Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ từ đầu thế kỷ XXI đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.31 KB, 9 trang )

QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM –HOA KỲ
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XXI ĐẾN NAY
Nguyễn Thị Kim Ánh1
1. Khoa Sư phạm
TÓM TẮT
Quan hệ Việt Nam –Hoa kỳ có nhiều thăng trầm vì những vấn đề trong lịch sử ngoại giao
giữa hai nước. Sau khi Hoa kỳ tun bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1995 đến
nay (2022), quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước đã có nhiều thành tựu to lớn. Dịch
Covid 19 đã ảnh hưởng mạnh đến tình hình đầu tư nước ngồi ở Việt Nam. Tuy nhiên, chính
phủ Việt Nam đã có chương trình phục hồi và phát triển kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư nước ngoài (trong đó có Hoa kỳ)tiếp tục đầu tư ở Việt Nam, từ đó triển vọng quan
hệ kinh tế Việt Nam- Hoa kỳ đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
Từ khóa: BTA Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa kỳ); PNTR (Quy chế quan hệ thương
mại bình thường và vĩnh viễn)
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam trong q trình hội nhập tồn cầu đã khẳng định vị thế của mình trong khối
ASEAN, gia nhập WTO và tiếp tục con đường hội nhập và phát triển đất nước toàn diện. Trong
các mối quan hệ đa phương với nhiều nước trên thế giới có lẽ thiết lập quan hệ với Hoa kỳ là
khó khăn nhất vì những vấn đề trong lịch sử của hai nước. Điều thú vị và đáng tiếc là trong lịch
sử Hoa kỳ và Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội để thiết lập quan hệ kinh tế.
Hiện nay, quan hệ kinh tế Việt Nam –Hoa kỳ trên cơ sở lợi ích của hai nước đã thúc đẩy
kinh tế Việt Nam phát triển mạnh trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Biểu hiện quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa kỳ thăng hoa nhất là từ 1995 đến nay (2022),
được phân tích trên cơ sở những thành tựu quan hệ kinh tế giữa hai nước trong hai lĩnh vực
thương mại và đầu tư.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp lịch sử nghiên cứu mối quan hệ kinh tế Việt nam-Hoa kỳ qua góc nhìn lịch
sử từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XXI, sử dụng nguồn tư liệu thành văn để phân tích, so
sánh, nhận xét, đánh giá mối quan hệ kinh tế giữa hai nước qua hai lĩnh vực thương mại và đầu
tư. Trình bày các sự kiện lịch sử theo trình tự thời gian (phương pháp logic).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN


Bài viết góp phần tư liệu cho sinh viên Chương trình Quốc tế học của trường đại học Thủ
Dầu Một; Sinh viên Chương trình Sư phạm lịch sử tham khảo để vận dụng giảng dạy chủ đề
572


“Nước Mỹ” theo phương pháp tích hợp trong Chương trình giáo dục phổ thơng mới 2018.Điểm
mới của chương trình giáo dục phổ thông 2018 trong các chủ đề lịch sử thế giới là cập nhật tình
hình thế giới đến hiện nay (2022) và kết nối tri thức với cuộc sống.Các giáo sinh khi dạy về chủ
đề nước Mỹ sẽ kết nối nội môn (lịch sử Thế giới và lịch sử Việt Nam) cụ thể là phân tích mối
quan hệ kinh tế-văn hóa của nước Mỹ với Việt Nam hiện nay
3.1.Sơ lược lịch sử quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến cuối thế
kỷ XX
Nhìn dưới góc độ lịch sử, quan hệ Việt Nam-Hoa kỳ có quá trình lâu dài và khá nhiều
thăng trầm.Vậy Hoa kỳ đã bắt đầu muốn thiết lập quan hệ buôn bán với Việt Nam khi nào?Vì
sao hai nước đều bỏ lỡ cơ hội? Trước khi trình bày những giai đoạn quan hệ kinh tế hai nước
phát triển và gặt hái nhiều thành tựu, tác giả sơ lược lịch sử quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa kỳ
từ thế cuối thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XX (đến khi bình thường hóa quan hệ năm 1995).
Trong lịch sử, Việt Nam và Hoa kỳ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội thiết lập quan hệ kinh tế giữa
hai nước:Năm 1802, công ty Crowninshield of Salem, Massachusetts đã phái một chiếc tàu
mang tên Fame đến Việt Nam tìm kiếm nguồn hàng mới là đường và cà phê nhưng khơng vào
cảng được. Sau đó một vài tàu đến nhưng khơng bn bán mấy vì chính sách bế quan tỏa cảng
của nhà Nguyễn. Đến đầu thập niên 30 của thế kỷ XIX , Hoa kỳ có tàu Peacok đến Việt Nam
năm 1932 mang theo : “Quốc thư của Tổng thống Hoa kỳ Andrew Jackson (Anđriu Giắc sơn)
và bản dự thảo hiệp ước thương mại với Việt Nam ”(Phạm Xanh, 2009). Kể cả lần gặp gỡ này
và lần sau nữa (năm 1835), đại diện hai nước có làm việc với nhau nhưng khơng hiểu được
nhau nên khơng có kết quả gì. Năm 1850 tổng thống Hoa kỳ cử đại sứ của Hoa kỳ ở Singapore
sang Việt Nam thương thuyết để ký hiệp ước thương mại nhưng bị vua Tự Đức từ chối tiếp.
Đến giữa thế kỷ XX, sau khi thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thành lập hội hữu nghị Việt –Mỹ (tôn trọng nguyên tác, tác giả chưa từng nghe hội
Việt Nam- Hoa kỳ mà chỉ có hội Việt-Mỹ) ngày 17-10-1945, qua những bức thư chủ tịch gửi

tổng thống Hoa kỳ đề nghị:“giúp vốn, công nghệ và chuyên gia cho Việt Nam phát triển đất
nước ” nhưng khơng có kết quả. Qua chi tiết trên cho thấy tinh thần dân tộc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Người đã đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu và có tầm nhìn xa trông rộng, nhưng cơ
hội lịch sử chưa đến.
Giai đoạn 1954-1975 Việt Nam và Hoa kỳ trở thành đối đầu nhau hơn nửa thế kỷ do chiến
tranh và sau đó là những vấn đề thời hậu chiến tiếp tục làm mối quan hệ giữa Việt Nam với
Hoa kỳ vừa căng thẳng vừa băng giá (ngày 1-5-1975: một ngày sau khi nước Việt Nam được
thống nhất, Hoa kỳ đã nới rộng các biện pháp trừng phạt chống lại Việt Nam).
Quá trình chuyển mối quan hệ từ “đối đầu” sang “ đối tác” cũng trải qua một tiến trình,
dưới đây là các mốc chính về tiến trình quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam-Hoa kỳ dần
dần được thiết lập.
3.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực- Tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và
Việt Nam
3.2.1. Những nguyên nhân tác động đến tiến trình bình thường hóa quan hệ hai nước:
Xu thế tình hình của thế giới và Đơng Nam Á ngày nay: hợp tác quốc tế, hịa bình và phát
triển (các tổ chức liên minh kinh tế trên thế giới và trong khu vực ra đời (EU,WTO,ASEAN…). Sự
573


suy giảm vị trí của Hoa kỳ trên quốc tế vì sự vươn lên của Nhật Bản,Tây Âu và các nước công
nghiệp mới (bốn con rồng châu Á).Ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương kinh tế Trung Quốc phát
triển xâm nhập đến các nước ở Đơng Nam Á trong đó có Việt Nam. Mặt khác Việt Nam có nhiều
tiềm năng để đầu tư phát triển như nhân công rẻ,vốn đầu tư thấp…nhưng động lực chính của Hoa
kỳ khi bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và phát triển quan hệ kinh tế thương mại, Hoa kỳ
thông qua quan hệ kinh tế xâm nhập kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, giữ vững vị thế chính trị của
Hoa kỳ trên thế giới và kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Việt Nam sau Đại hội VI (1986), Đảng và Chính phủ cũng chủ trương cải cách và mở
cửa, quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới. Riêng đối với Hoa kỳ, Việt Nam hàn gắn vết
thương chiến tranh, khép lại quá khứ, vươn tới tương lai, quan hệ bình thường và sẵn sàng hợp
tác kinh tế thương mại với Hoa kỳ vì lợi ích của hai nước và sự phát triển của Việt Nam.

3.2.2.Tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa kỳ:
Tháng 12/1992: Mỹ nới lỏng một số hạn chế kinh tế đối với Việt Nam thông qua việc
Tổng thống G.Bush cho phép các cơng ty của Mỹ mở văn phịng đại diện tại Việt Nam và ký
kết những hiệp định tạm thời trên cơ sở bãi bỏ lệnh cấm vận.
Tháng 2/1994:Tổng thống Mỹ B.Clinton bãi bỏ chính sách cấm vận kinh tế chống Việt Nam
Tháng 7/1995:Tổng thống B.Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với
Việt Nam, sau đó một tháng, đại diện thương mại trực tiếp của tổng thống Mỹ Clinton được đặt
tại Việt Nam mở đầu quá trình bình thường hóa quan hệ kinh tế giữa hai nước.
Tháng 9/1996: bắt đầu đàm phán về Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa kỳ (BTA).
3.3. Quan hệ kinh tế Việt Nam –Hoa kỳ từ năm 1995 đến nay(2022)
3.3.1.Quan hệ kinh tế Việt Nam –Hoa kỳ trước khi ký Hiệp định thương mại song phương
(BTA) từ năm 1995 đến 2001
Biểu hiện quan hệ kinh tế Việt Nam –Hoa kỳ giai đoạn từ sau khi bình thường hóa quan
hệ (1995) đến trước khi ký Hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa kỳ (2000) vẫn còn rất mờ
nhạt, hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hoa kỳ vào những năm chưa có hiệp định thương mại quá
ít, chủ yếu là các mặt hàng may mặc, chè, cà phê. Tại thị trường Hoa kỳ hàng hóa Việt Nam
kém sức cạnh tranh và thuế suất khơng được hưởng ưu đãi tối huệ quốc (MFM). Thuế suất
không có MFM rất cao lại rơi vào nhóm hàng mà Việt nam có khả năng lớn về xuất khẩu như
dầu thô, gạo, may mặc, nông sản và hải sản chế biến.Theo Nguyễn Mại nhận định:“… khi chưa
có hiệp định thương mại,78% hàng xuất khẩu Việt Nam sang Hoa kỳ là hàng sơ chế chủ yếu là
tôm và các sản phẩm khác của dầu khí ”(Nguyễn Mại, 2008)
Những khó khăn của Việt Nam trong quan hệ thương mại với Hoa kỳ: Chất lượng sản
phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu và là chìa khóa để đi vào thị trường Hoa kỳ. Ngoài ra, để
thâm nhập thị trường Hoa kỳ , nhà xuất khẩu phải hiểu rõ luật pháp của Hoa kỳ vì nó rất phức
tạp, mỗi bang lại có luật riêng.
• Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa kỳ
Theo tài liệu tham khảo đặc biệt số 67-Thông tấn xã Việt Nam ngày 24/03/2000:Trải qua
một quãng thời gian dài (từ năm1996 đến năm 1999) và 8 vòng đàm phán, tháng 7/1999 Hoa
kỳ và Việt Nam tuyên bố hai bên đã đạt được một “Hiệp định nguyên tắc”.
574



Năm 2000: Cơ quan nghiên cứu Quốc hội Hoa kỳ (CRS) đã đưa ra bản báo cáo về Hiệp
định thương mại Việt Nam –Hoa kỳ.Tháng 11/2000 Tổng thống Bill Clinton cùng các quan
chức cấp cao thăm Việt Nam. Hai bên đã thỏa thuận việc thiết lập diễn đàn đối thoại Việt-Mỹ
và hợp tác kinh tế, ký hiệp định về hợp tác khoa học-công nghệ Việt-Mỹ, 12 hợp đồng và nghị
định thư về đầu tư,thương mại.
Ngày 13/7/2000 Hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa kỳ (BTA) được ký kết. Nội dung
Hiệp định thương mại bao gồm những điều khoản mở cửa về thương mại hàng hóa, thương mại
dịch vụ, thương mại liên quan đến đầu tư, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của
cơng dân Việt Nam và Mỹ.Việt Nam sẽ được hưởng quy chế bình thường hóa quan hệ thương
mại mậu dịch. Nếu quốc hội Mỹ phê chuẩn,Việt Nam sẽ được hưởng quy chế tối huệ quốc
(MFM ), cắt giảm mức thuế quan trung bình đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam từ 40%
xuống còn 4% tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hoa kỳ. Ngược lại, Việt
Nam cũng sẽ mở cửa thị trường cho các thương gia Hoa kỳ.
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa kỳ (BTA) đã đánh dấu bước ngoặc
trong quan hệ thương mại, nhất là đối với việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang Mỹ.
Về lợi ích của Hoa kỳ : Hiệp định thương mại song phương (BTA) thúc đẩy đầu tư của
Hoa kỳ tới Việt Nam. Hoa kỳ muốn thông qua quan hệ kinh tế để thâm nhập kinh tế khu vực
châu Á-Thái Bình Dương, giữ vững vị thế chính trị của Hoa kỳ trên thế giới và kiềm chế ảnh
hưởng của Trung Quốc ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Về phía Việt Nam : Hiệp định thương mại song phương (BTA) tác động đến kinh tế Việt
Nam: “ Việc ký Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa kỳ tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp cận một
thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng của thế giới”(Đinh Xuân Lý,2013) không chỉ tạo điều
kiện kinh tế Việt Nam phát triển (đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài…) mà còn là
bước đệm quan trọng để Việt Nam gia nhập WTO.
3.3.2.Quan hệ kinh tế Việt Nam –Hoa kỳ từ sau khi ký Hiệp định thương mại (BTA) từ
năm 2001 đến nay (2022)
3.3.2.1.Quan hệ Việt Nam-Hoa kỳ trong lĩnh vực thương mại:

Kể từ khi BTA có hiệu lực vào tháng 12/2001, quan hệ thương mại Việt Nam-Hoa kỳ
phát triển nhảy vọt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước ta vào Mỹ năm 2002 bằng 2,27
lần,xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa kỳ lên tới 4 tỷ USD trong năm 2003, chiếm hơn 20%
tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thời
điểm này vẫn là hải sản, hàng dệt may, giày dép. Trong khi đó kim ngạch xuất khẩu của Hoa
kỳ vào Việt Nam có thể đạt 1 tỷ USD trong năm 2003 (Thông tấn xã Việt Nam, 2000).
Sau khi ký hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa kỳ, doanh nghiệp Việt Nam gặp rất
nhiều thách thức: Hệ thống pháp luật Hoa kỳ quá phức tạp đối với hiểu biết đa phần doanh
nghiệp Việt; Hàng nhập khẩu từ Hoa kỳ chịu sự điều tiết của nhiều luật khác nhau (luật liên
bang và từng bang); Thị trường Hoa kỳ có quy mơ rộng và mở cửa nhưng lại không dễ thâm
nhập, doanh nghiệp Việt nam cần có thơng tin chính xác về thị trường, phân tích thị trường,
phải xây dựng chiến lược maketting phù hợp.
Những hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam-Hoa kỳ cũng được đẩy mạnh: Nhiều cuộc
gặp gỡ cấp cao của nguyên thủ hai nước diễn ra trong những năm 2005, 2006, 2007, 2008.
575


Tháng 6/2005 : Thủ tướng Phan văn Khải và đoàn tùy tùng đến thăm Hoa kỳ. Hai bên Mỹ
và Việt Nam ra tuyên bố chung, ký kết một số thỏa thuận và hợp đồng kinh tế trị giá gần 2 tỷ
USD.Cơ quan phát triển thương mại và phát triển Hoa kỳ viện trợ cho Việt Nam 600.000 đô la.
Năm 2006 Việt Nam là nước chủ nhà hội nghị Thượng đỉnh diễn đàn hợp tác kinh tế châu
Á-Thái Bình Dương (APEC), tổng thống Mỹ Barack Obama đến Hà Nội tham dự hội nghị
APEC 14. Tổng thống Obama và nghị viện Hoa kỳ thông qua đạo luật HR 6111 ban quy chế
Quan hệ thương mại bình thường và vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam.
Năm 2007 : Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang Mỹ và Hiệp định khung về Thương
mại và Đầu tư (TIFA) được ký kết, hiệp định hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và nhiều
thỏa thuận hợp tác kinh tế thương mại trị giá hàng tỷ USD.
Năm 2008 : Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm Hoa kỳ, ký kết nhiều hợp đồng kinh tế.
Quan hệ thương mại Việt Nam-Hoa kỳ (2001-2022) đạt những thành tựu:Sự “ gia tăng
nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Mỹ , kim ngạch xuất

khẩu hai chiều của Việt Nam và Hoa kỳ từ năm 2002 đã tăng đột biến, đến năm 2007 đạt 11,79
tỷ USD”(Nguyễn Mại, 2008). Kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ năm 2007 bằng 10 lần năm
2001.Việt Nam suất siêu 91 tỷ USD.
Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu năm 2007 hàng chế tác (sản phẩm khai khoáng phi kim
loại, sản phẩm kim loại, đồ điện, đồ gỗ, quần áo, giày dép, các sản phẩm thủ cơng, phụ liệu
trang trí, dịch vụ du lịch…) là chủ yếu, hàng sơ chế và tài nguyên giảm. Hàng nhập khẩu của
Mỹ vào Việt Nam những năm 2001-2006 chủ yếu là sợi, sản phẩm chế tạo (nhựa và sản phẩm
nhựa, máy móc, thiết bị vận tải, thiết bị khoa học…)
Năm 2008 suy thối kinh tế tồn cầu không tác động mấy đến xuất khẩu của Việt
Nam.Sang năm 2009, hợp tác kinh tế giữa Việt Nam-Hoa kỳ diễn ra tốt đẹp, thương mại hai
chiều lên tới 15,4 tỷ đô la Mỹ, tăng 17 lần cao hơn với bất cứ nước nào khác.Trong 10 năm
(2000-2010), quan hệ thương mại Việt Nam –Hoa kỳ thăng hoa, đặc biệt là hàng xuất khẩu Việt
Nam sang thị trường Hoa kỳ tăng rất nhanh : “Năm 2001 như vậy tăng trưởng xuất khẩu bình
quân khoảng 30% /năm” (Bùi Thị Phương Lan, 2011).
Trong chiến lược xuất khẩu quốc gia năm 2010, Tổng thống Mỹ Obama đã đưa Việt Nam
vào danh sách 6 quốc gia “thị trường kế tiếp” với nhận định thị trường sẽ phát triển mạnh và là
cơ hội cho Mỹ gia tăng. Xét trên nhiều góc độ, đến năm 2010, Mỹ đã trở thành đối tác kinh
doanh nước ngoài lớn nhất củaViệt Nam : “ Kim ngạch thương mại giữa Việt Nam-Hoa kỳ tăng
hơn 6 lần từ năm 2002-2010 đạt 18,6 tỷ USD”(Ngơ Xn Bình, cb 2014)
Sau 15 năm bình thường hóa quan hệ (1995-2010), quan hệ thương mại Việt Nam-Hoa
kỳ đạt được nhiều thành tựu lớn: “ Mỹ đã trở thành thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của
Việt Nam và Việt Nam xếp khoảng thứ 35 trong số các nước có nguồn hàng nhập khẩu vào Mỹ”
(Bùi Thị Phương Lan, 2011).
Nhìn chung, cả Việt Nam và Hoa kỳ đang tăng cường hội nhập khu vực, đẩy mạnh hợp
tác song phương, đa phương hơn bao giờ hết. Đây không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là điều
kiện bắt buộc nếu muốn tăng cường lợi ích quốc gia. Tại Đại hội IX,X,XI: Đảng ta chủ trương
“chủ động,tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. (Ngơ Xn Bình, cb 2014)
Năm 2013, Hoa kỳ là thị trường lớn nhập khẩu của Việt Nam các mặt hàng như: dệt may,
da giày, gỗ, thủy sản, giày dép, cà phê. Việt Nam nhập khẩu từ Hoa Kỳ: máy móc, thiết bị, dụng
576



cụ phụ trong máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, bông các loại, chất dẻo nguyên liệu,
thức ăn gia súc…
Theo Nguyễn Mại lý giải quan hệ thương mại Việt Nam-Hoa kỳ giai đoạn này phát triển
là do Việt Nam đã thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết đối với BTA cũng như các hiệp định đa
phương và song phương khác;Việt Nam đã hoàn thiện hệ thống luật pháp, cải cách hành chính
để phù hợp với các thể chế và thông lệ quốc tế, mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, giảm
thuế một số mặt hàng nhập khẩu, hài hòa các thủ tục hải quan. Việt Nam duy trì tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu cao là do nước ta điều chỉnh đa dạng hóa xuất khẩu sang Mỹ.
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Cộng đồng kinh tế thế giới
(WTO). Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đối với Việt Nam.
Bên cạnh đó, kinh tế thương mại xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa kỳ vẫn cịn gặp nhiều
khó khăn vì Luật Nơng nghiệp mới (Farm Bill) có hiệu lực từ năm 2009 là rào cản pháp lý khá
lớn đối với hàng nhập khẩu từ nước ngoài như nhiều nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam
sang thị trường Hoa kỳ như hàng dệt may, đồ gỗ, thủy sản…chịu sự giám sát phân biệt của Hoa
kỳ. Năm 2009, Hoa kỳ vẫn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với cá tra, cá basa và tơm nhập
khẩu. Ngồi ra, Hoa kỳ cịn ban hành Luật về an tồn sản phẩm nhập khẩu (2/2009) theo đó tất
cả hàng dệt may, đồ chơi trẻ em bằng nhựa, gỗ…vào thị trường Mỹ phải tuân thủ những quy
định mới chặt chẽ và khắt khe.
Trong quan hệ kinh tế , Hoa kỳ coi Việt Nam là kinh tế phi thị trường (NME) đến năm
2019, như vậy trong quan hệ kinh tế Việt Nam có thể chịu nhiều bất lợi trong các vụ tranh chấp
toàn cầu.
Tóm lại, các doanh nghiệp Việt Nam cần tư vấn khi thâm nhập thị trường Mỹ và chất lượng
là yếu tố quan trọng giúp Việt Nam tạo nên sự khác biệt với các nước khác trong khu vực.
3.3.2.2. Quan hệ kinh tế Việt Nam –Hoa kỳ trong lĩnh vực đầu tư:
Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa kỳ (BTA) có một chương về quan hệ
đầu tư với mục đích gia tăng mức độ tiếp cận thị trường, đơn giản hóa thủ tục, cấp phép và đăng
ký đầu tư, tăng cường bảo hộ nhà đầu tư, cho phép sử dụng trọng tài quốc tế. Những năm đầu sau
khi ký Hiệp định thương mại, đầu tư của Hoa kỳ vào Việt Nam vẫn cịn hạn chế. Con đường bình

thường hóa trong quan hệ thương mại Việt Nam –Hoa kỳ những năm đầu sau khi ký hiệp định
thương mại vẫn còn nhiều trắc trở: Các doanh nghiệp Hoa kỳ than phiền về chi phí kinh doanh tại
Việt Nam quá cao so với các nước trong khu vực; giá sử dụng dịch vụ cao, cơ sở hạ tầng lại kém.
+Làn sóng đầu tư đầu tiên của Hoa Kỳ vào Việt Nam : (3/1994-12/2001)Trước khi Hiệp
định thương mại song phương Việt Nam –Hoa kỳ được ký kết: Các công ty đa quốc gia như:
Pepsico,Coca-cola, 3M,P&G…đặt nhà máy và bán sản phẩm tại Việt Nam. Ngành công nghiệp
thu hút 82 dự án đầu tư, chiếm 620 triệu USD (58,6% tổng số vốn đầu tư Hoa kỳ vào Việt
Nam).Cơng nghiệp nặng và dầu khí thu hút đầu tư nhất.
+ Làn sóng đầu tư thứ hai:(2001-2007) Sau khi ký Hiệp định thương mại song phương
Việt Nam –Hoa Kỳ, Việt Nam đã thu hút sự đầu tư của Hoa Kỳ đáng kể: Năm 2003 Hoa kỳ có
160 dự án tổng giá trị đầu tư hơn 1,1 tỷ USD, Hoa kỳ đứng hàng 13 trong 62 quốc gia và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (Thông tấn xã Việt Nam,2000). Về phía Hoa Kỳ đã giảm thuế
3% hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hoa kỳ các mặt hàng may mặc , giày dép, chế biến gỗ…
577


Năm 2004: Việt Nam ký hiệp định Hàng không với Hoa kỳ, đánh dấu một bước tiến mới
trong quan hệ kinh tế giữa hai nước.
Năm 2005: Thủ tướng Phan văn Khải đi thăm chính thức Hoa kỳ, hai nước ký kết về việc
Việt Nam là thành viên WTO.Thủ tướng và đồn hơn 100 doanh nghiệp Việt Nam tìm cách thu hút
các nhà đầu tư Hoa kỳ. Tham gia WTO đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao năng lực quản lý về lĩnh
vực pháp lý và thương mại. Kinh tế Việt Nam được mở cửa nhưng phải cạnh tranh khắp toàn
cầu.Thách thức này đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng một nền kinh tế có sức cạnh tranh và hội nhập.
Sau khi Hoa kỳ ban hành quy chế Quan hệ thương mại bình thường và vĩnh viễn (PNTR)
năm 2006, nhiều cơng ty đa quốc gia của Hoa kỳ chọn Việt Nam làm thị trường sản xuất như
Canon có 3 nhà in khổng lồ, Nike tăng sản lượng hàng năm từ 54 triệu đôi giày lên 70 triệu đôi…
Năm 2007: Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Hoa kỳ xem Việt Nam
là kinh tế phi thị trường (NME) đến năm 2019. Cùng năm 2007: Chủ tịch Nguyễn Minh Triết
sang Mỹ ký với Hoa kỳ Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA).
+ Làn sóng đầu tư thứ ba: (1/2007-2012) : Khi Việt Nam trở thành thành viên WTO.

Năm 2010, Hoa kỳ có những dự án đầu tư vào Việt Nam: Intel,Chevron…Tập đoàn Intel đầu
tư 1 tỷ USD vào nhà máy thuộc khu công nghệ cao ở thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2010 Hoa
kỳ đứng thứ 7 trong 100 quốc gia đầu tư vào Việt Nam.Năm 2012 Proter&Gamble (P&G) của
Hoa kỳ đầu tư thêm 80 triệu USD mở nhà máy Pampers Baby Care tại Bình Dương.Vốn đầu tư
của P&G vào Việt Nam đạt 200 triệu vào năm 2012.
+ Làn sóng đầu tư thứ tư: (Đầu năm 2013-2017):
Đa số các dự án đầu tư Hoa kỳ vào Việt Nam tập trung các thành phố lớn là Hà Nội và
Tp.Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Hải Dương (những nơi có cơ sở hạ tầng
và dịch vụ tốt nhất). Hình thức đầu tư 100% vốn là chủ yếu, tiếp đến là hình thức liên doanh,
hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Lĩnh vực đầu tư: bất động sản, phân phối hàng hóa, giáo dục, cơ sở hạ tầng (thiết bị điện).
Tập đoàn General Electric (GE) tháng 7/2012 ký với tổng công ty truyền tải điện quốc gia hợp
đồng cung cấp thiết bị cho đường dây điện 500kv dài 500 km từ Pleiku ( Gia Lai ) –Phú Lâm
(TP.HCM) với số tiền 16,5 triệu USD. GE tăng đầu tư gấp đôi khoảng 61 triệu USD (3/2012)
vào nhà máy GE tại Hải phịng. Tập đồn General Electric cung cấp thiết bị cho khu điện gió
của đồng bằng sơng Cửu Long tại tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh.
Ngồi ra, cịn có các cơng ty nhượng quyền Hoa kỳ hiện diện tại Việt Nam : KFC,
Subway, Burger King, Pizza Hutt…
Đến năm 2013:Tổng số vốn đầu tư trực tiếp (FDNI) của Hoa kỳ vào Việt Nam đạt 10,5 tỷ
USD đứng thứ 7 trong số các quốc gia đầu tư vào Việt Nam với 658 dự án. Nếu tính nguồn vốn
đầu tư của Hoa kỳ vào Việt Nam thông qua các nước thứ 3 như Coca-Cola, P&G (đầu tư từ
Singapore) và Exonomobil (đầu tư từ Hồng Kong) thì Hoa kỳ là nhà đầu tư dẫn đầu tại Việt Nam.
3.4. Triển vọng của quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa kỳ
Nghị quyết đại hội XI,XII,XIII của Đảng đề ra chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt
Nam đến năm 2030, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng nhanh gắn liền với
phát triển bền vững. Đảng đề ra phương hướng cho hoạt động đối ngoại chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế tồn diện.
578



Chính sách đối ngoại của Hoa kỳ sẽ tùy thuộc nhiều vào các đời Tổng thống.Tổng thống
B.Obama có “chính sách xoay trục sang châu Á” và ông đã củng cố chính sách đối ngoại này
đối với riêng Việt Nam là chuyến sang thăm chính thức Việt Nam vào tháng 6/ 2016.
Theo chiến lược tập trung phát triển nước Mỹ hùng mạnh,Tổng thống Hoa kỳ Donald
Trump đã không phê chuẩn Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tổng thống Mỹ đương nhiệm-Ông Joe Biden với chiến lược kinh tế thu hút đầu tư vào nước
Mỹ và phát triển kinh tế Mỹ. Việt Nam bắt đầu đầu tư vào thị trường Hoa Kỳ. Tập đoàn Vinfast
của tỉ phú Phạm Nhật Vượng ngày 30/3/2022 công bố việc xây dựng nhà máy sản xuất ô tô điện,
xe bus điện, pin… tại North Carolina của nước Mỹ, vốn đầu tư dự kiến 4 tỉ USD. Dự án đầu tư
của Vinfast sẽ thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước Việt Nam-Hoa Kỳ phát triển.
Về phía Việt Nam: Sau dịch bệnh Covid 19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình đầu
tư của nước ngồi ở Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã có những hoạch định chiến lược cho sự
phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam –Hoa kỳ qua sự kiện Thủ tướng Phạm Minh Chính phát
biểu ở Hội nghị Thượng đỉnh Kinh doanh Việt Nam-Hoa kỳ (USABC) lần thứ 5 ngày 8/3/2022:
“Xu hướng tăng trưởng thương mại và đầu tư hai nước sẽ tiếp tục được duy trì”(Báo điện tử
Chính phủ, 2022) những chính sách của Việt Nam sắp tới :
Thứ nhất, Tăng cường và nâng cao năng lực quản trị của Nhà nước, của hệ thống hành
chính Nhà nước.Việt Nam tăng cường phòng chống dịch, phục hồi kinh tế nhanh và phát triển
bền vững (Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội với kinh phí 350.000 tỷ đồng);
Nâng cao năng lực y tế, phòng dịch, chuyển đổi xanh thích ứng được sự biến đổi khí hậu,
chuyển đổi số…
Thứ hai, Việt Nam phục hồi doanh nghiệp thông qua hỗn, miễn, giảm thuế, giảm phí
điện, nước cho doanh nghiệp.
Thứ ba, Việt Nam tiếp tục cải cách để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phù hợp với
luật pháp và thông lệ quốc tế. Đây là điều kiện thuận lợi cho tất cả các nước đầu tư và kinh
doanh ở Việt Nam một cách công khai, minh bạch, theo chuẩn mực quốc tế.
Thứ tư, Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, thích ứng với kinh tế thị
trường, đáp ứng nguồn nhân lực phát triển nhanh, bền vững.
4. KẾT LUẬN
Quan hệ thương mại Việt Nam –Hoa kỳ tuy có những giai đoạn thăng trầm trong lịch sử

nhưng những chính sách và hiệp định Thương mại đã ký kết từ hai nước đã tạo điều kiện cho
quan hệ kinh tế hai bên phát triển rất nhanh, đạt được những kết quả tốt đẹp trên các lĩnh vực.
Bình thường hóa quan hệ với Hoa kỳ và gia nhập WTO giúp Việt Nam hội nhập vào nền kinh
tế toàn cầu. Quan hệ kinh tế với Mỹ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam:
thị trường Việt Nam đa dạng, giá trị đầu tư của Mỹ cao giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng; Mở
rộng và phát triển kinh tế trên nhiều phương diện giúp Việt Nam duy trì và phát triển trong tiến
trình cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa giai đoạn những năm 2025-2030.
Thời kỳ hậu Covid, Chính phủ hai nước có mối quan hệ tốt đẹp: Hoa kỳ đã tài trợ 29 triệu
liều vac-xin cho nhân dân Việt Nam, đặc phái viên Tổng thống Hoa kỳ-Ơng John Kerry và đồn
579


doanh nghiệp Hoa kỳ đã đến Việt Nam dự Hội nghị Thượng đỉnh Kinh doanh Việt Nam-Hoa
kỳ lần 5, Chính phủ Việt Nam và đặc phái viên Tổng thống Hoa Kỳ đã có những đàm phán tạo
điều kiện cho mối quan hệ thương mại Việt Nam- Hoa kỳ tiếp tục phát triển và vượt qua khó
khăn, đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ ngoại giao -Vụ hợp tác kinh tế đa phương (2002).Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế tồn
cầu hóa vấn đề và giải pháp.Hà Nội:Nxb.Chính trị Quốc gia
2. Ngơ Xn Bình (chủ biên) (2014). Hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam- Hoa
kỳ.Hà Nội: Nxb. KHKT
3. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2014).Thông điệp tại đại hội đồng Liên Hiệp Quốc “Nhân loại cần
một Thế giới khơng có chiến tranh, khơng cịn đói nghèo”. Bài phát biểu tại diễn đàn đầu tư Hoa
kỳ-Việt Nam ngày 27/9/2013. Tp.HCM:Nxb.Thế giới
4. Phạm Gia Khiêm (2015). Nền ngoại giao toàn diện Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.Hà
Nội:Nxb.Chính trị Quốc gia-Sự thật
5. Bùi thị Phương Lan (2011). Quan hệ Việt Nam-Hoa kỳ 1994-2010. Hà Nội: Nxb. KHXH
6. Đinh Xuân Lý (2013). Quá trình đổi mới đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam
1986-2012. Hà Nội:Nxb.Quốc gia
7. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2010). Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020.Hà Nội:

Nxb.Chính trị Quốc gia
8. Nguyễn Mại (2008).Quan hệ Việt Nam-Hoa kỳ hướng về phía trước.Tp.HCM: Nxb.Tri thức
9. Lê Minh Qn (2010).Hịa bình,hợp tác và phát triển xu thế lớn trên thế giới hiện nay.Hà Nội:Nxb.
Chính trị Quốc gia
10. Tài liệu tham khảo đặc biệt số 67-Thông tấn xã Việt Nam ngày 24/03/2000
11. Phạm Xanh (2009). Góp phần tìm hiểu lịch sử quan hệ Việt Nam Hoa kỳ. Hà Nội:Nxb.Chính trị
Quốc gia
12. Báo điện tử Chính phủ: http://baochinhphuvn/thuc-day-quan-he-viet-nam-hoa-ky-voi-loi-ich-haihoa-rui-ro-chia-se, ngày 8/3/2022

580



×