Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

Luận án nghiên cứu giải pháp phát triển thể thao ngoại khóa cho sinh viên trường đại học tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 199 trang )

1
MỞ ĐẦU
Trong xã hội phát triển hiện nay việc đào tạo con người với đầy đủ
nhân cách sáng tạo không chỉ giới hạn bởi sự phát triển trí tuệ, mà còn đỏi
hỏi giáo dục con người phát triển hài hòa tồn diện: đức - trí - thể - mỹ. Đó
là mục tiêu giáo dục và đào tạo con người mới của nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Giáo dục thể chất trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học
chuyên nghiệp là một mặt giáo dục quan trọng không thể thiếu được trong
sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện mục tiêu: “Nâng cao dân
trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài” cho đất nước. Cơng tác giáo dục
thể chất nói chung và việc giảng dạy thể dục nói riêng trong các trường Đại
học và Cao đẳng có ý nghĩa quan trọng. Việc học tập và tập luyện thể dục
thể thao (TDTT) là điều kiện hết sức cần thiết để phát triển thể chất, bảo vệ
và củng cố sức khỏe, hình thành các năng lực học tập chung và chun
mơn, góp phần thích nghi với điều kiện học tập, nâng cao trình độ cho sinh
viên (SV) đang theo học trong nhà trường qua đó phát huy vai trị cá nhân
trong việc học tập tích cực tự giác.
Giáo dục thể chất (GDTC) luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm,
coi sức khoẻ là một vốn quý của con người. Quy chế “Giáo dục thể chất và y
tế trường học” (Ban hành kèm theo Quyết định số 14/2001/QĐ-BGD&ĐT
ngày 03/05/2001 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) khẳng định: “... Hoạt động
thể dục, thể thao ngoại khóa (TDTT NK) (cịn gọi là hoạt động thể thao
ngoại khóa – Luật TDTT – 2006) theo kế hoạch của nhà trường và các cấp
quản lý giáo dục, bao gồm:
Tự luyện tập, luyện tập có hướng dẫn, luyện tập theo nội dung tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể áp dụng cho từng lứa tuổi, luyện tập các mơn thể
thao có trong chương trình thi đấu của Hội khỏe Phù Đổng, Đại hội Thể dục
thể thao, sinh viên, học sinh chuyên nghiệp trong và ngoài nước;



2
Luyện tập trong các câu lạc bộ thể dục, thể thao hoặc các trung tâm thể
dục, thể thao trong và ngoài nhà trường;
Luyện tập và thi đấu trong các đội tuyển thể dục, thể thao của trường,
địa phương, ngành và quốc gia.
Tổ chức thể thao ngoại khóa trong nhà trường cho học sinh, sinh viên
đã được Bộ GD & ĐT ban hành (Quyết định số 72/2008/QĐ-BGDĐT ngày
23/12/2008) nhằm động viên, khuyến khích học sinh, sinh viên tự giác tham
gia tập luyện thể thao; hình thành thói quen rèn luyện thân thể thường xuyên
cho học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, so với mục tiêu, u cầu, vì nhiều ngun
nhân mà khơng ít trường đại học và chuyên nghiệp ở nước ta nói chung và
trường Đại học Tây Bắc nói riêng thực hiện chưa có hiệu quả cao, điều này
làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo chung mà rõ nhất là thể
chất sinh viên khi ra trường.
Trong những năm qua phong trào thể dục, thể thao quần chúng nói
chung, công tác giáo dục thể chất và thể thao ngoại khóa (TTNK) của trường
Đại học Tây Bắc nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đội ngũ giảng
viên Bộ môn TDTT được đào tạo nâng cao kiến thức đã từng bước đáp ứng
được yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên vì lý do khách quan, trường
Đại học Tây Bắc mới chuyển về cơ sở mới chưa được lâu nên điều kiện cơ sở
vật chất (CSVC), sân chơi, bãi tập, cơng trình thể thao, dụng cụ tập luyện thi đấu
thể thao bước đầu đã được quy hoạch và đầu tư xây dựng nhưng phần lớn vẫn
chưa hoàn thiện và chưa được sử dụng nên còn nhiều hạn chế.
Chiến lược phát triển Thể dục, Thể thao Việt Nam đến năm 2020 đã
khẳng định: “Phát triển thể dục, thể thao là một bộ phận quan trọng trong
chính sách phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và nhà nước nhằm bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Phát triển thể dục, thể thao để góp
phần nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải



3
thiện chất lượng giống nòi, tăng cường thể lực của thanh thiếu niên. Phát
triển mạnh thể dục, thể thao là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, Chính
quyền, các đồn thể nhân dân và tổ chức xã hội, là nhiệm vụ của tồn xã
hội, trong đó ngành thể thao giữ vai trị nịng cốt. Thực hiện xã hội hố thể
dục, thể thao dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước. ...”.
Trường Đại học Tây Bắc (ĐHTB) nằm ở nằm ở phía Tây Bắc của Tổ
quốc (tổ 2, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La) là trường có
bề dày lịch sử hơn 60 năm phát triển và trưởng thành, đã đạt nhiều thành tích
cao trong cơng tác giáo dục đào tạo và là trường đại học lớn nhất trong các
tỉnh khu vực Tây Bắc. Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng nhà nước và
Bộ Giáo dục, trường đã và đang được đầu tư xây dựng trên diện tích rộng tại
địa bàn thành phố Sơn La, có vị trí thuận lợi về mặt kinh tế, văn hóa, chính
trị quan trọng của tỉnh.
Phong trào tập luyện và thi đấu TTNK trong nhà trường bước đầu cũng
đã được quan tâm, một số môn thể thao đã được nhà trường tổ chức giải như:
bóng bàn, cầu lơng, bóng đá, bóng chuyền, điền kinh... Tuy nhiên do điều
kiện thực tế của nhà trường về các yếu tố cơ sở vật chất, chương trình, kế
hoạch... và một số điều kiện khách quan nên nội dung của các giờ học chính
khóa mới chỉ đáp ứng được phần nào yêu cầu đề ra, phong trào tập luyện
TTNK của SV còn hạn hẹp và thể lực chung của các em còn yếu. Để hoạt
động TTNK được tổ chức có hiệu quả, ngồi nhiều việc phải làm như đẩy
mạnh công tác tuyên truyền về lợi ích của TTNK, chú trọng đầu tư về CSVC
TDTT, tăng cường lãnh đạo và chỉ đạo của lãnh đạo nhà trường, các khoa, bộ
môn và đặc biệt là bộ môn TDTT thì vấn đề quan trọng đặc biệt cần quan tâm
là phải tiếp tục thông tin tuyên truyền về lợi ích của tập luyện TTNK và có
nội dung, giải pháp, hình thức tổ chức đảm bảo tính khoa học, lơi cuốn được
đông đảo SV tự giác, hào hứng tham gia.



4
Hiểu rõ tầm quan trọng của lĩnh vực nghiên cứu này, nhiều nhà khoa
học giáo dục đã quan tâm nghiên cứu, các tài liệu tiêu biểu có thể đề cập đến
như: Nguyễn Thị Mai Thoan (2011), Vũ Việt Hùng (2012), Nguyễn Đức
Thành (2013), Vũ Đức Văn (2014), Phạm Duy Khánh (2015), Trần Vũ
Phương (2016), Phùng Xuân Dũng (2017), Nguyễn Ngọc Minh (2017), Đặng
Minh Thành (2018), Vũ Anh Tuấn (2019), Phạm Thanh Lương (2020). Tuy
nhiên, các đề tài nghiên cứu theo hướng nghiên cứu các giải pháp phát triển
thể thao ngoại khóa cho sinh viên vùng Tây Bắc cịn rất ít, đặc biệt dành cho
đối tượng sinh viên trường Đại học Tây Bắc thì chưa có đề tài nào đề cập tới.
Trên cơ sở phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng, tính cấp thiết của vấn đề.
Căn cứ vào các yêu cầu thực tiễn nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Nghiên cứu giải pháp phát triển thể thao ngoại khóa cho sinh viên
trường Đại học Tây Bắc”.
Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc đánh giá đúng thực trạng thể thao ngoại khóa của sinh
viên trường Đại học Tây Bắc. Luận án nghiên cứu lựa chọn một số giải pháp cấp
thiết và khả thi nhằm phát triển thể thao ngoại khóa cho SV trường Đại học Tây
Bắc. Tổ chức các hình thức thể thao ngoại khóa đa dạng và phù hợp cho SV, từ
đó nâng cao sức khỏe, thể lực, kết quả học tập, đời sống tinh thần, hình thành
thói quen rèn luyện thân thể thường xuyên cho SV trường Đại học Tây Bắc.
Mục tiêu nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án xác định giải quyết các mục
tiêu nghiên cứu sau:
Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng thể thao ngoại khóa của sinh viên
trường Đại học Tây Bắc.
Mục tiêu 2: Lựa chọn và đánh giá hiệu quả một số giải pháp phát triển
thể thao ngoại khóa cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.



5
Giả thuyết khoa học
Phong trào TTNK của sinh viên trường Đại học Tây Bắc trong những
năm qua đang từng bước được quan tâm và có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy
nhiên vẫn chưa thật sự sâu rộng, vững chắc. Chính vì vậy việc nghiên cứu, tìm ra
các giải pháp có đủ cơ sở khoa học, được kiểm chứng trong thực tế, phù hợp với
điều kiện TTNK của SV nhà trường thì sẽ tạo ra một chuyển biến rõ rệt và thu
hút đơng đảo SV tham gia TTNK, từ đó nâng cao được thể lực cũng như hiệu
quả học tập cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.


6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm về GDTC
Thuật ngữ giáo dục thể chất có từ lâu trong ngơn ngữ nhiều nước. Ở
nước ta, do bắt nguồn từ gốc Hán – Việt nên cũng có người gọi tắt giáo dục
thể chất là thể dục theo nghĩa tương đối hẹp. Vì theo nghĩa rộng của từ Hán –
Việt cũ, thể dục cịn có nghĩa là thể dục thể thao.
GDTC trong trường học được định nghĩa: “là mơn học chính khóa
thuộc chương trình GD nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản
cho người học thông qua các bài tập và trị chơi vận động, góp phần thực
hiện mục tiêu GD tồn diện”.
GDTC là một loại hình giáo dục nên nó là một q trình giáo dục có tổ
chức, có mục đích, có kế hoạch để truyền thụ những tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo… từ thế hệ này cho thế hệ khác. Điều đó có nghĩa GDTC cũng như các
loại hình giáo dục khác là quá trình sư phạm với đầy đủ đặc điểm của nó.
GDTC là một bộ phận của TDTT. Là một trong những hình thức hoạt
động cơ bản có định hướng rõ của TDTT trong xã hội; là một q trình có
tổ chức để truyền thụ và tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ thống

giáo dục - giáo dưỡng chung (chủ yếu trong các nhà trường).
Có nhiều khái niệm về GDTC, theo Vũ Đức Thu, GDTC là quá trình sư
phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân
cách, nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ.
Theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn: “Giáo dục thể chất là một loại
hình giáo dục mà nội dung chuyên biệt là dạy học vận động (động tác) và phát
triển có chủ định các tố chất vận động của con người” [40]. Từ quan niệm trên
có thể coi phát triển thể chất là một phần hệ quả của giáo dục thể chất. Q
trình phát triển thể chất có thể chỉ là bẩm sinh tự nhiên (sự phát triển thể chất tự
nhiên của trẻ khi đang lớn) hoặc còn có thêm tác động có chủ đích, hợp lý của
GDTC mang lại.


7
Giáo dục thể chất là quá trình giải quyết những nhiệm vụ giáo dục, giáo
dưỡng mà đặc điểm của quá trình này là có tất cả các dấu hiệu chung của q
trình sư phạm, vai trị chỉ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động tương ứng
với các nguyên tắc sư phạm nhằm hoàn thiện thể chất, nhân cách, năng lực
vận động và nâng cao khả năng làm việc, kéo dài tuổi thọ của con người.
Giáo dục thể chất được chia thành hai mặt riêng biệt, dạy học động
tác và giáo dục các tố chất vận động.
Bên cạnh thuật ngữ GDTC người ta thường dùng thuật ngữ chuẩn bị
thể lực, về bản chất hai thuật ngữ này có ý nghĩa như nhau. Nhưng thuật ngữ
thứ 2 thường được nhắc tới khi nhấn mạnh tính thực dụng của GDTC đối với
lao động hoặc các hoạt động khác.
GDTC kết hợp các mặt giáo dục khác như: đức, trí, thể, mĩ nhằm phát
triển con người cân đối toàn diện.
Giáo dục thể chất là một hiện tượng xã hội, xuất hiện cùng với sự xuất
hiện của xã hội loài người và tuân theo sự phát triển xã hội, cho nên nó
mang tính lịch sử và tính giai cấp.

GDTC ra đời bởi hai nguyên nhân, nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân khách quan là điều kiện bắt buộc muốn có ăn, ở, mặc thì
con người phải tự săn bắn hái lượm được để kiếm sống, chính hoạt động săn
bắn và hái lượm đã làm cho bài tập thể chất ra đời.
Nguyên nhân chủ quan do thức ăn ngày một khan hiếm, muốn đáp ứng
được yêu cầu của cuộc sống thì qua quá trình lao động, con người đã nhận
thức ra được vai trò của việc chuẩn bị trước cho lao động sẽ giúp cho lao
động đạt được kết quả càng cao. Từ đó bài tập thể chất ra đời.
GDTC có chức năng chuẩn bị thể lực cho con người, để thực hiện
các hoạt động do xã hội quy định.
GDTC trong trường học được thực hiện dưới hai hình thức: GDTC nội


8

khóa và ngoại khóa (cịn gọi là thể thao ngoại khóa).
1.1.2. Khái niệm về GDTC nội khóa
Từ khái niệm nêu trên, có thể hiểu GDTC nội khóa: là q trình
dạy học động tác và phát triển có chủ đích các tố chất vận động cho học sinh,
sinh viên, được tổ chức theo qui định của “Chương trình giáo dục”
và “Chương trình đào tạo” trong hệ thống nhà trường các cấp thuộc
hệ thống giáo dục quốc dân.
Biểu hiện cơ bản của GDTC nội khóa là một mơn học được thực hiện
theo tiết học trong mỗi học kỳ và năm học. Học sinh, sinh viên phải đạt được
yêu cầu của môn học trong quá trình được đào tạo tại nhà trường.
Dấu hiệu quan trọng của GDTC nội khóa là q trình sư phạm được
tiến hành theo kế hoạch học tập chặt chẽ của nhà trường. Trong đó, mỗi tiết
học được tổ chức phù hợp với những nguyên tắc sư phạm chung và nguyên
tắc chuyên biệt của GDTC.

1.1.3. Khái niệm về thể thao ngoại khóa
Khác biệt cơ bản với GDTC nội khóa, thể thao ngoại khóa khơng thuộc
chương trình và kế hoạch đào tạo của cấp học, bậc học.
Hoạt động ngoại khóa là những hoạt động được thực hiện ngoài
giờ học, tuỳ thuộc vào hứng thú, sở thích, nguyện vọng của mỗi học
sinh, sinh viên trong khuôn khổ, khả năng và điều kiện tổ chức có được
của nhà trường [63].
TDTT ngoại khóa: TDTT ngoại khóa có vị trí quan trọng trong
giáo dục và TDTT trường học. Các hoạt động ngoại khóa kết hợp cùng
với các hoạt động dạy học cấu thành một cấu trúc giáo dục trường học
hồn chỉnh, góp phần hồn thành mục tiêu nhiệm vụ của giáo dục. TDTT
ngoại khóa và GDTC nội khóa là một thể thống nhất của TDTT trường
học, song song tồn tại hỗ trợ nhau. Trong quá trình tổ chức tập luyện thể thao
cịn có thể giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ: tăng cường sức khỏe, phát


9
triển toàn diện và hài hoà, giáo dục tố chất thể lực và hình thành kỹ năng, kỹ
xảo vận động cần thiết và vui chơi, giải trí trong cuộc sống.
Luật TDTT định nghĩa “Hoạt động TTNK trong nhà trường là
hoạt động tự nguyện của người học được tổ chức the o phương thức
ngoại khố phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ nhằm
tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển
năng khiếu thể thao” [34].
Thể thao ngoại khóa là hoạt động nằm ngồi chương trình chính khố.
Nó có mục đích là nhằm củng cố kiến thức cho SV, tạo môi trường học tập
hiệu quả, nâng cao chất lượng đào tạo.
Trong điều kiện đào tạo theo niên chế, TTNK không được coi là nội
dung bắt buộc với sinh viên; là hoạt động tự nguyện của sinh viên, được
diễn ra dưới hai hình thức cơ bản:

Hoạt động có tính chun biệt nâng cao do nhà trường tổ chức và quản
lý (các đội thể thao, của nhà trường, của khoa, hoạt động của các đội tuyển,
thi đấu giao hữu…).
Hoạt động tự tập luyện (của cá nhân, nhóm, lớp..) theo nhu cầu, sở thích
của bản thân sinh viên (tập thể dục buổi sáng, tập thể lực, tham gia các câu
lạc bộ thể thao, tự học theo nội dung của GDTC nội khóa, tập luyện với
mục đích vui chơi giải trí…).
Trong điều kiện đào tạo theo học chế tín chỉ, một tỷ lệ lớn thời lượng
của chương trình GDTC nội khóa được thực hiện dưới hình thức tự học.
Vì vậy, ở một chừng mực nhất định, TTNK còn được hiểu là hoạt động tự
học theo nội dung và yêu cầu GDTC nội khóa nhằm thực hiện có hiệu quả
mục tiêu của chương trình GDTC.
1.1.4. Hoạt động thể thao
Hoạt động thể thao là một loại hình hoạt động đặc thù có tính chất sáng
tạo của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu, sở thích cá nhân và hướng tới sự


10
kiệt xuất về thành tích, kỉ lục thể thao của bản thân và đất nước.
Trong hoạt động thể thao, con người sử dụng tổng hợp các hình thức
vận động cơ thể, các thủ pháp, phương pháp có liên quan tới việc giải
quyết nhiệm vụ vận động và nâng cao năng lực thể chất, năng lực tâm lí để
thi đấu thể thao đạt kết quả cao.
Hoạt động thể thao là một lĩnh vực hoạt động không thể thiếu được của
con ngươi mới và xã hội văn minh, bởi lẽ hoạt động thể thao thỏa mãn
nhu cầu phát triển thể chất, tinh thần, văn hóa của mỗi con người và cả dân
tộc. Hoạt động thể thao góp phần hình thành nhân cách con người phát triển
toàn diện. Sản phẩm hoạt động thể thao có thang giá trị cao, biểu hiện sức
sống và tự do sáng tạo của con người, sự phồn vinh của đất nước và mức độ
văn minh của cuộc sống xã hội [32].

1.1.5. Hoạt động thể thao trường học
Theo Điều 20, Luật thể dục, thể thao thì: Hoạt động thể thao trong nhà
trường là một hoạt động tự nguyện của người học được tổ chức theo phương
thức ngoại khoá phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khoẻ nhằm
tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng
khiếu thể thao [34].
Hoạt động thể thao trong nhà trường là một hoạt động tự nguyện của
HSSV, được tổ chức theo phương thức ngoại khóa, CLB TDTT, nhóm, cá
nhân phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe, nhằm hồn thiện
các kỹ năng vận động, hỗ trợ thực hiện mục tiêu giáo dục thể chất thơng
qua các hình thức luyện tập, thi đấu thể thao, tạo điều kiện cho HSSV thực
hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao; phát hiện và
bồi dưỡng năng khiếu, tài năng thể thao.
1.1.6. Khái niệm về giải pháp
Khái niệm giải pháp: Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Giải
pháp’’ được hiểu là phương pháp giải quyết một vấn đề. Ở đây giải pháp


11
được hiểu là cách thức, là một công cụ người ta dùng để giải quyết những
vấn đề đặt ra trong thực tiễn. Trong cách hiểu này đôi khi người ta cũng
dùng thuật ngữ “biện pháp” để thay thế. Theo từ điển Tiếng Việt “biện
pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể” [58]. Tuy nhiên hai
khái niệm này có thể dùng thay thế cho nhau trong thực tiễn, nhưng về
bản chất, khái niệm “giải pháp” có nghĩa là nội dung rộng lớn hơn, có tính
chất vĩ mơ hơn so với “biện pháp” thường để chỉ cách thức giải quyết một
cơng việc cụ thể nào đó [57], [58].
Theo nghĩa này, người ta còn xem biện pháp là cách thức, cơng cụ để
thực hiện giải pháp đó.
Trong quản lý, giải pháp dùng để giải quyết một vấn đề thường được đặt

ra trên nền tảng của việc phân tích các điểm mạnh (thành tựu), điểm yếu (hạn
chế) của một tổ chức, những cơ hội và thách thức đối với tổ chức đó trong bối
cảnh chung của xã hội ở phạm vi quốc gia và quốc tế. Giải pháp đồng thời cũng
dựa trên các quan điểm, mục tiêu tổng quát và mục tiêu chung của vấn đề được
đặt ra và giải quyết ở tầm vĩ mô.
Trong giáo dục, mọi vấn đề quan hệ giáo dục đều có tính quy luật.
Giải pháp GD là một hệ thống những quy luật, nhiệm vụ của các nhà khoa
học, các nhà quản lý giáo dục là phải nghiên cứu tìm ra các quy luật đảm
bảo cho những thành công của công tác giáo dục. Điều này địi hỏi các nhà
nghiên cứu phải phân tích được thực tiễn giáo dục Việt Nam nói riêng và các
nền GD tiên tiến trên thế giới, từ đó khái quát thành những giải pháp cơ
bản, đúng đắn, phù hợp với nền GD trong nước.
Giải pháp thường được gắn liền với từ "đột phá" hoặc "then chốt" nhằm
nhấn mạnh tầm quan trọng của giải pháp đó. Có thể hiểu "giải pháp đột phá" là
giải pháp mở đường cho các giải pháp khác, còn "giải pháp then chốt" là giải
pháp quan trọng, có tác dụng quan trọng đối với tồn bộ các vấn đề liên quan.
Như trong các giải pháp Chiến lược phát triển GD 2011 - 2020, Thủ


12
tướng chính phủ đã xác định giải pháp " đổi mới quản lý giáo dục là giải pháp
đột phá", còn “phát triển nhà giáo và CBQL GD là giải pháp then chốt".
Trong luận án này sử dụng khái niệm giải pháp với ý nghĩa là
cách thức để nâng cao hiệu quả thể thao ngoại khóa cho sinh viên trường
Đại học Tây Bắc. Như vậy khái niệm giải pháp mà luận án sử dụng còn là
một phương thức tổ chức thực hiện gồm có mục đích, nội dung, phương
pháp triển khai, cách đánh giá kết quả [19], [22].
1.2. Quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách Nhà nước về cơng
tác GDTC
Ngay từ khi cịn hoạt động bí mật Đảng ta ln coi trọng công tác TDTT

và công tác giáo dục TDTT, thể hiện trong chương trình cứu nước của Mặt trận
Việt Minh 3/1941 có đoạn: “Cần phải khuyến khích và giúp đỡ nền TDTT quốc
dân, làm cho nòi giống ngày thêm khoẻ mạnh” và trên cơ sở “Xét vấn đề Thể dục
rất cần thiết để tăng bổ sức khỏe Quốc dân và cải tạo nịi giống Việt Nam”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh
đạo thành cơng cách mạng giải phóng dân tộc qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ. Về giáo dục và TDTT, đặc biệt là TDTT trường
học, Bác cũng thể hiện sự quan tâm sâu sát, Người coi đó là mục tiêu quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho thế hệ thanh niên,
SV, HS. Nhằm tăng cường và mở rộng các hoạt động TDTT và trực tiếp chỉ
đạo công tác GDTC cho thế hệ trẻ, ngày 31/01/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh số 14, lập ra Nha Thể dục trung ương thuộc Bộ Thanh niên với
nhiệm vụ: “Liên lạc mật thiết với bộ Y tế và Bộ Giáo dục để nghiên cứu
phương pháp và thực hành thể dục trong toàn quốc”, nhằm “Tăng bổ sức
khoẻ quốc dân và cải tạo nòi giống Việt Nam”[12], [51].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã
ký ban hành sắc lệnh số 33 thành lập trong Bộ quốc gia Giáo dục Nha Thanh


13
niên và Thể dục. Trong ngày này, Người đã viết bài báo Sức khoẻ và Thể dục,
động viên toàn dân tập thể dục để nâng cao sức khoẻ:
“Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng
có sức khoẻ mới làm thành cơng. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước
yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ. Vậy nên
luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi một người yêu nước.
Việc đó khơng tốn kém, khó khăn gì. Gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai
cũng làm được. Mỗi ngày lúc ngủ dậy, tập một ít thể dục. Ngày nào cũng tập
thì khí huyết lưu thơng, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khoẻ.
Bộ Giáo dục có Nha Thể dục, mục đích là để khuyên và dạy cho

đồng bào tập thể dục, đặng giữ gìn và bồi đắp sức k hoẻ. Dân cường thì
quốc thịnh. Tơi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi ngày
nào cũng tập”.
Hoạt động TDTT lần đầu tiên được luật hóa thông qua là Pháp lệnh
TDTT được ban hành năm 2000. Trong đó quy định: Thể dục, thể thao
trường học bao gồm GDTC và hoạt động thể dục, TTNK cho người học.
GDTC trong trường học là chế độ giáo dục bắt buộc nhằm tăng cường sức
khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp
ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho người học. Nhà nước khuyến khích
hoạt động thể dục, thể thao ngoại khố trong nhà trường [47]. Đây là văn
bản pháp luật cao nhất trong suốt những năm qua kể từ ngày thành lập
ngành TDTT. Pháp lệnh TDTT đã thể chế hoá đường lối, chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta trong công tác xây dựng và phát triển sự nghiệp
TDTT và TDTT trường học nói riêng. Pháp lệnh cũng đã phát huy hiệu lực,
đi vào thực tiễn đời sống và kịp thời điều chỉnh các mặt của hoạt động
TDTT học đường trên toàn lãnh thổ trong suốt những năm qua.


14
Năm 2001 đại hội Đảng lần thứ 9 đã chỉ rõ: “Cần tiếp tục đổi mới, tạo
chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả GDTC nhằm đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước...”.
Năm 2002, Ban Chấp hành TW Đảng đã ban hành chỉ thị số 17-CT/TW
về phát triển TDTT tới năm 2010, trong đó nhấn mạnh: "Đẩy mạnh hoạt động
TDTT ở trường học. Tiến tới đảm bảo mỗi trường học đều có giáo viên thể
dục chuyên trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao
chất lượng GDTC; xem đây là một tiêu chí cơng nhận trường chuẩn quốc
gia", "Tăng cường đầu tư của nhà nước cho lĩnh vực TDTT, ưu tiên cho việc
phát triển TDTT ở trường học, ở nông thôn và ở miền núi" [3]. Như vậy, tới
những năm 2002, hoạt động TDTT trường học đã được quan tâm sâu sắc, tạo

hành lang pháp lý để hoàn thiện và phát triển.
Luật Giáo dục (2018) quy định về mục tiêu của giáo dục đại học là:
Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân
dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ
đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [37].
Ngay trong Luật Giáo dục, vấn đề giáo dục sức khỏe cho học sinh trong
trường học các cấp đã được quan tâm chú ý.
Sau một thời gian dài, năm 2018 Luật TDTT được Quốc hội thông qua,
ghi dấu ấn mới cho sự phát triển TDTT của nước nhà. Luật TDTT đã dành
riêng một mục gồm 6 điều để quy định về công tác GDTC và hoạt động thể
thao trong nhà trường, đây là cơ sở pháp lý để tăng cường trách nhiệm đối với
cơng tác TDTT nói chung, cơng tác TDTT trong trường học nói riêng. Nhằm
đưa công tác giáo dục thể chất trong nhà trường trở thành một bộ phận quan
trọng của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, cũng như xác định đúng đắn về vị trí
giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường các cấp.


15
Điều 20 Luật Thể dục, Thể thao được ban hành ngày 19 tháng 11 năm
2018 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Giáo dục thể
chất và thể thao trong nhà trường bao gồm 2 nội dung chính:
“GDTC là mơn học chính khố thuộc chương trình giáo dục nhằm cung
cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua các bài tập
và trị chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện”, đây
cịn được gọi là Thể dục nội khóa.
“Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của người
học được tổ chức theo phương thức ngoại khố phù hợp với sở thích, giới tính,
lứa tuổi và sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui chơi,
giải trí, phát triển năng khiếu thể thao” [37], còn được gọi là TD, TT NK.
Điều 21 và điều 22 Luật Thể dục, thể thao nêu rõ về trách nhiệm của

Nhà nước, của nhà trường đối với GDTC và thể thao trong nhà trường:
“Điều 21. Trách nhiệm của Nhà nước đối với giáo dục thể chất và thể
thao trong nhà trường
Nhà nước có chính sách dành đất đai, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
cho giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường, bảo đảm đủ giáo viên,
giảng viên thể dục thể thao cho các bậc học.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) có trách nhiệm sau đây:
Quy hoạch đất đai, xây dựng cơ sở vật chất, nhà tập đa năng, bảo đảm
trang thiết bị, dụng cụ thể thao, chỉ tiêu biên chế giáo viên, giảng viên thể dục
thể thao cho các trường công lập thuộc địa phương;
Thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai theo quy định của pháp luật
đối với trường tư thục, trường dân lập để các trường này có điều kiện xây
dựng cơ sở vật chất phục vụ GDTC và thể thao trong nhà trường [34].


16
Tháng 12/2010, Thủ tưởng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển
Thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2020, trong Chiến lược đã dành riêng một
phần quan trọng cho GDTC và hoạt động thể thao trường học. Đề cập đến
những yếu kém, tồn tại của công tác GDTC, Chiến lược đã nêu: “Công tác
GDTC trong nhà trường và các hoạt động thể thao ngoại khóa của HS, SV
chưa được coi trọng, chưa đáp ứng yêu cầu duy trì và nâng cao sức khỏe cho
HS, là một trong số các nguyên nhân khiến cho thể lực và tầm vóc người Việt
Nam thua kém rõ rệt so với một số nước trong khu vực…”[52] Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội năm 2011-2020, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần XI, năm 2011: "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt.

Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức,
lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới
cơ thế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở
tất cả các bậc học" [4].
Trước hiện trạng sự nghiệp Thể dục thể thao của đất nước nói chung và
cơng tác Thể dục thể thao trường học nói riêng đang có nhiều bất cập và hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước. Tháng 12/2011, Bộ chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
tạo bước phát triển mạnh mẽ về TDTT đến năm 2020: “Mục tiêu của Nghị
Quyết này là nhằm tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức, đổi mới quản lý, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ thể dục, thể thao; tăng cường CSVC, đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học, công nghệ làm nền tảng phát triển mạnh mẽ và vững
chắc sự nghiệp TDTT đến năm 2020”. Trong phần đánh giá những tồn tại,
hạn chế, Nghị quyết đã chỉ rõ: "Giáo dục thể chất và hoạt động thể thao
trong học sinh, sinh viên chưa thường xuyên và kém hiệu quả". Để đạt


17
được mục tiêu đến năm 2020 "Phấn đấu 90% học sinh sinh viên đạt tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể" [3], Nghị quyết đã đề ra các giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả GDTC và hoạt động thể thao trong trường học.
Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi năm 2013 tại Điều
37 đã quy định: "Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện
học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền
thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và
bảo vệ Tổ quốc" [53].
Quyết định số 2160/QĐ- TTg ngày 11/11/2013 của Thủ tướng chính
phủ phê duyệt “Quy hoạch phát triển Thể dục thể thao Việt Nam đến năm
2020, định hướng đến năm 2030”. Quyết định đã có những chỉ tiêu về đội
ngũ, đất đai cho công tác GDTC trong trường học đến năm 2015, quy hoạch

đến 2020 và định hướng đến năm 2030.
Nghị định số 11/2015/NĐ-CP ngày 31/01/2015 của Thủ tướng Chính
phủ “Quy định về GDTC và hoạt động thể thao trong nhà trường”: “GDTC
trong nhà trường là nội dung giáo dục, môn học bắt buộc, thuộc chương trình
giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo, nhằm trang bị cho trẻ em, HS,
SV các kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen luyện tập
thể dục, thể thao để nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc, góp phần
thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện” [55]. Từ năm 2015, Thủ tướng chính
phủ đã quy định GDTC là một môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục
quốc dân ở tất cả các cấp học.
Tóm lại, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC càng thể
hiện sự nhất quán coi trọng và đầu tư cho việc nâng cao chất lượng công tác
GDTC trong trường học các cấp, tạo hành lang pháp lý để hoạt động GDTC
trong trường học các cấp diễn ra mạnh mẽ và đạt được hiệu quả cao.


18

1.3. Thể thao ngoại khóa
1.3.1. Vị trí, vai trị của thể thao ngoại khóa
Thể thao ngoại khóa có vị trí rất quan trọng trong công tác TDTT trường
học. Thể thao ngoại khóa kết hợp với dạy học thể dục cấu thành một cấu trúc
TDTT trường học hồn chỉnh, góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục.
Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của HSSV
với các nội dung tập luyện TTNK và thi đấu các môn thể thao phù hợp với sở
thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe theo các hình thức cá nhân, nhóm, CLB,
nhằm nâng cao sức khỏe, thể lực đáp ứng yêu cầu môn học và phát triển năng
khiếu, tài năng thể thao. Hoạt động thể thao trong nhà trường có 2 nội dung
cơ bản là tập luyện TDTT ngoại khóa và thi đấu thể thao.
Thể thao ngoại khóa có vị trí đáng kể trong giáo dục và TDTT trường

học. Các hoạt động ngoại khóa cùng với các hoạt động dạy học cấu thành một
cấu trúc giáo dục trường học hoàn chỉnh, góp phần hồn thành mục tiêu,
nhiệm vụ giáo dục. Vì thế TTNK là một bộ phận cấu thành quan trọng của thể
thao trường học, là con đường trọng yếu để thực hiện mục đích, nhiệm vụ thể
thao trường học. Do đó khơng có TTNK thì thể thao trường học cũng khơng
hồn chỉnh [46, tr.181].
Vai trị của thể thao ngoại khóa
Thể thao ngoại khóa có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao
sức khỏe, thể lực, giáo dục phẩm chất ý chí, nhân cách cho HSSV. TTNK cịn
là mơi trường thuận lợi để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho quốc
gia. Ngồi ra, TTNK cịn có ý nghĩa quan trọng về mặt cộng đồng, hướng thế
hệ trẻ vào các hoạt động thể thao lành mạnh, tránh xa tệ nạn xã hội. Việc tổ
chức TTNK nhằm động viên, khuyến khích HSSV tự giác tập luyện thể thao,
hình thành thói quen rèn luyện thân thể thường xuyên. Tổ chức TTNK phải
đảm bảo các nguyên tắc cơ bản: Phù hợp với đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, điều kiện cụ thể của từng địa phương, trường học, tránh lãng
phí, hình thức. Người tham gia phải tự nguyện, tự giác, phù hợp với sở thích,


19
giới tính, lứa tuổi và sức khỏe. Có chương trình, kế hoạch và có thể được lồng
ghép với các hoạt động có ý nghĩa của nhà trường [16].
Ý nghĩa của thể thao ngoại khóa
Thỏa mãn nhu cầu tham gia hoạt động TDTT của thanh thiếu niên, thúc
đẩy sự sinh trưởng có hiệu quả, có lợi cho phát triển thể chất của HSSV. Nghiên
cứu ở nhiều nước cho thấy rằng: HSSV mỗi ngày tham gia hoạt động TDTT từ
một giờ trở lên là phù hợp, nếu mỗi tuần chỉ tập hai tiết là chưa thỏa mãn nhu
cầu. Biện pháp hữu hiệu duy nhất là phát triển rộng rãi TTNK.
Hình thành chế độ lao động – nghỉ ngơi khoa học có lợi cho tính hiếu
động của HSSV, phát triển tồn diện đức, trí, thể, mĩ.

Làm phong phú sinh hoạt nghiệp dư của HSSV, giúp bồi dưỡng phẩm
chất tư tưởng, tình cảm cao thượng và tính tổ chức kỉ luật, năng lực giao tiếp,
tập quán văn minh...
Góp phần bồi dưỡng hứng thú và năng lực của HSSV về mặt TDTT.
Góp phần bồi dưỡng cán bộ nòng cốt TDTT và nhân tài thể thao [16,
tr.194-195].
1.3.2. Mục đích của tổ chức thể thao ngoại khóa.
Tổ chức TTNK cho HSSV là hoạt động thiết thực, nó nhằm thỏa mãn
nhu cầu vận động của HSSV, tạo môi trường vận động, vui chơi, giải trí lành
mạnh, phát triển toàn diện thể chất và nhân cách, rèn luyện kỹ năng sống qua
các hoạt động giao lưu.
Vận động là nhu cầu cơ bản nhất của HSSV, vì thế để đáp ứng được
nhu cầu cơ bản đó phải có đủ sân bãi, phịng tập TDTT, đó là điều kiện
khơng thể thiếu để thành lập một trường học chuẩn. Thỏa mãn nhu cầu vận
động cũng là tiêu chí tiên quyết trong mục tiêu phát triển toàn diện của
GDTC. Thực tế cho thấy, việc học GDTC nội khóa mỗi tuần chỉ một buổi (2
- 3 tiết) và thực hiện trong 2 - 3 học kỳ là chưa đáp ứng nhu cầu vận động,
rèn luyện thể chất của sinh viên. Theo Tổ chức Y tế thế giới cảnh báo “Giảm


20
hoạt động thể chất và chương trình GDTC trong trường học là một xu hướng
đáng báo động trên toàn thế giới”. Do đó, tổ chức thêm TTNK để thỏa mãn
nhu cầu này là điều rất cần thiết.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và lượng thông tin mới ngày càng
nhiều làm cho lao động học tập của HSSV càng trở nên nặng nhọc, căng
thẳng, TDTT là phương tiện để hợp lý chế độ hoạt động, nghỉ ngơi tích cực,
giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động trong tất cả các thời kỳ học tập ở
trường, cho nên tầm quan trọng của TDTT cũng tăng lên tương ứng.
Tham gia TTNK, HSSV sẽ có cơ hội cùng gặp gỡ, tập luyện, giao tiếp

với một nhóm người, một tập thể, một cộng đồng…, qua đó sẽ hình thành các
kỹ năng sống như: giao tiếp, ứng xử, thay đổi hành vi, lập kế hoạch mục tiêu,
sự tự tin, giảm căng thẳng… Một số nghiên cứu cho thấy rằng trong số các
thanh thiếu niên thường xuyên tham gia vào các hoạt động thể chất ít có khả
năng sử dụng thuốc lá. Tương tự các trẻ em có nhiều hoạt động thể chất thì
kết quả học tập cao hơn.
1.3.3. Đặc điểm của thể thao ngoại khóa
Hình thức buổi tập khơng chính khóa chiếm vị trí đáng kể. Đó là điều dễ
hiểu, bởi vì thời gian học GDTC trên lớp chỉ chiếm một khoảng tương đối ngắn
trong đời của mỗi cá nhân. Ví dụ, trong 10 năm học phổ thông, học sinh chỉ
được học khoảng 700 giờ học GDTC chính khóa. Trong khi đó, thời gian tập
luyện TTNK thì hơn rất nhiều lần. Những người ở tuổi trưởng thành và tuổi
trung niên chủ yếu tập luyện TDTT theo hình thức tự nguyện.
Tập luyện TTNK là hình thức tập luyện tự nguyện nhằm củng cố sức
khỏe, duy trì và nâng cao khả năng hoạt động thể lực, rèn luyện cơ thể và
chữa bệnh, giáo dục các tố chất thể lực và ý chí, tiếp thu các kỹ năng, kỹ xảo
vận động.
Các buổi tập TTNK thường có cấu trúc đơn giản và nội dung hẹp hơn
so với buổi tập chính khóa. Hình thức tập luyện này địi hỏi ý thức kỷ luật,


21
tinh thần độc lập và sáng tạo cao. Nhiệm vụ cụ thể và nội dung buổi tập
TTNK chủ yếu phụ thuộc vào sở thích và hứng thú cá nhân.
Cũng như buổi tập chính khóa, cấu trúc buổi tự tập phải đảm bảo
phát động cơ thể dần dần, tạo điều kiện tốt cho thực hiện hoạt động chính
và kết thúc hợp lý. Nhiều quy tắc, thủ pháp mà giáo viên đã sử dụng trong
giờ học chính khóa cũng có thể áp dụng ở đây. Đồng thời, do nội dung
buổi tập TTNK cũng có nét khác biệt nên cách tổ chức tập luyện có đặc
trưng riêng. Theo tính chất hướng dẫn, người ta phân chia các buổi tập

TTNK thành: các buổi tự tập cá nhân, các buổi tập theo nhóm tự nguyện, các
buổi tập theo nhóm có tổ chức [22], [59].
Thể thao ngoại khóa rất đa dạng bao gồm hoạt động TDTT được quy
định trong buổi huấn luyện chung, huấn luyện đội tuyển, tập luyện ở CLB
ngoài trời, thi đấu thể thao...Các hoạt động này có đặc điểm:
Về tính chất: Đó là hoạt động thể hiện sự phối hợp giữa tham gia bắt buộc
và tham gia tự nguyện, trong đó tự nguyện là chủ yếu. Hoạt động thể thao trong
giờ phụ đạo bắt buộc HSSV phải tham gia, còn hoạt động thể thao ngồi giờ thì
tự nguyện.
Về nội dung: Nội dung TTNK rất phong phú, vượt ra ngoài những nội
dung quy định trong chương trình GDTC chính khố, khơng bị chương trình
hạn chế. Thể thao ngoại khóa có thể tiến hành trong trường và cũng có thể tổ
chức ngồi trường, nên khơng gian hoạt động so với GDTC nội khóa là rộng
lớn hơn nhiều.
Về hình thức: Hình thức TTNK rất đa dạng, phương pháp thì linh hoạt
có thể tiến hành dưới dạng theo nhóm, các trình độ, đội tuyển nên có thể thỏa
mãn yêu cầu khác nhau của HSSV. Thời gian hoạt động cũng không yêu cầu
gay gắt như giờ học GDTC chính khố, có thể tiến hành bất kỳ khi nào, miễn
là phù hợp với điều kiện cho phép của HSSV.


22
Về vai trò của GV và HSSV: Trong TTNK giáo viên đóng vai trị chủ
đạo, tư vấn; cịn HSSV thì phát huy được vai trị chủ thể của mình, như vậy sẽ
có lợi cho việc phát huy năng lực của HSSV, phát huy đầy đủ tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của bản thân HSSV, qua đó bồi dưỡng lịng hăng say,
hứng thú TDTT và nhiều phẩm chất quý báu khác.
Về quy mô: Số HSSV tham gia không những nhiều, người tham gia tổ
chức cũng đông, đặc biệt là huấn luyện đội tuyển.
Về quan hệ phổ cập và nâng cao: Thể thao ngoại khóa có đặc điểm là

kết hợp mật thiết giữa phổ cập và nâng cao. Với tất cả HSSV thì nó có tính
phổ cập, cịn với đội tuyển thể thao thì mang tính nâng cao.
Vừa có tính bổ sung vừa có tính độc lập: Tính bổ sung là chỉ giờ thể thao
nội khóa khơng thỏa mãn mọi u cầu đối với vận động, yêu cầu điều tiết thăng
bằng tâm lí của HSSV nên TTNK có tính bổ sung cho giờ học nội khố. Nhưng
trong TTNK lại có tính độc lập riêng, không phải là sự kéo dài của thể thao nội
khố, khơng phải là “Giảng đường thứ hai” của giờ học thể thao nội khóa. Như
vậy hai mặt này có quan hệ với nhau nhưng lại có sự khác biệt, hình thành một
thể thống nhất của GDTC trường học [16, tr.190-193], [46, tr.179-180].
Tính chất TTNK thể hiện sự phối hợp giữa tham gia bắt buộc và tham
gia tự nguyện. Hoạt động của GDTC nội khóa là bắt buộc HSSV phải tham
gia, bắt buộc phải đạt đến một mốc nhất định, HSSV bị động, còn hoạt động
TTNK là tự nguyên và tùy theo năng lực của chính bản thân và chủ động
trong tập luyện.
Khi tổ chức TTNK cần chú ý đến tính chất hoạt động mềm hóa giữa bắt
buộc và tự nguyện; nội dung cần phong phú, linh hoạt không nên bị hạn chế,
không gian địa điểm tập luyện cần tiến hành rộng lớn, thời gian hoạt động có
thể tiến hành vào bất cứ thời điểm nào trong ngày tùy theo điều kiện. Trong
TTNK giáo viên đóng vai trị hướng dẫn, tư vấn, định hướng, còn sinh viên


23
cần phát huy vai trị chủ thể, tích cực chủ động phát huy lòng đam mê, hứng
thú với các hoạt động TDTT. Quy mô TTNK thể hiện qua số lượng HSSV,
cán bộ giảng viên… cùng tham gia; số môn thể thao tổ chức được cho HSSV
tập luyện, thi đấu…
Thể thao ngoại khóa bổ sung kiến thức thực hành cho giờ nội khóa nhưng
nó cũng có những đặc thù riêng. Ta có thể khái qt đặc điểm của TTNK bao
gồm: tính chất hoạt động; nội dung và không gian hoạt động; hình thức và thời
gian hoạt động; vai trị chủ động của HSSV và giáo viên; quy mô hoạt động;

quan hệ phổ cập và nâng cao; tính bổ sung và độc lập.
Tóm lại TTNK và GDTC nội khóa hình thành nên một thể thống nhất
của TDTT trường học nhưng TTNK có những đặc thù rất riêng mà GDTC nội
khóa khơng thể có.
1.3.4. Nội dung của thể thao ngoại khóa
Thể thao ngoại khóa cũng như giờ học nội khóa, nhưng cấu trúc các
buổi tập TTNK thường đơn giản, tinh gọn hơn. Nội dung TTNK đi sâu về
chuyên môn hẹp và nâng cao thành tích nhưng phong phú đa dạng, vượt ra
ngồi những quy định của chương trình, khơng bị hạn chế về thời lượng và
nội dung buổi tập.
Nội dung TTNK bao gồm các mơn thể thao theo sở thích của từng cá
nhân như: các bài thể dục, thể dục nhịp điệu, khiêu vũ thể thao, điền kinh,
các mơn bóng, cầu lơng, đá cầu, cờ, võ, vật, bơi lội, …, các môn thể thao có
trong chương trình thi đấu của Hội khoẻ Phù Đổng, Đại hội thể thao SV và
các chương trình hoạt động GDTC của ngành giáo dục. Ngoài ra cần tổ chức
cho SV tập luyện các môn thể thao dân tộc, trò chơi vận động theo điều kiện
của từng địa phương. Thành lập, duy trì tập luyện thường xuyên đội tuyển
năng khiếu thể thao của từng mơn để làm nịng cốt cho hoạt động thể thao
của đội và của nhà trường. Tổ chức các giải thi đấu thể thao thường xuyên


24
trong nhà trường và tham gia các hoạt động thi đấu thể thao cấp huyện, tỉnh,
khu vực và toàn quốc.
1.3.5. Hình thức tổ chức thể thao ngoại khóa
Có thể khái quát hình thức TTNK là các phương thức rèn luyện ngồi
giờ của cá nhân, nhóm hay tập thể nhằm mục đích duy trì và phát triển sức
khỏe. Hình thức tổ chức TTNK trong nhà trường rất đa dạng, phương pháp
linh hoạt, có thể tiến hành nhiều cấp độ, quy mơ tồn trường, tồn khóa, tồn
khoa hoặc theo đội, lớp, theo câu lạc bộ…

Phân loại hình thức thể thao ngoại khóa:
Theo Vũ Đức Thu, các hình thưc tổ chức tập luyện tăng cường sức
khỏe bao gồm các bài tập cá nhân, tập thể áp dụng các phương tiện theo
hướng vệ sinh tập luyện, hồi phục khả năng làm việc, thực dụng và chữa
bệnh. Các hình thức này có thể mang tính chất cá nhân (thể dục vệ sinh buổi
sáng, chế độ giờ giấc hàng ngày, các hình thức rèn luyện)… và theo nhóm,
lớp với sự giúp đỡ của giáo viên bộ mơn thể dục tiến hành.
Cịn theo các tác giả Nguyễn Tốn, Phạm Danh Tốn, căn cứ tính chất
hướng dẫn có thể chia các buổi tập NK thành: các buổi tập cá nhân, các buổi
tập theo nhóm tự nguyện, các buổi tập theo nhóm có tổ chức [40].
Các buổi tập cá nhân:
Các buổi tập TDTT cá nhân thường được thực hiện với nhiều dạng
phong phú khác nhau mà mọi người ai cũng có thể tham gia, cụ thể như là:
thể dục (TD) vệ sinh, TD buổi sáng, TD giữa giờ, dạo chơi hàng ngày, các
buổi tự tập theo xu hướng huấn luyện chung và huấn luyện thể thao.
TD buổi sáng làm cho cơ thể thích nghi với một ngày làm việc mới. Nó
có tác dụng thúc đẩy nhanh việc chuyển cơ thể từ trạng thái ngủ sang trạng
thái tỉnh táo, kích thích mọi hoạt động của cơ thể, tạo nên cảm giác sảng
khối, vui vẻ. Hình thức này ai cũng có thể tham gia, ngủ sớm – dậy sớm và


25
sinh hoạt điều độ là thói quen tốt mà khoa học đã chứng minh là rất có lợi cho
sức khỏe. Lợi ích rõ nhất của hình thức tập này là khơng khí tập luyện trong
lành, mơi trường thân thiện, khơng phân biệt lứa tuổi, giới tính, địa vị xã hội.
Địa điểm tập tốt nhất là tiến hành tập ngoài trời, thường là các nơi công cộng
như ký túc xá, công viên, vỉa hè, đường phố... Tập luyện trong điều kiện tự
nhiên có ảnh hưởng tốt hơn là tập trong nhà, vì tia cực tím của ánh mặt trời có
ảnh hưởng tốt đến sự phát triển năng lực. Hình thức tập luyện cá nhân này
thường được phổ biến trên các phương tiện thơng tin đại chúng và chúng có

vị trí rất quan trọng trong phong trào TDTT.
Các buổi tập theo nhóm tự nguyện:
Các buổi tập theo nhóm tự nguyện bao gồm: trò chơi, lữ hành, du lịch,
thi đấu. Thường mỗi đội, nhóm cử ra nhóm trưởng, đội trưởng có khả năng
quản trị, phân cơng, sắp xếp, điều hành các buổi tập loại này. Phổ biến nhất ở
loại hình tập luyện này là các trò chơi vận động (trò chơi học tập – huấn
luyện, trị chơi sức khỏe, trị chơi giải trí, trị chơi thi đấu). Trong trường ĐH
sinh viên thường hình thành các buổi tập các đội nhóm tự nguyện theo đơn vị
lớp, khối, khoa, ngành...
Hình thức du lịch tích cực như tham quan, dạo chơi, dã ngoại, lữ hành
được phát triển rộng rãi ở các nước phát triển. Ở nước ta hình thức này dù
khơng thường xun nhưng cũng đã được giới trẻ nhất là sinh viên phát động
vào các ngày nghỉ lễ, nghỉ hè nhưng do kinh tế chưa đáp ứng nên quy mơ các
hình thức này thường khơng lớn. Du lịch tích cực có tác dụng làm phong phú
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thực dụng, tôi luyện cơ thể và giáo dục tố chất thể
lực trong điều kiện khí hậu, địa hình thay đổi cũng như giáo dục ý thức cộng
đồng và tinh thần tập thể.
Các buổi tập theo nhóm có người tổ chức, hướng dẫn:
Các buổi tập dạng này được tiến hành dưới sự điều khiển của
những người làm công tác chuyên môn như GV, HLV, HDV TDTT. Tập


×