Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi trong hoạt động bảo vệ người gửi tiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.56 KB, 9 trang )

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI TRONG HOẠT
ĐỘNG BẢO VỆ NGƯỜI GỬI TIỀN
Nguyễn Thị Thu Hờng1
1. Email:
TĨM TẮT
Sau 21 năm hoạt động, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đã khẳng định được vai
trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG),
người gửi tiền nói riêng. Việc một ngân hàng bị đổ vỡ và vai trò của BHTG trong xử lý đổ vỡ
là vấn đề lớn đối với mọi nền kinh tế và dành được sự quan tâm sâu sắc của các Chính phủ,
các tổ chức BHTG trên thế giới. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật về BHTG trong hoạt động bảo
vệ người gửi tiền đã bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về BHTG, thực trạng hoạt động BHTG trong việc bảo vệ người gửi tiền và
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về BHTG, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
BHTG là việc hết sức cần thiết.
Từ khóa: Bảo hiểm tiền gửi, tiền gửi
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật Bảo hiểm tiền gửi và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý tcho
sự phát triểm của hoạt động Bảo hiểm tiền gửi, giúp hoạt động Bảo hiểm tiền gửi được cải thiện,
góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, kiểm sốt và đảm bảo an tồn, lành
mạnh cho hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện thu hút tiền gửi trong
người dân. Tuy nhiên, khung pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi hiện nay vẫn còn bất cập liên quan
đến quy định về hạn mức, thời gian chi trả, mức phí áp dụng chưa phù hợp. Điều này đã là một
số trở ngại cho việc áp dụng vào thực tiễn.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi trong thời gian tới cần
phải tiếp tục được hoàn thiện cả về mặt lý luận và thực tế triển khai thực hiện. Ngoài ra, để khắc
phục các bất cập một số quy định của pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam hiện nay thì
hoạt động Bảo hiểm tiền gửi cần phải được đánh giá một cách toàn diện để tìm ra những bất
cập cịn tồn tại cũng như nguyên nhân của các hạn chế này. Do đó, bài viết trình bày quy định
pháp luật chung về Bảo hiểm tiền gửi, phân tích quy định hiện hành của pháp luật về Bảo hiểm
tiền gửi, chỉ ra một số bất cập và định hướng hoàn thiện.


2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các cơng trình đã nghiên cứu trước
đó, tổng hợp các nhận định của chuyên gia, cũng như tổng hợp các số liệu về hoạt động của
123


BHTGVN. Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp phân tích: Phân tích các quy định của pháp
luật hiện hành về BHTGVN.
3. NỘI DUNG
3.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng được thựchiện từ rất
sớm ở nhiều nước trên thế giới. Theo Hiệp hội BHTG Quốc tế (IADI), BHTGđược hiểu là “một
hệ thống được thiết lập để bảo vệ người gửi tiền khỏi những tổn thấtvề tiền gửi được bảo hiểm
của họ trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi khơng thể hồn thành các nghĩa vụ nợ theo cam
kết đối với người gửi tiền”.
Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình hoạt động bảo hiểm, theo đó, tổ chức BHTG thực hiện
cam kết chi trả một phần hoặc toàn bộ tiền gốc và tiền lãi của các khoản tiềngửi cho người gửi
tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng chi trả tiền gửi
cho người gửi tiền nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách cơng của Nhà nước. BHTG Việt
Nam được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg, ngày 09/11/1999 của Thủ tướng
Chính phủ, hoạt động theo Nghị định 89/1999/NĐ-CP. Năm2012, hoạt động BHTG Việt Nam
được luật hoá bằng Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 ngày 18/6/2012 và văn bản dưới
luật hướng dẫn thi hành là Nghị định 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012.
3.2.2. Một số quy định pháp luật về BHTG trong bảo vệ quyền lợi người gửi tiền
3.2.1. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Tổ chức BHTG là một tổ chức có vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia,
hoạt động khơng vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi
tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảmsự phát triển an toàn, lành

mạnh của hoạt động ngân hàng. Mục đích cơ bản và cốt lõi của chính sách Bảo hiểm tiền gửi
là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, đối tượng có những hạn chế nhất
định trong việc tiếp cận thông tin về hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi.
Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính được giao thực hiện chính sách công về BHTG. Ở
Việt Nam hiện nay có duy nhất 1 tổ chức BHTG là Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – tổ chức tài
chính nhà nước, hoạt động khơng vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách BHTG, góp phần
duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đảmbảo sự phát triển an toàn, lành mạnh
của hoạt động ngân hàng. Điều 6 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 quy định:
- Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cánhân phải
tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
- Ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Điều 4 Nghị định
68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thihành luật bảo
hiểm tiền gửi quy định tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi như sau:
- Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân, bao gồm ngân hàng thương mại, ngânhàng hợp tác xã, quỹ
124


tín dụng nhân dân và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thànhlập và hoạt động theo quy định
của Luật các tổ chức tín dụng.
- Tổ chức tài chính vi mô phải tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với tiền gửi của cánhân bao
gồm cả tiền gửi tự nguyện của khách hàng tài chính vi mô, trừ tiền gửi tiết kiệm bắt buộc theo
quy định của tổ chức tài chính vi mơ.

- Ngân hàng chính sách khơng phải tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Như vậy, các tổ chức phải tham gia bảo hiểm tiền gửi gồm: ngân hàng thương mại, ngân
hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mơ và chi nhánhngân hàng nước
ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân.
3.2.2. Các loại hình bảo hiểm tiền gửi
Theo quy định pháp luật về BHTG, có hai loại tiền gửi được bảo hiểm và tiền gửi không

được bảo đảm.
Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng
chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật các tổ chức
tín dụng, trừ các loại tiền gửi quy định tại Điều 19 của Luật này ( Điều 18, Luật BHTG 2012).
Tiền gửi không được bảo hiểm: Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là người sở hữu
trên 5% vốn điều lệ của chính tổ chức tín dụng đó. Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là
thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm sốt, Tổng
giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của chính tổ chức tín dụng đó; tiền gửi
tại chi nhánh ngân hàng nước ngồi của cá nhân là Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám
đốc (Phó Giám đốc) của chính chi nhánh ngân hàng nước ngồi đó ( Điều 19, Luật BHTG 2012)7.
3.2.3. Phí bảo hiểm tiền gửi
Theo quy định của pháp luật hiện hành: Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm
tiền gửi và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể
đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức
này. Phí bảo hiểm tiền gửi được tính trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân của tiền gửi được bảo
hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và được coi là chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng
(Điều 20 Luật bảo hiểm tiền gửi năm 2012, Thông tư của Ngân hàng Nhà nước số 24/2014/TTNHNN ngày 06/9/2014 hướng dẫn một số nội dung về hoạt động bảo hiểm tiền gửi.)
3.3. Quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm tiền gửi
3.3.1. Quyền và nghĩa vụ của người được bảo hiểm tiền gửi
Điều 11, Luật BHTG quy định, người được BHTG có quyền: Được bảo hiểm số tiền gửi
của mình tại tổ chức tham gia BHTG theo quy địnhcủa Luật BHTG; Được nhận tiền bảo hiểm
đầy đủ và đúng thời hạn theo quy định của Luật BHTG. Người được bảo hiểm tiền gửi được
quyền yêu cầu tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTG cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin,
chế độ về BHTG; Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHTG
theo quy định của pháp luật.”
(Chính phủ, 2013). Điều 3 Nghị định số 68/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm
tiền gửi.
7


125


3.3.2. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam bảo vệ người được bảo hiểm tiền gửi
BHTGVN bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được BHTG thông qua các hoạt
động nghiệp vụ của mình, từ đó góp phần hạn chế rủi ro, giúp các tổ chức thamgia BHTG hoạt
động an toàn, hiệu quả hơn, đảm bảo an toàn tiền gửi của người được BHTG. Các hoạt động
nghiệp vụ của BHTG Việt Nam liên quan trực tiếp tới việc bảovệ quyền lợi hợp pháp của người
gửi tiền bao gồm:

- Theo dõi, kiểm tra và giám sát các tổ chức tham gia BHTG chấp hành các quyđịnh của
pháp luật về BHTG, kiến nghị NHNN xử lý hành vi vi phạm.

- Tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin hoạt động của tổ chức tham gia BHTG nhằm
phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toànhoạt động ngân
hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng.
- Tham gia vào q trình kiểm sốt đặc biệt đối với tổ chức tham gia BHTG theoquy định
của NHNN; tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG theo quy định của
Chính phủ; cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng được kiểm sốtđặc biệt để hỗ trợ thanh
khoản, cho vay đặc biệt theo quy định của NHNN và cho vay đặc biệt theo phương án phục
hồi tổ chức tín dụng được phê duyệt, mua trái phiếu dài hạn của tổ chức tín dụng hỗ trợ.

- Chi trả tiền bảo hiểm cho người được BHTG theo quy định của pháp luật khi tổ chức
tham gia BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả hoặc phá sản, BHTG Việt Nam8.

- Thực hiện tuyên truyền nhằm giúp người dân hiểu chính sách BHTG, qua đó nâng cao
niềm tin cơng chúng, góp phần đảm bảo an tồn hệ thống các tổ chức tín dụng
3.4. Thực trạng và những hạn chế của pháp luật Bảo hiểm tiền gửi trong hoạt động
bảo vệ người gửi tiền
3.4.1. Thực trạng pháp luật Bảo hiểm tiền gửi trong hoạt động bảo vệ người gửi tiền

Sau hàng khi loạt các hợp tác xã tín dụng bị đổ vỡ vào năm 1988-1990, Việt Nam đã tổ
chức nghiên cứu ứng dụng công cụ BHTG. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) được
thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 7/7/2000, là tổ chức duy nhất triển khai hoạt động BHTG
tại Việt Nam. BHTGVN đang bảo vệ hàng triệu người gửi tiền cá nhân bằng Việt Nam đồng
tại gần 1.300 tổ chức tham gia BHTG trên toàn quốc bao gồm: Ngân hàng thương mại, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính
vi mô. Các tổ chức này được yêu cầu bắt buộc tham gia BHTG và nộp phí theo quy định để bảo
hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền.
Người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG được bảo vệ trong khuôn khổ chính sách
BHTG, như: Cơ chế tham gia BHTG là bắt buộc; Đối tượng tham gia là tất cả các tổ chức tín
dụng (TCTD) có huy động tiền gửi cá nhân bằng đồng Việt Nam; Loại tiền gửi được bảo hiểm
là tiền đồng Việt Nam; và bảo hiểm tiền gửi theo hạn mức chi trả BHTG. Theo quy định hiện
hành hạn mức chi trả BHTG là 75 triệu đồng. Với hạn mức này, BHTGVN sẽ bảo vệ phần lớn
người gửi tiền, phần vượt hạn mức BHTG người gửi tiền sẽ được nhận trong quá trình xử lý tài
sản của tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ. Hạn mức BHTG được xác định trên cơ sở: Năng lực
(Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2014). Khoản 1, Điều 8 Thông tư số 24//2014/TT-NHNN ngày 06/9/2014
hướng dẫn một số nội dung về hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
8

126


tài chính của tổ chức BHTG, quy mô tiền gửi, thơng lệ, chuẩn mực quốc tế và thực trạng tình
hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam. Thời hạn chi trả tiền gửi được bảo hiểm là 60 ngày kể từ ngày
phát sinh nghĩa vụ chi trả.
Quyền lợi người gửi tiền được đảm bảo thông qua các hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN,
như: kiểm tra, giám sát định kỳ tháng, quý năm đối với tổ chức tham gia BHTG. Thông qua đó,
có thể phát hiện sớm các vi phạm quy định về BHTG và an toàn trong hoạt động ngân hàng để
báo cáo kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xử lý kịp thời. Hoạt động tuyên truyền chính sách
BHTG đến người gửi tiền đã được BHTGVN tích cực triển khai dưới nhiều hình thức để cơng

chúng hiểu rõ chính sách BHTG, nâng cao niềm tin vào hệ thống ngân hàng, rủi ro đột biến rút
tiền gửi sẽ ít có khả năng xảy ra, hệ thống ngân hàng vì thế sẽ hoạt động an toàn hơn. Ngoài ra,
người gửi tiền được bảo vệ gián tiếp thông qua các nghiệp vụ BHTG khác của tổ chức tham gia
BHTG như: Cấp và thu hồi chứng nhận tham gia BHTG, thu phí, tham gia kiểm soát đặc biệt.
Trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, BHTGVN sẽ trực tiếp chi trả tiền
gửi cho người gửi tiền được bảo hiểm trong hạn mức BHTG với thời gian chi trả ngắn nhất.
Hiện BHTGVN đang bảo hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền tại 1.283 tổ chức tham gia BHTG
(bao gồm 97 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1.181 quỹ tín dụng nhân dân, 01
ngân hàng hợp tác xã và 04 tổ chức tài chính vi mơ). Việc tăng hạn mức BHTG nâng cao mức
độ bảo vệ người gửi tiền, song cũng đặt lên vai tổ chức BHTG một áp lực nhất định khi phí
BHTG khơng điều chỉnh tăng theo. BHTGVN cho biết, tăng phí BHTG có thể gia tăng gánh
nặng đối với các tổ chức tham gia BHTG. Vì thế, nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm song không
tăng phí BHTG đòi hỏi BHTGVN phải quản lý, đầu tư nguồn vốn một cách an toàn, hiệu quả,
đảm bảo thanh khoản tốt để luôn sẵn sàng bảo vệ người gửi tiền.
Tuy nhiên hiện nay, BHTGVN mặc dầu đã đi vào hoạt động được hơn 20 năm nhưng vẫn
còn rất nhiều bất cập từ công tác hoạt động cho đến hệ thống pháp luật. Để đảm bảo được quyền
lợi của người gửi tiền, dựa trên kinh nghiệm của các nước phát triển, cần thiết phân tích và đưa
ra các giải pháp thực tiễn cho hoạt động BHTGVN.
3.4.2. Những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động Bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam
Thứ nhất, về hạn mức chi trả: Theo Quyết định số 21/2017/QĐ-TTg ngày 15/6/2017
của Thủ tướng Chính phủ về hạn mức trả tiền bảo hiểm, từ ngày 05/8/2017, số tiền bảo hiểm
được trả cho tất cả các khoản tiền gửi (tính cả lãi và gốc của khoản tiền gửi) được bảo hiểm
theo quy định đối với một cá nhân gửi tiền vào một tổ chức tín dụng tham gia BHTG tối đa là
75.000.000 (Bảy mươi lăm triệu đồng). Có thể thấy, mức chi trả này khá thấp có thể dẫn đến
không thu hút được người gửi tiền. Người gửi tiền sẽ khơng cịn tin tưởng vào hệ thống BHTG,
do họ thấy nếu gặp rủi ro họ sẽ nhận lại một mức tiền không tương xứng với số tiền họ đã gửi
vào ngân hàng. Điều này sẽ dẫn đến người gửi tiền sẽ gửi tiền vào các ngân hàng thương mại
có nguồn vốn lớn do tâm lý an tồn và như vậy sẽ khiến cho các ngân hàng có nguồn vốn nhỏ
hơn gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ hai, về thu phí bảo hiểm tiền gửi: BHTGVN đang thực hiện thu phí bảo hiểm theo

phương pháp thu phí một mức đồng nhất. Hình thức thu phí này là phù hợp với trình độ phát
triển của thị trường tài chính ngân hàng tại Việt Nam cũng như trình độ quản lý, giám sát của
các cơ quan có thẩm quyền và BHTGVN trong thời gian qua.
127


Mơ hình thu phí đồng nhất chưa thể khuyến khích các tổ chức tín dụng cạnh tranh nhau
để tăng mức độ an tồn của mình trên thị trường. Điều mà đáng ra phải được thực hiện một
cách sôi nổi trên thị trường tài chính ngân hàng. Chính vì vậy, phương pháp thu phí ở một mức
đồng nhất thường chỉ được áp dụng cho các thị trường tài chính ngân hàng mới hình thành và
các cơ quan quản lý, giám sát BHTG trên các thị trường mới phát triển.
Thứ ba, năng lực tài chính của bảo hiểm tiền gửi: Hiện nay, tổng vốn của BHTGVN
được ước tính là khoảng 9.000 tỷ đồng, con số này chỉ tương đương khoảng 03 lần vốn điều lệ
của một ngân hàng thương mại trên thị trường. Với nguồn vốn hạn chế, tổ chức BHTG chưa đủ
khả năng để sẵn sàng tham gia hỗ trợ các TCTD có quy mơ lớn hay trong trường hợp phát sinh
hiện tượng rút tiền hàng loạt và cùng với Ngân hàng Nhà nước tham gia xử lý khủng hoảng (nếu
có). Các hình thức đầu tư mà BHTGVN được cấp phép thực hiện còn rất hạn chế và đều đòi hỏi
một mức độ an toàn trong đầu tư khá cao dẫn đến tình trạng khả năng tăng trưởng vốn chưa cao.
Thứ tư, một số yếu tố tác động đến cơ chế quản lý quỹ Bảo hiểm tiền gửi
Một là, khuôn khổ pháp lý
Khuôn khổ pháp lý của hoạt động BHTG là một trong những yếu tố quan trọng và có ảnh
hưởng lớn đến cơ chế quản lý quỹ BHTG. Khuôn khổ pháp lý của hoạt động BHTG ở Việt Nam
là chính sách do Nhà nước ban hành. Chính sách này luôn được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp
với từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy khi có thay đổi về chính sách BHTG sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến quỹ BHTG cũng như cơ chế quản lý quỹ BHTG. Ví dụ, khi chính sách pháp
luật về BHTG quy định các TCTD đều phải tham gia BHTG thì đối tượng tham gia đóng góp vào
quỹ sẽ rất lớn. Ngược lại, nếu chỉ một số đối tượng phải tham gia BHTG thì đối tượng tham gia
đóng phí BHTG sẽ ít đi, ảnh hưởng đến nguồn thu quỹ BHTG. Đồng thời, nếu quy định đối tượng,
loại hình tổ chức tham gia BHTG khác nhau thì nguồn thu đối với quỹ BHTG cũng khác nhau.
Tương tự, nếu chính sách, pháp luật quy định mức đóng góp của từng loại đối tượng như thế nào,

sẽ ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến nguồn thu, sự phát triển của nguồn thu quỹ BHTG.
Khung pháp lý quy định loại hình của tổ chức BHTG cũng quyết định cơ chế quản lý tài
chính của tổ chức BHTG đó. Khung pháp lý quy định loại hình tổ chức BHTG là các quy định
pháp luật tạo ra môi trường, ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính của tổ chức đó trên các mặt:
Huy động vốn, sử dụng vốn, tự chủ tài chính...Ví dụ, khuôn khổ thể chế pháp lý quy định tổ chức
BHTG hoạt động với loại hình tổ chức nào (tổ chức tài chính Nhà nước hay doanh nghiệp…) sẽ
có các quy định hướng dẫn về cơ chế tài chính liên quan đến hoạt động với mơ hình tổ chức đó,
từ đó sẽ ảnh hưởng đến việc hình thành, quản lý và sử dụng quỹ của tổ chức BHTG. Khuôn khổ
pháp lý đầy đủ, nhất quán sẽ tạo môi trường tốt cho việc vận hành quỹ BHTG và ngược lại.
Đối với hoạt động BHTG, cấu trúc và đặc điểm của hệ thống tài chính là nhân tố được coi
là có ảnh hưởng nhiều nhất tới quỹ BHTG. Đặc điểm của hệ thống tài chính: Đối với hoạt động
BHTG, cấu trúc và đặc điểm của hệ thống tài chính có ảnh hưởng nhiều nhất tới quỹ BHTG. Cấu
trúc của hệ thống tài chính ảnh hưởng tới quy mô quỹ BHTG bao gồm: Số lượng các tổ chức
tham gia BHTG, năng lực tài chính của các tổ chức tham gia BHTG, mức độ rủi ro trong hoạt
động của các tổ chức tham gia BHTG, loại tiền gửi và người gửi tiền được bảo hiểm, mức độ tập
trung. Số lượng các tổ chức tham gia BHTG nhiều, tình trạng tài chính của các tổ chức tham gia
BHTG tốt, tổ chức BHTG sẽ có nhiều thuận lợi trong việc phát triển nguồn thu của mình. Các tổ
chức BHTG phát triển đến một trình độ nhất định, thường sử dụng các công cụ tài chính để đầu
128


tư một cách linh hoạt, nâng cao khả năng sinh lời cho vốn của đơn vị mình. Nếu thị trường tài
chính phát triển, tổ chức BHTG có điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng các công cụ tài chính
để phát triển quỹ BHTG. Ngược lại, ở các quốc gia có thị trường tài chính chưa phát triển, tổ chức
BHTG gặp khó khăn hơn trong phát triển nguồn thu thơng qua việc sử dụng các cơng cụ tài chính.
Hai là, cơ chế giám sát, xử lý đổ vỡ
Các quy định về cơ chế giám sát, xử lý đổ vỡ các tổ chức tham gia BHTG là nhân tố ảnh
hưởng đến quỹ BHTG9. Việc giám sát hiệu quả các tổ chức tham gia BHTG, xử lý đổ vỡ một
cách thận trọng làm giảm thiểu nguy cơ gây đổ vỡ ngân hàng, gây thiệt hại cho quỹ BHTG. Tổ
chức BHTG thực hiện giám sát các tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện kịp thời các rủi ro

trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, từ đó có biện pháp can thiệp, xử lý kịp thời.
Tổ chức BHTG có quyền can thiệp sớm vào hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG có
thể làm giảm nguy cơ gây đổ vỡ ngân hàng, đồng thời giảm thiệt hại phát sinh do sử dụng quỹ
BHTG để chi trả cho người gửi tiền khi xảy ra đổ vỡ.
Điều kiện kinh tế vĩ mô: Điều kiện kinh tế vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự
ổn định của hệ thống tài chính nói chung và xác suất đổ vỡ tiềm ẩn. Cơ chế quản lý quỹ BHTG
chịu tác động khách quan của điều kiện kinh tế vĩ mô. Những biến động, thay đổi của mơi trường
kinh tế trong và ngồi nước ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô quỹ BHTG thơng qua hoạt động
đóng phí BHTG của các TCTD, hoạt động đầu tư, hay việc sử dụng quỹ BHTG để chi trả BHTG.
Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng, TCTD thường huy động được
nguồn vốn nhiều hơn, quỹ BHTG cũng vì vậy mà phát triển thông qua nguồn thu phí BHTG.
Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, doanh nghiệp phá sản, người lao động khơng có việc
làm, sẽ gây tác động tiêu cực đến hoạt động huy động vốn của TCTD, nguồn thu quỹ BHTG
cũng vì thế mà suy giảm. Mặt khác, khi thị trường vào giai đoạn khó khăn, tổ chức BHTG cũng
gặp khó khăn trong việc hồn thành kế hoạch tăng trưởng vốn thông qua thu nhập từ hoạt động
đầu tư, kế hoạch tài chính…Đối với tổ chức tham gia BHTG, khi nền kinh tế suy thoái, các
doanh nghiệp vay vốn ngân hàng hoạt động khó khăn, khó có khả năng trả nợ, dẫn đến nợ xấu
của ngân hàng tăng, ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Trường
hợp này gây rủi ro mất vốn cho quỹ BHTG do phát sinh chi trả BHTG. Việc chấp hành các quy
định của các tổ chức tham gia BHTG: Thơng qua việc đóng phí đầy đủ, đúng hạn từ các tổ chức
tham gia BHTG, tạo nên nguồn thu dồi dào, sát kế hoạch dự toán cho quỹ BHTG, từ đó ảnh
hưởng đến việc quản lý và sử dụng quỹ BHTG.
Nếu các tổ chức tham gia BHTG không hợp tác, hay chấp hành chưa đúng các quy định
về đóng phí BHTG, dẫn đến khó khăn trong việc thu đúng, thu đủ phí BHTG, ảnh hưởng đến
nguồn thu của quỹ BHTG, từ đó ảnh hưởng tới cơ chế quản lý quỹ BHTG. Bên cạnh các yếu
tố nêu trên, cơ chế quản lý quỹ BHTG còn chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác như: Hệ
thống văn bản quản trị, điều hành; hệ thống kế toán, kiểm soát, kiểm toán nội bộ.
3.5. Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả Bảo hiểm tiền gửi hoạt động
trong bảo vệ người gửi tiền
Thứ nhất, nâng cao hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm: Thực tế, theo quy định hạn

(Tuấn Hưng, 2021). Một số yếu tố ảnh hưởng tới cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm tiền gửi. Truy cập tại link:
/>9

129


mức chi trả bảo hiểm là 75 triệu đồng là q thấp và khơng cịn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội10. Đây là một trong những nguyên nhân tác động tiêu cực tới khả năng huy động vốn
nhàn rỗi trong dân và gián tiếp khiến hoạt động BHTG không đạt được hiệu quả như mong
đợi.Hạn mức chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền nên được để ở mức gấp 5 - 6 lần GDP. Trên
cơ sở tính tốn theo các thơng lệ quốc tế, hạn mức chi trả tiền bảo hiểm tối đa của BHTGVN
hiện nay được tính theo mức gấp 5,5 lần GDP. Với cách tính này, năm 2019, GDP bình quân
đầu người của Việt Nam là 2.700 USD thì hạn mức chi trả BHTG sẽ là 14.850 USD (tương
đương 340 triệu đồng, với mức tỷ giá trung bình tại thời điểm năm 2019 là 23.000 VNĐ/USD).
Dựa trên tính toán theo số liệu năm 2019, Luật BHTG có thể nâng hạn mức chi trả lên khoảng
350 triệu đồng cho một cá nhân gửi tiền tại một tổ chức tín dụng, đây mới là con số hợp lý.
Thứ hai, xây dựng mơ hình thu phí bảo hiểm hiệu quả: Mức thu phí BHTG đang được áp
dụng cho các tổ chức tín dụng tham gia là một mức phí chung 1,5%. Việc thu phí bảo hiểm
đồng hạng dẫn tới đánh đồng mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG, làm giảm động
lực nâng hạng tín dụng của các tổ chức này cũng như chưa đáp ứng tính công bằng trong nội
bộ các tổ chức tín dụng tham gia BHTG tại Việt Nam. Mơ hình thu phí bảo hiểm dựa trên cơ
sở rủi ro của từng tổ chức tín dụng đem lại nhiều lợi ích cho BHTGVN. Tuy nhiên, đây chưa
phải là một mơ hình thu phí hồn hảo nếu BHTGVN khơng cân nhắc tới một số yếu tố, cụ thể:
Một là, mơ hình thu phí bảo hiểm phân biệt tạo ra nguồn quỹ/nguồn vốn hợp lý cho
BHTGVN. Song, tác động tích cực của mô hình chỉ có thể phát huy trong trường hợp BHTGVN
đủ khả năng để phát hiện sớm rủi ro tiềm tàng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều chỉnh mức
thu phí cho phù hợp.
Hai là , việc điều chỉnh mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng tham gia BHTG nên cân nhắc
tới yếu tố quy mô quỹ bảo hiểm11. Việc áp dụng mức phí bảo hiểm thấp cho các tổ chức có mức rủi
ro thấp sẽ khiến mức phí bảo hiểm tiêu chuẩn cao hơn để đạt được quy mô quỹ bảo hiểm đã đề ra.
Ba là, lộ trình chuyển đổi từ mơ hình thu phí đồng nhất hiện tại sang mơ hình thu phí dựa trên

cơ sở mức độ rủi ro cần phải được nghiên cứu, phân tích và kiểm định kỹ càng. Bởi chuyển đổi hình
thức thu phí bảo hiểm sẽ gây ra sự xáo trộn nhất định trong nội bộ BHTGVN cũng như thị trường.
Thứ tư, nâng cao năng lực tài chính của tổ chức BHTG Việt Nam: Hiện nay, Luật BHTG
và các hệ thống văn bản pháp luật khác chưa đưa ra các quy định cụ thể về trình tự tiến hành tiếp
nhận hỗ trợ từ ngân sách nhà nước hay được vay từ các tổ chức tín dụng, tổ chức khác trong
trường hợp các tổ chức BHTG tạm thời không đủ khả năng chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi
tiền. Bên cạnh đó, việc đáp ứng chi trả ngay cho các tổ chức tín dụng tham gia BHTG có quy mô
lớn hay cùng lúc chi trả cho nhiều tổ chức tín dụng tham gia BHTG cũng là một thách thức theo
quy định hiện hành. BHTGVN chỉ được tiếp nhận hỗ trợ từ Chính phủ theo ngun tắc có hồn
trả từ ngân sách nhà nước hoặc đi vay từ những tổ chức tín dụng, tổ chức khác nhưng phải có bảo
lãnh của Chính phủ. Có thể thấy, việc ràng buộc nguồn vốn chi trả của BHTGVN trong các trường
hợp cần hỗ trợ đang làm giảm khả năng đáp ứng chi trả ngay của BHTGVN, đặc biệt trong những
(Mai Anh, 2021). Nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi: Tiếp tục thực hiện hiệu quả mục tiêu của chính sách bảo
hiểm tiền gửi. Truy cập tại link: />11
(Hồng Dung, 2021). Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam từng bước nâng tầm. Truy cập tại:
/>10

130


thời điểm khó khăn của hệ thống tín dụng như trường hợp xảy ra đối với các ngân hàng yếu kém
buộc phải phá sản (OceanBank. Bank là một ví dụ điển hình) trong thời gian qua.
Do đó, cần có một số quy định mở rộng nguồn hỗ trợ khác cho BHTGVN nhằm nâng cao
khả năng chi trả cho người gửi tiền. Hơn hết, Luật BHTG năm 2012 cần được bổ sung, sửa đổi
nhằm nâng cao hơn nữa năng lực tài chính của BHTGVN.
4. KẾT LUẬN
Sự hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng tự do hóa tài chính – ngân hàng sẽ làm gia tăng
rủi ro đối với hoạt động ngân hàng. Trong bối cảnh hội nhập với nhiều thách thức như vậy, vai
trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam càng cần thể hiện là một định chế tài chính quan trọng
khơng thể thiếu của nền kinh tế hiện đại.

BHTGVN với vai trị là một cơng cụ chính sách cơng của Chính phủ, là một thành viên của
Mạng giám sát an tồn tài chính quốc gia, đã có nhiều cố gắng và đạt được những thành tựu bước
đầu tương đối khả quan. Song với diễn biến hiện tại và triển vọng phát triển của hệ thống ngân
hàng thì hoạt động của BHTGVN thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định.
Nếu khắc phục được những hạn chế đó, vai trị của BHTGVN sẽ mang lại hiệu quả lớn
hơn, góp phần tích cực hơn vào việc nâng cao vị thế, vai trò của BHTGVN đối với hệ thống tài
chính – tiền tệ nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội (2012) Luật Bảo hiểm tiền gửi Số: 06/2012/QH13, ngày 18/6/2012.
2. Quốc hội (2010) Luật Các tổ chức tín dụng Số: 47/2010/QH12, ngày 16/6/2010.
3. Quốc hội (2017) Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng Số: 17/2017/QH14,
ngày 20/11/2017.
4. Chính phủ (2013), Nghị định về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013
5. Chính phủ (2013). Quyết định về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và quy định chức năng,
nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Quyết định 1395/QĐ - TTg ngày 13/8/2013.
6. Bùi Thu Hương (2010). Hoàn thiện nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
(Luận văn thạc sĩ). Học viện Ngân hàng.
7. Bùi Hữu Toàn (2012). Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
(Luận án tiến sĩ). Học viện Khoa học xã hội
8. Hồ Sỹ Thụy (2005). Giám sát của bảo hiểm tiền gửi Việt nam đối với hoạt động của các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tạp chí Thị trường tài chính, tr.31
9. Lê Thị Kim Oanh (2004). Giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam (Luận văn
thạc sĩ). Học viện Ngân hàng.
10. Lê Thị Thu Thủy (2008), Pháp luật về BHTG ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 36
11. Lê Chiến Thắng và nnk.. (2020). Một số biện pháp hoàn thiện và nâng cao tính hiệu quả trong hoạt
động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam. Tạp chí Cơng thương online.
12. Nguyễn Mạnh Dũng (2004). Những vấn đề chung về chế độ tính phí bảo hiểm gắn với mức độ rủi
ro của các ngân hàng. Tạp chí Ngân hàng, số 2, tr.16.
13. Nguyễn Mạnh Dũng, Kinh nghiệm tính phí bảo hiểm tiền gửi căn cứ vào mức độ rủi ro của các ngân

hàng tại Canada, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, tr.31.

131



×