở phương diện vở diễn. Dù tồn tại ở phương diện nào đi nữa thì đều được
gọi là kịch. Tuy nhiên, khi kịch du nhập vào Việt Nam, để phân biệt với tuồng, chèo và cải lương, người ta thường
gọi là kịch nói. Theo thời gian, nó trở thành tên gọi chính thức được cả giới văn học và sân khấu thừa nhận.
56

568


Kịch rất được Nguyễn Văn Vĩnh ưa chuộng. Từ năm 1914, ơng cho ra mắt bản dịch trích
đoạn vở kịch Trưởng giả học làm sang, với nhan đề "Sự lựa chọn của một tầng lớp" (1914/ số
77). Đến đầu năm 1915, Đơng Dương tạp chí cịn đăng một đoạn kịch Kẻ bủn xỉn với tựa đề
“Harpagon vừa khám phá chiếc hộp bị mất cắp” (1915/ số 6). Kể từ năm 1915, tạp chí đăng
mục "Giới thiệu kịch nghệ của người Pháp" (1915/ số 18 và 19), song song với nhiều bản dịch
của kịch Molière đăng trong tạp chí: le Bourgeois Gentillhomme (số7 đến 27) và Tartuffe (số
28 đến 51) để giới thiệu rộng rãi hơn nữa thể loại này đến với công chúng.
Khi giới thiệu 2 kịch bản kể trên, Nguyễn Văn Vĩnh còn gợi ý để đưa hai vở kịch ấy lên

sân khấu. Khi dịch vở kịch La Tartuffe, ông viết:
“Trước khi in ra bản dịch này, tôi đã thử dịch theo điệu tuồng ta, nhưng không thể dịch
được. Điệu tuồng ta phải có đối, mà hễ câu nệ cho đối cho chọi thì lạc mất nguyên văn. Duy
chỉ có lối lục bát và lối ngâm, thỉnh thoảng đưa vài câu phú, lại châm tiếng trợ ngữ vào, là theo
được điệu Tây, mà diễn được gọi là đôi chút tinh thần văn Tây ra. Cho nên tôi theo lối ấy, có
lẽ khi dịch xong đem ra rạp, mà thử hát, mượn giọng nói của phường tuồng, mà bắt chước
giọng “diễn thơ” của Tây. Lấy văn ta dịch văn Tây, chẳng qua là mượn cái ước thể của mình
có sẵn, để mà tả những điều mình chưa tả bao giờ”. (1915/ số 28, tr.225)
Ông tin rằng, theo đà tiến triển của tư duy nghệ thuật mới, các nhà văn đầu thế kỉ sẽ viết
kịch theo phương pháp của châu Âu cốt “diễn ra cho người ta trông thấy, nghe thấy, cho người
ta cảm giác một cái quang cảnh đặt ra, đã y như là sự thật vậy”. Tuy nghệ thuật viết kịch ở ta
nhiều mặt cịn đang ở trong tình trạng ấu trĩ nhưng riêng sự có mặt của nó, việc nó gia nhập vào
đời sống văn học, đã góp phần đánh dấu những bước chuyển biến trong hệ thống thể loại mà
người ta sẽ thấy kéo dài trong suốt mấy chục năm ròng.
Những chia sẻ trên của chủ bút Đơng Dương tạp chí một lần nữa khẳng định những đóng
góp khơng nhỏ của tờ báo trong việc phát triển một loại hình sân khấu mới, làm phong phú
thêm đời sống văn hoá, văn học của dân tộc.
Để thấy được tính tiên phong trong việc phát triển thể loại mới này của Đơng Dương tạp
chí, chúng ta hãy thử làm phép so sánh với tình hình sân khấu ở Nam Bộ vào cùng thời điểm trên.
Trước khi kịch nói được giới thiệu ở miền Bắc, ở miền Nam, công chúng đã biết tới loại
hình này. Vào năm 1863 đã có các gánh hát Tây qua diễn tại Sài Gòn để giải sầu cho khách
viễn chinh. Ban đầu, họ hát tại nhà của Thủy Sư Đề đốc tại nơi gọi là Cơng trường Đồng hồ
(Place de l’Horloge) góc Tự Do và Nguyễn Du ngày nay, lúc ấy nhà thờ lớn chưa có. Từ năm
1907 tại Sài Gịn đã có ấn hành tờ Tạp chí Sân khấu (Saigon théâtre) giới thiệu, phê bình các
vở diễn tại nhà hát Đơ Thành. Năm 1918, Lê Quang Liêm (Đốc Phủ Bảy) cộng tác với ký giả
Đặng Thúc Liêng cho cơng diễn vở kịch Hồng tử Cảnh du Tây hay còn gọi là Gia Long tẩu
quốc. Đây là vở được viết theo lối văn biền ngẫu, được diễn theo cách nói lối, phong cách giống
kịch cổ điển Pháp, hồn tồn khơng có ca nhạc gì trong đó (trước đó, diễn kịch thường hay kết
hợp với ca nhạc) và là vở kịch có nội dung ca ngợi Đại Pháp.
Dù được giới thiệu đầu tiên tại Nam Bộ, thể loại kịch nói ở vùng đất này đã khơng phát

sâu rộng hơn để thành trào lưu dẫn đầu cả nước trong giai đoạn đầu thế kỷ XX. Người dân Nam
Bộ thời điểm này vẫn chuộng loại hình nghệ thuật Cải lương hơn hết.
Tiền thân của nghệ thuật Cải lương nghệ thuật Carabộ. Carabộ có nguồn gốc từ loại hình
đờn ca tài tử - một hình thức ca nhạc dân gian. Theo nhiều tài liệu và các nghệ nhân kể lại, những
569


người chơi nhạc tài tử xuất hiện từ năm 1890 ở miền Đông Nam Bộ.57 Từ năm 1910 đến 1914 ở
Nam Bộ nở rộ hàng loạt các ban đờn ca tài tử. Theo ông Trần Văn Khải cho biết: “bài Tứ đại oán
cải biên thành lối carabộ năm 1914, lúc đầu là văn kể chuyện do cô Ba Đắc ca, có dàn nhạc tài tử
mặc quốc phục ngồi trang nghiêm trên bộ ván tứ. Đến năm 1915, ơng phó Mười Hai ở Vĩnh Long
qui tựu anh em tài tử, rồi cho ba người thủ vai Bùi ông, Bùi Kiệm, Nguyệt Nga, đứng trên ván
vừa ca vừa ra bộ”. Đây là sự hình thành hình thức sân khấu đầu tiên ở Nam Bộ.
Bên cạnh sự phát triển của loại hình đờn ca tài tử Nam Bộ, loại hình cải lương cịn được
hình thành nên từ sự cách tân của nghệ thuật hát bội.
Sau khi độc chiếm Đông Dương, người Pháp ở Sài Gịn mở nhà hát Tây, để các đồn
nghệ thuật Pháp sang biểu diễn. Sự biểu diễn nghệ thuật ấy nhằm phục vụ người Pháp, nhưng
những trí thức, những người thân Pháp thường vào xem, điều ấy tác động tới những người Việt
có tư tưởng đổi mới. “Xem cách trình diễn với màn, cảnh, có thời gian tạm nghỉ diễn để khán
giả có thể giải lao, lại có những tấm phơng, đề sơn thuỷ, panơ; khơng có trống chầu đưa hơi,
khơng có dàn nhạc người lộ liễu, khơng có điệu bộ ước lệ như hát bội”. [6]
Thêm vào đó, với sự tác động của văn học Pháp, qua những vở nhạc kịch Opera rất gần
với cải lương, các soạn giả, diễn viên hát bội đã nghĩ đến cải cách hát ca. Sự hợp tác các soạn
giả với diễn viên đã không ngừng cải cách hát bội, đầu tiên là cải cách điệu hát Nam của tuồng
gần với hình thức hát nói của kịch Tây, “Gánh này diễn nửa hát bội, nửa kịch, xiêm y áo giáp
thì mượn xưa nhưng diễn tả thì đã theo tân thời, nói lối xng khơng hát Nam, hát Khách”.
Hình thức diễn tuồng do cải cách hát bội gọi là hát bộ, nghĩa là hình thức diễn có điệu bộ minh
hoạ cho lời ca. Đây là tiền thân của nghệ thuật ca diễn cải lương.
Mãi đến năm 1925, soạn giả Trung Tín mới thử khuấy động sự quan tâm của cơng chúng dành
Sài Gịn cho kịch nói một lần nữa bằng việc viết các vở như Toa toa moa moa, Kẻ ăn mắm, người

khát nước… trong đó có xen lẫn vài điệu hát cải lương, nhưng lại khơng cơng diễn trên sân khấu.
Trong khi đó, tại Hà Nội, năm 1911 Nhà hát TP Hà Nội mới xây dựng xong. Ngày 25.4.1920,
tại đây đã diễn vở Người bệnh tưởng (Le malade imaginaire) của Molière do Nguyễn Văn Vĩnh dịch
sang tiếng tiếng Việt. Báo chí đã ghi nhận sự kiện này và “mong rằng sân khấu Việt Nam sẽ diễn
những vở hài kịch theo lối Thái Tây để bổ ích cho nhân tâm, phong tục nước nhà” (Thực Nghiệp dân
báo số 7/1920). Sau đó, cơng chúng được xem những vở kịch khác như Ai giết người của Tô Giang
- phỏng theo truyện ngắn của Mân Châu in trên Nam Phong tạp chí số 28, rồi Già kén kẹn hom của
Phạm Ngọc Khơi, rồi Mảnh gương đời, Bình địa ba đào của Trần Tuấn Khải v.v…Sân khấu kịch nói
Việt Nam đang đi những bước đầu tiên trên đường hình thành. Thế nhưng, phải đợi đến ngày
22.10.1921 người ta mới thật sự tin tưởng vào loại hình nghệ thuật này. Đó là này cơng diễn vở kịch
Chén thuốc độc của Vũ Đình Long (tại Nhà hát Hà Nội) do Bắc Kỳ Công thương Đồng nghiệp Ái
hữu tổ chức. Sự kiện này đã đánh dấu một cột mốc quan trọng cho sân khấu kịch nói. [7]
Như vậy, cùng một bối cảnh xã hội chịu sự tiếp nhận, ảnh hưởng của sân khấu Pháp, cùng
một nhu cầu cơng chúng địi hỏi một nền văn hoá nghệ thuật mới nhưng đã dẫn đến những con
đường phát triển nghệ thuật khác nhau ở miền Nam và miền Bắc. Sự ra đời của cải lương ở Nam
Tài tử” nghĩa là những người chơi nhạc tuỳ hứng, tự do đàn hát, ứng tác, khơng mang tính chuyên nghiệp, không
phải là một nghề kiếm sống. Để ra đời một nhóm nhạc tài tử thì trước đó cần có những nghệ nhân chơi đàn tự do,
chỉ để mua vui bạn bè, giải trí cá nhân. Sau đó, người nọ truyền lại người kia, truyền nghề lẫn nhau đi tới việc hình
thành các nhóm nhạc đàn ca, trở thành trào lưu chơi nhạc trong những ngày vui.
57

570


Bộ như cái gạch nối giữa sân khấu cổ truyền với nghệ thuật kịch nói phương Tây, là một biểu
hiện độc đáo của sự tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa phương Tây thơng qua sự cải biên cho thích
hợp với thói quen của cơng chúng. Trong khi đó, ở miền Bắc, kịch nói được tiếp nhận trực tiếp,
bắt rễ ngay và nhanh chóng phát triển trở thành một loại hình nghệ thuật tân kỳ rất được u thích.
3. KẾT LUẬN
Nhìn lại quá trình du nhập kịch - một hình thức nghệ thuật phương Tây vào nước ta những

năm đầu thế kỷ XX và sự vận động của nó cho đến nay, có thể lý giải phần nào tình trạng “đi trước
về sau” của văn học Nam Bộ. Sự du nhập tiểu thuyết theo hình thức phương Tây vào nước ta, phần
nào cũng có đặc điểm giống như cách du nhập kịch nói. Có thể thấy rằng, một mặt các trí thức Nam
Bộ rất nhạy bén trong việc tiếp thu cái mới đến từ bên ngoài, mặt khác họ lại bộc lộ thói quen nửa
vời, thiếu triệt để, thiếu đồng bộ, đi sâu dứt điểm đối với những nhân tố ngoại sinh. Điều này không
chỉ trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật mà rộng ra cả các lĩnh vực khác của văn hóa. Tính chất nước
đơi - vừa tỏ ra nhạy bén với cái mới đến từ bên ngoài lại vừa có gì đó dè dặt, dị ứng với cái lạ khiến trí thức Nam Bộ đầu thế kỉ thường khơng tìm kiếm đến thấu đáo những giá trị mới, nhân tố
mới của văn hóa, nghệ thuật thế giới mà nơn nóng, vội vã ứng dụng, cải biến ngay vào thực tế nhân
danh “dân tộc hóa”, “bản địa hóa”. Điều này dẫn đến hậu quả các giá trị mới ít khi nào được nhận
thức đầy đủ mà bị biến dạng, sai lạc so với nguyên bản nên việc vận dụng nó cũng khơng sao tránh
khỏi cục bộ, bó hẹp, dẫn đến sự trì trệ, luẩn quẩn. Vì thế, ban đầu văn học quốc ngữ miền Nam có
ưu thế hơn để phát triển nhưng chính miền Bắc lại vượt lên và gặt hái thành tựu ở chặng về sau. Vai
trò của Đơng Dương tạp chí với việc hình thành thể loại kịch ở Việt Nam là ở vị trí mở đường và
chủ yếu trên phương diện kịch bản, chủ yếu thông qua các tác phẩm dịch thuật. Bởi qua dịch thuật,
thể loại kịch mới được du nhập, tạo nên những tương tác để làm biến đổi cấu trúc bên trong của thể
loại cũ (tuồng, cèo) và từng bước làm thay đổi mối tương quan về cơ cấu thể loại nói chung. Đóng
góp của Đơng Dương tạp chí cho kịch bản Việt Nam là đã đăng các kịch bản được phóng tác từ
kịch nước ngồi; từ đó, những kịch bản thuần Việt mới xuất hiện tiếp sau. Nhìn chung, những đóng
góp trong việc hình thành thể loại kịch, mà cụ thể là kịch bản văn học, chưa rõ nét như mong đợi
của những nhà nghiên cứu sau này. Nhưng ở giai đoạn đầu thế kỷ, khi mà tờ báo đóng vai trị tiên
phong, phát quang bụi rậm để tạo ra đường mới cho nền văn học quốc ngữ nước nhà còn non trẻ
thì những đóng góp của Đơng Dương tạp chí là vô cùng to lớn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Kim Anh (2004). Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Nxb Đại học Quốc gia.
2. Hồng Chương (1985). 120 năm báo chí Việt Nam. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Duy Diễn, Bằng Phong (1961). Luận đề về Đơng Dương tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh,
Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục. Sài Gịn: Khai Trí xuất bản.
4. Đặng Anh Đào (2001). Gió Đơng gió Tây: ảnh hưởng và giao thoa trong văn học Việt Nam hiện
đại. Hợp tuyển cơng trình nghiên cứu. Nxb Giáo dục.
5. Lê Trí Viễn, Phan Cơn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hồi Nam (1965). Giáo trình lịch sử văn

học Việt Nam giai đoạn 1858 – đầu thế kỷ XX. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
6. Lịch sử hình thành và phát triển kịch nói Nam Bộ, nguồn: 20/03/2016
7. Lê Minh Quốc, Về vở kịch mở đầu cho sân khấu kịch Việt Nam, nguồn: 18/03/2016

571



×