Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

“ vai trò của tri thức đối với ý thức ở việt nam, tri thức có vai trò gì trong hoạt động của con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.26 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ TRI THỨC VÀ Ý THỨC...........................2
1.1.

Lý luận về ý thức............................................................................2

1.1.1.

Khái niệm ý thức......................................................................2

1.1.2. Nguồn gốc của ý thức..................................................................2
1.1.2.1- Nguồn gốc tự nhiên..............................................................2
1.1.2.2. Nguồn gốc xã hội.................................................................3
1.2. Lý luận về tri thức..............................................................................5
1.2.1. Khái niệm tri thức........................................................................5
1.2.2. Cấu trúc của tri thức....................................................................5
1.3. Vai trò của tri thức đối với ý thức......................................................7
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG
ĐỜI SỐNG Ở VIỆT NAM..........................................................................7
2.1. Đối với kinh tế....................................................................................7
2.2. Đối với chính trị.................................................................................8
2.3. Đối với văn hóa giáo dục...................................................................8
2.4. Vai trị của trí thức đối với xã hội......................................................9
2.5. Vai trị của tri thức đối với sinh viên................................................10
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP TẬN DỤNG TRI THỨC CỦA CON
NGƯỜI VIỆT NAM..................................................................................11
3.1. giải pháp đột phá..............................................................................11
3.2. Giải pháp về tuyển dụng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ trí thức....11


3.3. Giải pháp về chế độ chính sách đối với đội ngũ trí thức..................12


3.4. Giải pháp về điều kiện, môi trường làm việc...................................12
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................13


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Nhà văn Francis Bacon từng nói: “Tri thức là sức mạnh”. Sau này Lênin, một
nhà triết học, nhà chính trị vĩ đại đã phát triển thành: “Tri thức là sức mạnh. Ai có
tri thức người đó có sức mạnh”.Thật vậy, tri thức là hệ thống bao gồm những dữ
kiện, thông tin, sự mô tả hay kỹ năng, kinh nghiệm có được nhờ trải nghiệm thực
tiễn hay thơng qua giáo dục. Đơi khi, người ta cịn dùng kiến thức để chỉ tri thức.
Thế nhưng, Tri thức có hàm nghĩa rộng lớn hơn kiến thức rất nhiều. Trong triết học,
ngành nghiên cứu về tri thức gọi là tri thức luận.
Khơng ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi thế giới của tri thức. Từ
thuở sơ khai tri thức được chạm khắc trên vách đá, xương thú, mai rùa. Khi có chữ
viết, con người biết lưu giữ tri thức trên vải, trên giấy. Ngày nay, người ta đã mã
hóa tri thức và lưu trữ bằng các bản điện tử. Việc lưu trữ điện tử cho phép con
người lưu trữ nhanh chóng, chắc chắn và vơ hạn. Bởi nó có sức mạnh nên ở bất cứ
thời đại nào con người cũng cố gắng tìm kiếm những cách lưu giữ đầy đủ nhất, chắc
chắn nhất, bền lâu nhất. Con người bảo vệ tri thức như một “thanh gươm thần”, xem
nó như một báu vật thiêng liêng khơng thể đánh mất.
Nắm được tầm quan trọng của tri thức trong cuộc sơng, tơi đã lựa chọn đề tài
“ Vai trị của tri thức đối với ý thức. Ở Việt Nam, tri thức có vai trị gì trong
hoạt động của con người” để có cái nhìn sâu và rộng hơn về cả mặt lý luận và thực
tế.


PHẦN II: NỘI DUNG

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ TRI THỨC VÀ Ý THỨC
1.1. Lý luận về ý thức
1.1.1. Khái niệm ý thức
Theo triết học Mac-Lênin "ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới khách
quan vào bộ não của người thông qua lao động và ngôn ngữ''. Để đưa ra được định
nghĩa trên con người phải trải qua một quá trình lịch sử lâu dài với những quan
niệm về ý thức nhiều khi sai lệch hoặc không trọn vẹn.
Ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý chí trong sự
liên hệ tác động qua lại nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và ln hướng
tới tri thức.

1.1.2. Nguồn gốc của ý thức.
1.1.2.1- Nguồn gốc tự nhiên
Cùng với sự tiến hóa của thế giới, vật chất có tính phân hóa cũng phát triển
từ thấp đến cao. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh cao nhất ý thức ra đời là kết
quả của sự phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con người và
bộ óc con người. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung và trái
đất nói chung đã tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người, rằng hoạt động tâm lý
của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của não bộ con người.
Bộ não bao gồm khoảng từ 15- 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này nhận vô số
các mối quan hệ thu nhận, xử lý, truyền dẫn và điều khiển toàn bộ các hoạt động
của cơ thể trong quan hệ đối với thế giới bên ngồi qua cơ chế phản xạ khơng điều
kiện và phản xạ có điều kiện.
Khơng thể tách rời ý thức với bộ não. Vì ý thức là chức năng của bộ não và
bộ não là khí quan của ý thức, ý thức và bộ não có liên quan chặt chẽ với nhau. Bộ
não bị tổn thương thì hoạt động của của nhận thức sẽ bị rối loạn.
Cũng không thể quy một cách đơn giản ý thức về các q trình sinh lý như
quan niệm cho rằng óc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật, vì óc là cơ quan phản
ánh,nội dung của ý thức là thế giới bên ngoài. ý thức là sự phản ánh thế giới khách
quan vào bộ óc người. Sự xuất hiện của ý thức gắn liền với sự phát triển đặc tính

phản ánh, đặc tính này phát triển cùng với đặc tính của thế giới tự nhiên.
Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh được thực hiện bởi sự
tác đọng qua lại của hệ thống vật chất. Đó là những năng lực tái hiện, ghi lại của hệ
thống vật chất những đặc điểm (dưới dạng đã thay đổi) của hệ thống vật chất khác.
Phản ánh quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
chặt chẽ với nhau. Bộ não bị tổn thương thì hoạt động của của nhận thức sẽ bị rối
loạn.
Cũng không thể quy một cách đơn giản ý thức về các quá trình sinh lý như
quan niệm cho rằng óc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật, vì óc là cơ quan phản
ánh,nội dung của ý thức là thế giới bên ngoài. ý thức là sự phản ánh thế giới khách


quan vào bộ óc người. Sự xuất hiện của ý thức gắn liền với sự phát triển đặc tính
phản ánh, đặc tính này phát triển cùng với đặc tính của thế giới tự nhiên.
Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh được thực hiện bởi sự
tác đọng qua lại của hệ thống vật chất. Đó là những năng lực tái hiện, ghi lại của hệ
thống vật chất những đặc điểm (dưới dạng đã thay đổi) của hệ thống vật chát khác.
Phản ánh quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ thụ động
đến chủ động, có tổ chức, điều khiển và lựa chọn đối tượng phản ánh.
Trong thế giới vô cơ có hình thức phản ánh cơ học,vật lý, hóa học. Đây là
phản ánh đơn giản, thụ động không lựa chọn. Tất cả những biến đổi cơ lý hóa này
tuy do những tác động bên ngoài khác nhau gây ra và phụ thuộc vào các vật phản
ánh khác nhau, nhưng chúng đều là phản ánh của vật chất vô sinh.
Giới hữu sinh có tổ chức cao hơn giới vơ sinh. Song bản thân giới hữu sinh
lại tồn tại những trình độ khác nhau tiến hóa từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức
tạp nên hình thức phản ánh sinh vật cũng thể hiện ở trình độ khác nhau tương ứng.
Tính kích thích là hình thức phản ánh đặc trưng cho thế giới thực vật và các động
vật bậc thấp chưa có hệ thần kinh. Tính cảm ứng hay là năng lực có cảm giác là
hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh. Nét đặc trưng cho phản ánh
này là ngay trong quá trình hệ thần kinh điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể và môi

trường bên ngồi thơng qua phản xạ bẩm sinh hay phản xạ riêng biệt. Do vậy, sinh
vật phản ánh có tính lựa chọn đối với các tính chất riêng biệt của sự vật thành các
cảm giác khác nhau rất đa dạng và phong phú.
Phản ánh tâm lý là hình hức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh trung
ương. Đây là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới động vật gắn liền với quá
trình hình thành các phản xạ có điều kiện. Phản ánh tâm lý đưa lại cho con vật
thơng tin về các thuộc tính, quan hệ của sự vật bên ngoài và về cả ý nghĩ của chúng
đối với đời sống của con vật. Nhờ vậy mà nó có thể lường trước được tất cả những
tình huống có thể xảy ra và chủ động điều chỉnh, lựa chọn đưa ra hành động thích
hợp nhất. Ví dụ con thỏ trông thấy con hổ đang tiến lại gần mình, ngay tức khắc nó
bỏ chạy đến một khoảng cách an tồn. Bởi vì nó lường trước được điêù gì sẽ xảy ra
nếu con hổ có cơ hội lại gần nó.
Phản ánh có ý thức là sự phản ánh cao nhất của sự phản ánh nó chỉ có khi
xuất hiện con người và xã hội loài người. Sự phản ánh này khơng thể hiện ở cấp độ
cảm tính như cảm gíac, tri giác, biểu tượng nhờ hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn
thể hiện ở cấp độ lý tính: khái niệm, phán đốn, suy lý nhờ tín hiệu thứ hai (ngôn
ngữ). Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh có mục đích, có kế hoạch, tự giác, chủ
động tác động vào sự vật hiện tượng buộc sự vật bộc lộ ra những đặc điểm của
chúng. Sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với làm cho tự nhiên thích nghi với nhu
cầu phát triển xã hội.
1.1.2.2. Nguồn gốc xã hội
Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người là sự khác biệt về chất so
với động vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã hội, sự ra đời của ý thức gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của bộ óc người dưới ảnh hưởng của lao động,
của giao tiếp và các quan hệ xã hội.


Lao động là hoạt động vật chất có tính chất xã hội nhằm cải tạo tự nhiên,thỏa
mãn nhu cầu phục vụ mục đích cho bản thân con người. Chính nhờ lao động mà con
người và xã hội loài người mới hình thành, phát triển.

Khoa học đã chứng minh rằng tổ tiên của loài người là vượn, người nguyên
thủy sống thành bầy đàn, hình thức lao động ban đầu là hái lượm, săn bắt và ăn thức
ăn sống. Họ chỉ sử dụng các dụng cụ có sẵn trong tự nhiên, vượn người đã sáng tạo
ra các công cụ lao động mới cùng với sự phát triển bàn tay dần dần tiến hóa thành
con người. Lúc này thức ăn có nhiều hơn và quan trọng là tìm ra lửa để sinh hoạt và
nướng chín thức ăn đã làm cho bộ óc đặc biệt phát triển, bán ccầu não phát triển làm
tăng khả năng nhận biết, phản ứng trước các tình huống khách quan. Mặt khác, lao
động là hoạt động có tính tốn, có phương pháp mục đích do đó mang tính chủ
động.
Thêm vào đó, lao động là sự tác động chủ động của con người vào thế giới
khách quan để phản ánh thế giới đó, lao động buộc thế giới xung quanh phải bộc lộ
các thuộc tính, đặc điểm của nó. từ đó làm cho con người hiểu biết thêm về thế giới
xung quanh, thấy sự vật hiện tượng xung quanh nhiều đặc tính mới mà lâu nay
chưa có. Từ đó sáng tạo ra các sự vật khác chưa từng có trong tự nhiên có thê mang
thuộc tính, đặc điểm của sự vật trước đó, điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một tự
nhiên mới.
Thêm vào đó lao động là qúa trình tác động lặp đi, lặp lại hàng nghìn, hàng
triệu lần phương pháp giống nhau nhờ vậy mà làm tăng năng lực tư duy trừu tượng
của con người.
Tóm lại, lao động có vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển ý
thức. Con người thoát ra khỏi động vật là có lao động. Vì vậy mà người ta nói "Một
kiến trúc sư tồi cịn hơn một con ong giỏi", bởi.vì trứơc khi xây một ngơi nhà
người kiến trúc sư đã phác thảo trong đầu anh ta hình ảnh ngơi nhà cịn con ong chỉ
là xây tổ theo bản năng. Qua lao động bộ óc con người hình thành và hồn thiện.
Ăng ghen nói" Sau lao đọng và đồng thời với lao động là ngơn ngữ, nó là hai sức
kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần
chuyển biến thành bộ óc người.''
Sau đây ta xét đến vai trị của ngơn ngữ trong việc hình thành nên ý thức.
Ngơn ngữ được coi là 'cái vỏ vật chất" của tư duy, khi mà con người có biểu hiện
liên kết với nhau để trao đổi kinh nghiệm, tổ chức lao động tất yếu dẫn đến nhu cầu

" cần nói với nhau một cái gì" đó chính là ngơn ngữ.Với sự xuất hiện của ngơn ngữ,
tư tưởng con người có khả năng biểu hiện thành "hiện thực trực tiếp", trở thành tín
hiệu vật chất tác động vào giác quan của con người, gây ra cảm giác. Do vậy, qua
ngôn ngữ con người có thể giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm cho
nhau, từ đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội và ngược lại ý thức xã hội
thâm nhập vào ý thức cá nhân. Nhờ ngơn ngữ mà phản ánh ý thức mới
có thể thực hiện như là sự phản ánh gián tiếp, khái quát và sáng tạo. Vì vậy ngơn
ngữ trở thành một phương tiện vật chất không thể thiếu được của sự trừu tượng hóa,
khái quát hóa hay nói cách kháclà của quá trình hình thành, thực hiện ý thức. Nhờ
khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa mà con người có thể đi sâu vào hơn vào thế


giới vật chất, sự vật hiện tượng? đồng thời tổng kết đúc rút kinh nghiệm trong toàn
bộ hoạt động của mình. Vậy ngơn ngữ là một yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý
tư duy và văn hóa con người và xã hội loài người.
1.2. Lý luận về tri thức
1.2.1. Khái niệm tri thức
Tri thức được hình thành nên từ những nhận thức, tư duy của con người về
thế giới khách quan, về thực tiễn của cuộc sống. Tuy khái niệm tri thức đã có từ lâu
trong lịch sử lồi người nhưng những nghiên cứu mang tính khoa học – tríêt học về
tri thức chỉ thực sự bắt đầu từ phát biểu Platon – một triết gia Hy Lạp cổ đại sống
vào khoảng 427-347 TCN. Theo ông, tri thức là cái có trước các sự vật cảm biết mà
khơng phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận biết các sự vật đó.
Trên cơ sở lí luận nhận thức này, Platon phân loại tri thức thành tri thức hoàn toàn
đúng đắn, tin cậy và tri thức mờ nhạt. Tuy nhận thức của ơng cịn hạn chế và
khuynh hướng duy tâm xong nó cũng đã khẳng định được sự tồn tại và vai trò của
tri thức.
Những triết gia sau Platon đã tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu về khái niệm và
bản chất của tri thức. Những người có quan điểm tiến bộ hơn như Immanuel Kant
đã trình bày quan điểm của ông về tri thức một cách chính xác hơn. Lịch sử hình

thành khái niệm “tri thức” đã trải qua một quá trình lâu dài nhưng đến nay vẫn còn
là một đề tài đang được nghiên cứu và gây nhiều tranh luận. Xét trên phương tiện
ngôn ngữ học, tri thức là một khái niệm rõ ràng, dễ hiểu: “Tri thức là những gì bạn
đã đọc”. Cịn xét trên phương diện triết học, tri thức mang nghĩa phổ quát hơn, dùng
dể diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng.
Ta có thể định nghĩa: “Tri thức là kết quả của các quá trình nhận thức của
con người về đối tượng được nhận thức, làm tái hiện tư tưởng con người, những
thuộc tính, những mối quan hệ, những quy luật vận động, phát triển của đối tượng
và được diễn đạt bằng ngơn ngữ tự nhiên hay hệ thống kí hiệu khác.” Như vậy, tri
thức bao gồm tất cả những thông tin,số liệu, khả năng, sức sáng tạo,kĩ năng, quan
niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tương tự xã hội khác. Tri thức đóng
vai trị rất lớn đối với sự phát triển của xã hội loài người.
1.2.2. Cấu trúc của tri thức
Tri thức là lĩnh vực rất rộng, có thể xem xét ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác
nhau. Tri thức là một tập hợp các kĩ năng và năng lực vì thế mỗi loại tri thức khác
nhau lại có cách thức hình thành và những đặc trưng khác nhau. Xét về cấp độ phức
tạp của thông tin,cấu trúc của tri thức bao gồm:
-Tri thức đời thường: được hình thành do hoạt động hàng ngày của các cá
nhân và mang tính chất cảm tính, trực tiếp,bề ngồi và rời rạc. Nêu đây là những tri
thức đú
ng đắn, nó mang tính phổ biến và được xem gần giơng như “thông
tin”. Loại tri thức này trả lời cho câu hỏi “biết – cái gì?”. Những ví dụ cụ thể về
dạng tri thức này như: “Dân số Việt Nam tính đến năm 2007 là bao nhiêu?”, “Ai là
người đầu tiên lên mặt trăng?”, hay” Là sinh viên Đại học Kinh tế quốc dân thì phải
tuân theo nội quy, quy chế gì?”... Những tri thức đời thường này dựa trên lẽ phải và
ý thức thông thường, là cơ sở định hướng quan trọng cho các hành vi hàng ngày của
con người.


-Tri thức khoa học: Khi những tri thức đời thường rời rạc được liên kết

nhau và có sự tư duy, tổng hợp của con người thi tri thức phát triển ở mức độ cao
hơn,trở thành tri thức khoa học. Tri thức khoa học trình bày ngun lí và các quy
luật vận động trong tự nhiên,trong xã hội và trong tư duy của con người. Nó bao
gồm tri thức kinh nghiệm – thể hiện trình độ thấp và tri thức lí luận – thể hiện trình
độ cao của tri thức khoa học. Giữa hai trình độ tri thức này có mối liên hệ mật thiết
với nhau, làm tiền đề, cơ sở cho nhau cùng phát triển và từ đấy phản ánh một cách
ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về thế giớ vật chất đang vận động không ngừng.
- Tri thức kinh nghiệm: chủ yếu thu nhận qua quan sát và thí nghiệm. Từ những
hiểu biết được tích lũy trong cuộc sống hàng ngày, con người so sanhd, đối chiếu,
xem xét các sự vật và hiên tượng,từ đấy nhận thức và cải tạo thực tiễn, hình thành
nên tri thức kinh nghiệm. Đây là những hình dung thực tế về sự vật, hiện tượng, biết
cách ứng xử trong các hiên tượng tự nhiên và trong các quan hệ xã hội. Theo thời
gian và bằng kinh nghiệm sống, số lượng và chất lượng tri thức kinh nghiệm ngày
càng trở nên phong phú, đa dạng, chứa đựng những mặt đúng đắn nhưng còn riêng
biệt, chưa thể đi sâu vào bản chất. Nó mới chỉ là một hình thức,một trình độ của
nhận thức nên chưa nắm được một cách đầy đủ, toàn diện cái tất yếu, cái bản chất
bên trong của sự vật hịên tượng. Như Ph.Ănghen trong cuốn biện chứng của tự
nhiên đã nhận xét: “Sự quan sát theo kinh nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể chứng
minh được đầy đủ tính tất yếu” ( C.Mác và Ph.Ănghen, 1978-1995, tập 20, trang
718).
- Tri thức lí luận: Để nắm bắt được bản chất sâu xa của sự vật, hiên tượng
thì nhận thức của con người tất yếu phải chuyển lên trình độ tri thức lí luận. Nó tồn
tại trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật, giả thuyết, lý thuyết, học
thuyết khoa học. Lí luận hình thành từ kinh nghiệm nhưng nó khơng xuất hiện một
cách trực tiếp, tụ phát và khơng phải mọi lí luận đều xuất phat từ kinh nghiệm “Lí
luận là sự tổng kết kinh nghiệm của lồi người, là sự tổng hợp những tri thức về tự
nhiên và xã hội, được tích lũy lại trong q trình lịch sử” (Hồ Chí Minh, 1995-1996,
tập 8, trang 497).
-Tri thức cơng nghệ: Khi đã có một vốn tri thức khoa học đầy đủ, tư duy
con người phát triển cao hơn thì hình thành tri thức cơng nghệ. Dạng tri thức này

quan tâm đến các kĩ năng hay khả năng làm việc và cách xử lí tình huống một cách
lin hoạt, nạy bén, trả lời cho câu hỏi “Biết – Như thế nào?”. Đây cũng có thể coi la
“bí quyết” của từng người cụ thể. Nó đem đến một nhà lãnh đạo tài ba với những
chiến lược sắc bén, một công ty phát triển với những bí quyết riêng hay một nhà
khoa học với những phát minh sáng chế nổi tiếng… –
-Tri thức chuyên gia ( tri thức kĩ năng xã hội ): khi sự phức tạp của tri thức công
nghệ tăng lên, địi hỏi một nền tri thức tồn diện- tổng hợp hơn thì xuất hiện tri thức
chuyên gia. Dạng tri thức này hình thành khi xã hội đã phát triển đến cao độ với
một nền kinh tế hiện đại đạt đến sự phân cơng lao động rõ rệt. Nó liên quan đến
việc tổng hợp nhiều loại kỹ năng khác nhau, bao gồm cả kĩ năng xã hội, trả lời câu
hỏi “Biết – Ai?”. Sự hình thành dạng tri thức chuyên gia làm tăng khả năng tiếp cận
và sư dụng tri thức của con người, mang lại hiệu quả công việc cao hơn, gắn kết tri
thức nhân loại. Việc phân tích cấu trúc của tri thức ở trên cho phép chúng ta thấy


được mức độ phát triển cũng như đặc trưng của từng cấp độ tri thức và sự đan xen,
nối tiếp giữa chúng. Từ đó, ta có thể xem xét vai trò to lớn của tri thức trên mọi lĩnh
vực của đời sống một cách cụ thể, rõ ràng và toàn diện hơn.
1.3. Vai trò của tri thức đối với ý thức
Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các q trình tâm lý tích cực đem
lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niểm
tin, ý chí...: trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Muốn cải tạo được sự
vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Do đó, nội dung
và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức là tri thức. Ý thức mà khơng bao hàm tri
thức, khơng dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống rỗng, khơng
giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Theo C.Mác, “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn
tại đối với ý thức là tri thức..., cho nên một cái gì đó áy sinh ra đối với ý thức,
chừng nào ý thức biết cái đó”. Tích cực tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung
quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường cải tạo thế giới. Tuy

nhiên, không thể đồng nhất ý thức với sự đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức
về sự vật.
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG ĐỜI
SỐNG Ở VIỆT NAM
Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của đời sống, sự ra đời của tri thức
thương gắn liền với sự hình thành của xã hội lồi người. Do đó, khơng thể tách trí
thức ra khỏi đời sống để định nghĩa xem tri thức là gì cũng như mong muốn hiểu
sâu hơn về tri thức, đó là việc làm khơng tốt, tách tri thức ra  khỏi xã hội giống như
việc tách những con cá ra khỏi dịng nước đề tìm sự thích nghi hay hoạt động của
cá. Vai trò của tri thức trong đời sống là rất cần thiết và quan trọng.
2.1. Đối với kinh tế
Tri thức giúp Việt Nam đưa ra các phương pháp một cách nhanh chóng, hiệu
quả để phát triển và bắt kịp với thời đại kinh tế mới:
Phải đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khn khổ pháp lý mới phù
hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ chế chính sách
phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải ln đổi mới, và thúc đẩy
nhanh chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh
sản phẩm mới, công nghệ mới. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc
quyền.
+ Phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài.
Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội
ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân.
+ Tập trung tăng cường năng lực khoa học và cơng nghệ quốc gia để có thể
tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất
của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo công nghệ đặc
thù của đất nước, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiến tiến của Việt Nam.


+ Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thơng tin phục vụ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố. Cơng nghệ thơng tin là chìa khố để đi vào kinh tế tri

thức. Muốn rút ngắn q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, rút ngắn khoảng cách
với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin.
2.2. Đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri
thức là có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát
thực,đúng đắn. Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những con người như
vây để điều hành cơng việc chính trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc
gia. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận
thức về nguồn lực con ngươì. Đại hội nhấn mạnh:” Phát huy yếu tố con người và
lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động” chiến lược
phát triển con người đang là chiến lược cấp bách. Chúng ta cần có những giải pháp
trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức:
+ Tuyển chọn những người học rộng tài cao, đức độ trung thành với mục tiêu
xã hội chủ nghĩa,thuộc các lĩnh vực, tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho họ những tri
thức cịn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ
trách nhiệm quyền hạn và lợi ích.
+ Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo
thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành,tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực
tĩên. Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết
trường đại học và các cơng ty,xí nghiệp. Các cơ quan nghiên cứu và đào tao được
nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình,kế hoạch và kinh phí dựa trên luận
chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
+ Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có
trọng trách và các nhà khoa học đầu nganh của các cơ quan giáo dục đào tạo và
trung tâm khoa học lớn của quốc gia,liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự
chủ tri của đồng trí chủ tịch,sự tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục đào
tạo và khoa học công nghệ quốc gia về những ý kiến tư vấn, khuyến nghị của tập
thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển giáo dục đào

tạo. Phát triển khoa học công nghệ, cách tuyển chon và giao chương trình đề tài,
giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa, giáo trình, làm chủ nhiệm
chương trình, đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt, thẩm định nghiệm thu các
chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà nước.
+ Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ
của các nhà khoa học,dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn,những
khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng, Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng
các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất
nước đang mong chờ để sớm thốt khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển.


2.3. Đối với văn hóa giáo dục
+ Khi nhu cầu xã hội ngày càng nâng cao, việc đáp ứng nhu cầu địi hỏi mỗi
cơng dân cần phải có, đặc biệt nhu cầu trong giáo dục và trách nhiệm của học sinh
sinh viên là quan trọng. Con người có tri thức, kiến thức và nhận thức tốt, làm chủ
tri thức bản thân là chủ trong cách sống của mình, biết bản thân mình làm gì, biết
được nhu cầu xã hội đang địi hỏi gì ở chính các bạn trẻ, mà khơng ngừng học hỏi.
Vai trò của tri thức trong việc phục vụ những yêu cầu của xã hội, cũng góp phần
trong việc thể hiện khả năng bản thân mình ở xã hội không ngừng phát triển lớn
mạnh.
+ Khi trở thành con người có tri thức thì sống theo chuẩn mực đạo đức tốt,
giữ gìn cũng như phát huy được những giá trị văn hóa tốt đẹp ơng cha ta để lại. Một
câu hỏi đề ra, nếu bản thân mỗi công dân khơng có am hiểu về tri thức, tri thức sách
vở, tri thức trong cách sống, tri thức trong sự nhìn nhận thì xã hội sẽ duy trì như thế
nào. Tri thức hình thành được là nhờ sự tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi được
những kỹ năng, một xã hội sẽ lạc hậu, khơng có sự phát triển là xã hội cịn xuất hiện
những con người khơng có tri thức, một thành phần thừa trong xã hội.
+ Vai trò cuối cùng mà tri thức mang lại cho xã hội là sự hội nhập quốc tế,
giao lưu học hỏi kiến thức hay những truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác là
rất cần thiết, hay là tham gia các cuộc thi quốc tế mà các vấn đề cần quan tâm ở đây

là ngôn ngữ tiếng anh phải thực sự tốt và chuyên môn cao. Xã hội sẽ được sánh
ngang với các cường quốc năm châu, sự sáng tạo cũng như những phát minh hay,
mới lạ thì cơng dân có tri thức là không thể thiếu, là công cụ giúp giải quyết mọi
vấn đề khó khăn khơng chỉ cho bản thân, gia đình mà cịn cho cả xã hội.
2.4. Vai trị của trí thức đối với xã hội
Tri thức đang ngày càng khẳng định vai trị to lớn của mình trong hoạt động
xã hội, là tiền đề quan trọng để hình thành nên xã hội tri thức – một xã hội đổi mới
văn minh và là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay. Chúng
ta đều nhận thấy rằng, tri thức đóng một vai trị hết sức quan trong góp phần tạo nên
mọi thành tựu tiến bộ trong lịch sử hình thành và phát triển của văn minh nhân loại.
Mặc dù những câu hỏi mang tính triết học xung quanh phạm trù tri thức vẫn không
ngừng được tranh luận và chưa được câu trả lời thích đáng nhưng trong mọi lĩnh
vực hoạt động khoa học, kinh tế, chính trị, văn hóa, … tri thức vẫn ln được tìm
kiếm, phát triển và ngày càng có tác động to lớn đến sự phát triển của xã hội loài
người. Tất cả mọi người, tuy hoàn cảnh địa vị khác nhau nhưng họ đang cùng có
chung một hoạt động, đấy là hoạt động tri thức. Và vì thế, tri thức khơng cịn là vấn
đề riêng của mỗi cá nhân mà đã trở thành vấn đề chung của mọi xã hội.
Xã hội càng phát triển, cơng cụ tìm kiếm, lưu giữ và tuyên truyền tri thức
càng trở nên tiên tiến, hiện đại. Bước phát triển cao nhất của nên công nghệ thông
tin hiện đại mang đến loại công cụ thay thế con người trong các hoạt đơng trí óc, đó
là máy tính điện tử. Từ hàng chục năm nay, cùng với khả năng lưu trữ, xử lí thơng
tin nhanh chóng và khả năng tính tốn khoa học, các hệ thơng máy tính được ứng
dụng để hình thành nên cơ sở dữ liệu điện tử thuộc nhiều nghành khác nhau, trên
mọi lĩnh vực và phương diện, từ đấy tạo nên hạ tầng thơng tin quốc gia, nền móng
của sự phát triển thông tin ở nhiều nước. Sự phong phú về thông tin, dữ liệu cùng


khả năng khai thác nhanh chóng dễ dàng tri thức điện tử đã trở thành nguồn tri thức
mở. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý là sự phong phú về thông tin chưa hẳn đã
mang lại sự đầy đủ và chính xác về tri thức John Naisbett đã từng cảnh cáo :

“Chúng ta chìm ngập trong dữ liệu mà vẫn đói tri thức”. Vì vậy, con người cần biết
chọn lọc và sử lí thơng tin một cách có hiệu quả, biến nó trở thành tri thức của riêng
mình. Sự giàu có về thơng tin trở thành sự giàu có về tri thức sẽ mang lại một xã hội
văn minh với trình độ phát triển cao.
Dù ở trong bất cứ xã hội nào thì tri thức của lồi người cũng là một nguồn
lực đóng góp cho sự phát triển. Nhưng trước đây, tri thức thường vẫn là một tài sản
nằm trong tay một số tầng lớp tri thức và của những người có học vấn trong xã hội.
Chỉ đến thời đại thông tin, với các phương tiện truyền thông hiện đại, lồi người
mới có cơ hội thực hiện mục đích nhân văn cao cả của mình: chia sẻ tri thức cho
mọi người để cùng phát triển. Khi ấy chúng ta mới có được một xã hội tri thức đích
thực. Sự bùng nổ của thông tin đem đến cho chúng ta một xã hội thông tin đa chiều,
đa phương diện. Nhưng đấy chưa phải là một xã hội tri thức bền vững. Một xã hội
tri thức được gọi là bền vững khi nó bảo tồn và thúc đẩy các quyền con người và
quyền công dân; khi việc truy cập tri thức khơng bị cản trở và có khả năng bao qt
rộng lớn; khi tri thức của nó làm thành cơ sở cho những phương tiện bảo tồn một
cách hiệu quả môi trường thiên nhiên của chúng ta; khi việc truy cập tri thức và
thông tin đang cung cấp cho mọi người dân trên thế giới cơ hội được tự phát triển
trong đời sống cá nhân, đời sống nghề nghiệp và đời sống cơng cộng của họ.
2.5. Vai trị của tri thức đối với sinh viên
+ Khi con người có tri thức, có hiểu biết, am hiểu sâu rộng tới mọi vấn đề
hay lĩnh vực xã hội, thì con người ta dễ dàng thực hiện được những mục tiêu, ham
muốn, ước nguyện của bản thân, chỉ có tri thức được lấy bằng chính mồ hơi cơng
sức thì mới mang lại được hiệu quả. Và hiển nhiên, một xã hội với những con người
thành đạt giúp xã hội phát triển không ngừng về tri thức. Đơn giản rằng khi xã hội
được hợp thành bởi cá nhân, nhưng sự kết hợp mang lại hiệu quả thì cần q trình
rèn luyện khơng ngừng đối với thế hệ trẻ, việc học tập như nào, trau dồi bản thân ra
sao để tri thức mình mang lại cho xã hội có sự đóng góp hiệu quả nhất.
+ Khi nhu cầu xã hội ngày càng nâng cao, việc đáp ứng nhu cầu địi hỏi mỗi
cơng dân cần phải có, đặc biệt nhu cầu trong giáo dục và trách nhiệm của học sinh
sinh viên là quan trọng. Con người có tri thức, kiến thức và nhận thức tốt, làm chủ

tri thức bản thân là chủ trong cách sống của mình, biết bản thân mình làm gì, biết
được nhu cầu xã hội đang địi hỏi gì ở chính các bạn trẻ, mà khơng ngừng học hỏi.
Vai trị của tri thức trong việc phục vụ những yêu cầu của xã hội, cũng góp phần
trong việc thể hiện khả năng bản thân mình ở xã hội không ngừng phát triển lớn
mạnh.
+ Khi trở thành con người có tri thức thì sống theo chuẩn mực đạo đức tốt,
giữ gìn cũng như phát huy được những giá trị văn hóa tốt đẹp ơng cha ta để lại. Một
câu hỏi đề ra, nếu bản thân mỗi cơng dân khơng có am hiểu về tri thức, tri thức sách
vở, tri thức trong cách sống, tri thức trong sự nhìn nhận thì xã hội sẽ duy trì như thế
nào. Tri thức hình thành được là nhờ sự tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi được


những kỹ năng, một xã hội sẽ lạc hậu, không có sự phát triển là xã hội cịn xuất hiện
những con người khơng có tri thức, một thành phần thừa trong xã hội.
+ Vai trò cuối cùng mà tri thức mang lại cho xã hội là sự hội nhập quốc tế,
giao lưu học hỏi kiến thức hay những truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác là
rất cần thiết, hay là tham gia các cuộc thi quốc tế mà các vấn đề cần quan tâm ở đây
là ngôn ngữ tiếng anh phải thực sự tốt và chuyên môn cao. Xã hội sẽ được sánh
ngang với các cường quốc năm châu, sự sáng tạo cũng như những phát minh hay,
mới lạ thì cơng dân có tri thức là khơng thể thiếu, tri thức lúc này như là công cụ
giúp giải quyết mọi vấn đề khó khăn khơng chỉ cho bản thân, gia đình mà cịn cho
cả xã hội vì lợi ích của đất nước.
+ Nhận thức rất rõ việc học tập, cũng như biết được những giá trị tri thức, tri
thức là gì, tại sao phải có tri thức thì mỗi học sinh sinh viên cần phải phát huy bản
thân học hỏi trong nhiều lĩnh vực, phụ huynh cũng có giải pháp tốt nhất cho các bạn
trẻ trong việc rèn luyện các kỹ năng mềm hay kiến thức chuyên sâu mơn học, đó
cũng là chặng đường giúp các bạn trẻ chuẩn bị tốt nhất để có hành trang tốt trên con
đường đi tìm thành cơng và hỗ trợ học sinh và phụ huynh trong việc học tập của con
em mình rất cần đến một gia sư chất lượng, hiệu quả.
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP TẬN DỤNG TRI THỨC CỦA CON

NGƯỜI VIỆT NAM
3.1. giải pháp đột phá
+ Tiếp tục xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nhân lực trình độ cao ở các nước phát triển; đẩy mạnh việc tìm kiếm,
tuyển chọn các học sinh, sinh viên để đào tạo theo các chương trình cử nhân tài
năng, chương trình chất lượng cao gắn với sử dụng cán bộ tài năng và trí thức trẻ,
để làm cơ sở cho phát triển đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
+ Thu hút các Việt kiều xuất sắc ở nước ngoài, các nhà khoa học nước ngoài,
có tầm nhìn và năng lực sáng tạo cao, có phẩm chất chính trị vững vàng; đáp ứng
được yêu cầu, mục tiêu phát triển ngành/chuyên ngành đào tạo, khoa học và công
nghệ mới; Thu hút các du học sinh tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ xuất sắc tại các trường
đại học có thứ hạng cao trên thế giới về tham gia các chương trình đạo tạo tiến sĩ tại
nước nhà.
+ Tập trung đầu tư xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, phòng thí
nghiệm trọng điểm cấp Quốc gia đáp ứng yêu làm việc theo tiêu chuẩn quốc tế để
tạo môi trường làm việc thơng thống, hiện đại cho đội ngũ trí thức có đủ điều kiện
để tập trung nghiên cứu, sáng tạo.
3.2. Giải pháp về tuyển dụng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ trí thức
+ Xây dựng các bộ tiêu chuẩn, tiêu chí và điều kiện tuyển dụng, thu hút trí
thức có trình độ chun mơn, thuộc lĩnh vực, ngành đang thiếu; đổi mới chính sách,
phương thức tuyển dụng, thu hút trí thức: Xét tuyển đặc cách khơng qua thi tuyển
vào làm việc trong các tổ chức khoa học và công nghệ đối với những người tốt


nghiệp thủ khoa tại các cơ sở đào tạo trình độ đại học ở trong nước, tốt nghiệp loại
giỏi, xuất sắc của các trường đại học có uy tín ở nước ngồi hoặc có kinh nghiệm
cơng tác từ 5 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển
dụng.
+ Xây dựng đồng bộ các chính sách trong việc phát hiện, quy hoạch, đào tạo,

bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức. Quan tâm bổ nhiệm trí thức có tư duy
đổi mới, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Có chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, trí
thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân
tộc thiểu số và các nữ trí thức.
3.3. Giải pháp về chế độ chính sách đối với đội ngũ trí thức
Các chế độ, chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với trí thức khơng những thu
hút được những người tài giỏi mà còn chứng tỏ sự đánh giá đúng đắn giá trị sản
phẩm đặc biệt do lao động trí óc tạo ra cho xã hội, vừa thể hiện sự trân trọng và tôn
vinh vai trị, vị trí của trí thức đối với đất nước. Chế độ, chính sách đối với trí thức
được coi là tồn diện, khi nó tạo điều kiện thuận lợi cả về vật chất lẫn tinh thần để
trí thức bộc lộ hết tài năng sáng tạo và công hiến hết sức mình cho sự phồn vinh của
quốc gia dân tộc. Do đó, Đảng và Nhà nước cần tập trung:
+ Hồn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với trí thức: Tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức làm việc và sinh hoạt, như phương tiện đi
lại, làm việc, nhà công vụ; chế độ đãi ngộ cho gia đình đối với những nhà khoa học
đầu đàn, đầu ngành... đồng thời có sự quan tâm đặc biết tới đội ngũ trí thức đang
cơng tác ở miền núi, vùng có điều kiện khó khăn... Đổi mới cơ chế trả lương theo
chế độ khoán sản phẩm; giao quyền tự chủ cho các tổ chức, cơ quan trong việc chi
trả lương, thưởng và các chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức được thu hút về
làm việc, đồng thời hạn chế, khắc phục tối đa tình trạng “chảy máu chất xám” ở các
đơn vị thuộc Nhà nước quản lý.
+ Xây dựng các quy định, quy chế về tôn vinh trí thức. Đánh giá năng lực
theo kết quả và sản phẩm đầu ra để có những hình thức tơn vinh, tưởng thưởng
tương xứng. Các hình thức tơn vinh phải thể hiện được văn hóa coi trọng hiền tài,
tránh tơn vinh một cách hình thức, cào bằng, khơng dân chủ...
3.4. Giải pháp về điều kiện, môi trường làm việc
+ Tiếp tục quan tâm và đầu tư nguồn lực tài chính trong việc xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật tối đa nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp,
như phịng làm việc, trang thiết bị, máy móc hiện đại, phương tiện đi lại, cơ sở

nghiên cứu, phòng thí nghiệm, thư viện...
+ Xây dựng mơi trường, khơng khí làm việc sôi nổi, cởi mở để chia sẻ thông
tin, sáng kiến, trí thức. Bên cạnh đó, Nhà nước cần xây dựng quy chế dân chủ trong
hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa và nghệ thuật
để đội ngũ trí thức phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình; xây dựng các cơ chế


chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức và gia đình an tâm cơng tác, đem hết
tài năng phục vụ, được xã hội tôn vinh, được thăng tiến bằng chính kết quả hoạt
động nghề nghiệp của mình. Cùng với việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
khai thác tiềm năng lợi thế của từng địa phương trong cả nước; gắn nghiên cứu khoa
học với sản xuất, ứng dụng; mở rộng giao lưu về khoa học và cơng nghệ, giáo dục
và đào tạo, văn hóa + văn nghệ trong phạm khu vực và quốc tế.



PHẦN III: KẾT LUẬN
Xuất phát từ quan điểm bao trùm “con người là trung tâm, vừa là động lực, vừa
là mục tiêu của sự phát triển”, Đảng ta đã nhất qn và kiên trì thực hiện quan điểm:
“Đối với trí thức, phát huy năng lực, trí tuệ, mở rộng thơng tin, phát huy dân chủ,
trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng
tạo. Bảo vệ quyền sở hữu, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức trong
cơng cuộc phát triển đất nước”. Đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển
đội ngũ trí thức đã được Đảng và Nhà nước thực thi, đem lại hiệu quả tốt trong thời
gian qua, như chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức; chính sách tạo mơi
trường phát huy vai trị của trí thức; chính sách sử dụng, đãi ngộ, tơn vinh trí thức
và chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Gắn liền với các chủ
trương, chính sách đó là sự cố gắng trong việc đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường
đầu tư cho giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ,... đã
góp phần phát huy tiềm năng và nội lực của đội ngũ trí thức trong hoạt động thực

tiễn.
Điều đó cho thấy đối với Đảng và nhà nước ta, vai trò của tri thức ngày càng
quan trọng. Đứng trước thế kỉ 21 – thế kỉ có hiều biến đổi sâu sắc và phổ biến trên
tất cả các lĩnh vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách
đồng thời là thời cơ nghiệt ngã cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong
đó có Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008, “Về xây dựng đội ngũ tri thức trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
2) Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t. 51, tr. 2
Web:
 /> />%BFt_h%E1%BB%8Dc_Marx-Lenin)
 /> />tieu_luan_triet_hoc_vai_tro_cua_tri_thuc_trong_doi_song_xa_hoi_700.p
df
...



×