BÀI KIỂM TRA
Mơn: Hệ thống chính trị thế giới đương đại
Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích những ưu điểm, hạn chế của hệ thống chính
trị Việt Nam.
Q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới cũng là q trình khơng ngừng đổi
mới, hồn thiện hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng Cộng sản cầm quyền; tăng cường xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một trong những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi
mới là giữ vững sự ổn định chính trị, giữ vững và làm sáng tỏ con đường xã hội
chủ nghĩa. Có được sự ổn định chính trị mới có điều kiện phát triển kinh tế-xã hội
và phát triển đất nước bền vững. Hệ thống chính trị vững mạnh có vai trị quyết
định đối với sự ổn định chính trị, phát triển đất nước.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (5.2013) đã
chủ trương: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ
sở. Trung ương đã tập trung đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
Khóa IX (3.2002) Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn và Nghị quyết Trung ương 4 Khóa X (2.2007) về đổi mới, kiện
toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị-xã hội. Các nghị quyết quan
trọng đó đã được thực hiện nghiêm túc. Hệ thống các cơ quan Đảng, Quốc hội,
Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội từ Trung ương tới cơ
sở, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân từng bước được sắp xếp, kiện toàn;
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác được phân định, điều chỉnh hợp lý
hơn, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và nâng cao chất
lượng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm yêu cầu lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, thích ứng với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta đã có nhiều đổi mới
góp phần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được tổ chức, sắp
xếp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng
hướng về cơ sở. Quốc hội, chính phủ, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp,
các khóa đã có nhiều đổi mới theo hướng phát huy dân chủ, cải cách hành chính,
cơng khai các hoạt động của chính quyền, tăng cường đối thoại, tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của nhân dân. Dân chủ trong xã hội có bước phát triển. Trình độ và
năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên.
Cùng với những thành công trong đổi mới, kiện tồn hệ thống chính trị,
Trung ương đã nhấn mạnh, cho đến nay vẫn còn tồn tại những hạn chế:
Thứ nhất, tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan chưa hợp lý, còn cồng kềnh,
nhiều đầu mối và tầng nấc trung gian; Mục tiêu tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu
đề ra. Thực tế vận hành của hệ thống chính trị của nước ta cịn nhiều nhược điểm.
Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà
nước, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
chưa ngang tầm với địi hỏi của tình hình – nhiệm vụ mới. Việc cải cách nền hành
chính quốc gia còn rất nhiều hạn chế. Bộ máy hành chính cịn nhiều tầng nấc làm
cho việc quản lý các quá trình kinh tế - xã hội chưa được nhanh, nhạy và có hiệu
quả.
Thứ hai, chất lượng một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là trong nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn, dự báo tình hình, tham mưu, đề xuất với Trung ương những vấn đề
mang tính chiến lược về phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng
hệ thống chính trị, đối ngoại; Tình trạng quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu của một
bộ phận công chức nhà nước chưa được khắc phục, kỷ cương, phép nước bị xem
thường ở nhiều nơi.
Thứ ba, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các
đồn thể chính trị-xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Phương thức
tổ chức, phong cách hoạt động của Mặt Trận và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn
chưa thốt khỏi tình trạng hành chính, xơ cứng, một số cán bộ bị “viên chức hóa”,
chưa thật sự gắn bó với quần chúng. Nạn tham nhũng trong hệ thống chính trị cịn
trầm trọng, bệnh cục bộ, bản vị, địa phương còn khá phổ biến. Quyền làm chủ của
nhân dân còn bị vi phạm.
Thứ tư, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy một số cơ quan của Quốc hội
và các bộ, ngành của Chính phủ chưa hợp lý, chưa phát huy đúng mức vai trò,
trách nhiệm, quyền hạn. Chưa phân định rõ chính quyền đơ thị và chính quyền
nơng thơn để có cơ chế quản lý, điều hành phù hợp. Tổ chức bộ máy và đội ngũ
cán bộ, cơng chức tịa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân nhìn chung chưa đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ của một bộ
phận cán bộ, cơng chức, viên chức cịn thấp.
Thứ năm, tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên còn nghiêm trọng, chậm được khắc
phục. Việc đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đồn thể chính trị - xã hội cịn chậm. Cơng tác tun truyền, vận động
quần chúng còn hạn chế. Hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn hiệu quả thấp, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp phát sinh.
Từ những khuyết điểm, hạn chế của hệ thống chính trị hiện nay, Hội nghị
Trung ương 7 Khóa XI khẳng định sự cần thiết việc tiếp tục đổi mới, hồn thiện hệ
thống chính trị một cách đồng bộ. Sự đồng bộ được nhấn mạnh trên mấy điểm chủ
yếu:
Một là, phải bám sát, cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm của Cương
lĩnh, Điều lệ Đảng, Văn kiện Đại hội XI của Đảng, đồng bộ với nội dung sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp năm 1992, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước trong thời kỳ mới; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Cần
nắm vững quan điểm cơ bản của Đảng về hệ thống chính trị và vai trị lãnh đạo của
Đảng trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) để chỉ đạo sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp năm 1992. Các quan điểm cơ bản đó là:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở
mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải
được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
“Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân,
chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân
do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ
công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước,
của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”.
Cương lĩnh khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân
và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là
thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ
chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa”(3).
Về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng
Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng
cơng tác tun truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng
hành động gương mẫu của đảng viên… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng
thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật”(4).
Những quan điểm cơ bản của Đảng trong Cương lĩnh đã được thể hiện trong quá
trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, nhất là về chế độ chính trị, cơ cấu tổ
chức bộ máy Nhà nước, những quy định về quyền con người, quyền công dân và
thiết chế dân chủ. Hiến pháp và hệ thống pháp luật phải thể chế hóa Cương lĩnh
của Đảng. Đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới thể chế kinh
tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, phải đổi mới đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội; đồng bộ giữa tổ chức bộ
máy với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, hoàn thiện hệ thống pháp luật với tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục đổi mới tổ chức trong hệ thống Đảng theo nội dung Nghị quyết
Trung ương 4 Khóa X, hồn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động, chức năng,
nhiệm vụ của các ban của Đảng để giúp Trung ương và các cấp ủy nâng cao chất
lượng, hiệu quả lãnh đạo. Cùng với tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các
Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, ủy ban Kiểm tra Trung
ương, Ban Dân vận Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương và Văn phòng Trung
ương và đã tái lập Ban Nội chính Trung ương và Ban Kinh tế Trung ương. Với bộ
máy ở Trung ương như vậy để các cấp ủy địa phương xây dựng bộ máy trong hệ
thống tổ chức đảng thích hợp. Khơng nhất thiết ở Trung ương có ban nào thì ở địa
phương phải có ban ấy. Phải đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các ban,
tuyển chọn được những cán bộ có trình độ, năng lực về trí tuệ, lý luận và chỉ đạo
thực tiễn.
Nhiệm vụ xây dựng Đảng cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc Nghị quyết
Trung ương 4 Khóa XI: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Với
quyết tâm và trách nhiệm chính trị cao, thực hiện kiên trì và đồng bộ cả 4 nhóm
giải pháp để kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Cần chú trọng “Xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”(5). Xác định rõ thẩm
quyền và trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với
tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo.
Tại Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI (5.2013), Ban Chấp hành Trung ương
đã xem xét, cho ý kiến về các phương án và nhân sự quy hoạch Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của
Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Với sự chỉ đạo
của Bộ Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp
với Ban Tổ chức Trung ương Đảng từ tháng 3.2013 đã mở các lớp bồi dưỡng dự
nguồn cán bộ cao cấp.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng địi hỏi cơng tác xây
dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng phải tiến hành tồn diện, đồng bộ. Khơng ngừng nâng
cao trình độ lý luận, trí tuệ của Đảng đồng thời với học tập, làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, phải làm cho Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên thật sự vươn tới tầm cao trí tuệ
và đạo đức. Đảng khơng ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối, công cụ
chủ yếu để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và tồn xã
hội, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị. Xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững
mạnh từ Trung ương đến cơ sở, chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở đảng, tăng cường
kỷ luật, kiểm tra và bảo vệ Đảng.
Tiếp tục đổi mới và hồn thiện bộ máy chính quyền nhà nước các cấp theo
hướng xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Làm rõ về lý luận, thực tiễn
những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tập trung xây
dựng, hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật và Nhà nước quản lý đất nước,
quản lý kinh tế-xã hội chủ yếu bằng pháp luật. Đổi mới tổ chức bộ máy và chức
năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Thực hiện có hiệu quả các chức năng của Quốc hội
về lập pháp, quyết định những vấn đề lớn của đất nước và giám sát. Kiện toàn tổ
chức bộ máy của Chính phủ và chính quyền các cấp gắn với tăng cường cải cách
hành chính: cải cách thể chế hành chính, cải cách bộ máy hành chính nhà nước,
nâng cao trình độ, tinh thần trách nhiệm, đạo đức, ý thức phục vụ nhân dân của đội
ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính cơng. Đẩy mạnh cải cách tư pháp cả về
tổ chức bộ máy và chất lượng xét xử bảo đảm giữ nghiêm pháp luật, kỷ cương
phép nước, đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm, không để oan người vơ
tội.
Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh địi hỏi đổi mới và hồn thiện tổ
chức và chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể
chính trị - xã hội. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận
của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận”(6). “Đảng tơn trọng
tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng
nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế,
chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đồn thể nhân dân hoạt động có hiệu
quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”(7).
Ba là, đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị phải đồng bộ ở cấp Trung
ương và cấp địa phương, cơ sở.
Phải hết sức coi trọng đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở cấp Trung
ương, đó là cấp chiến lược có vai trị hoạch định, quyết định Cương lĩnh, đường
lối, chính sách lớn, hệ thống pháp luật, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và
những vấn đề lớn đối với sự phát triển của đất nước. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu
tổ chức các tổ chức hệ thống Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể
chính trị - xã hội cần được xác định rõ ràng với tổ chức thật mạnh gồm những cán
bộ lãnh đạo và cán bộ tham mưu có trình độ cao, hiểu biết thực tiễn sâu sắc, giỏi về
khoa học lãnh đạo, quản lý, gương mẫu về đạo đức, có tư duy chiến lược. Hội nghị
Trung ương 4 Khóa XI đã nhấn mạnh vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương.
Việc đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường,
thị trấn cần được thực hiện trên cơ sở kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
Khóa IX (3.2002). Vừa qua đã tổ chức thí điểm bỏ hội đồng nhân dân ở một số cấp
chính quyền (quận, phường), thí điểm việc kiêm nhiệm chức vụ Đảng và chính
quyền và vấn đề xây dựng chính quyền đơ thị và chính quyền nơng thơn. Theo sự
chỉ đạo của Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI (5.2013), việc tổ chức bộ máy ở địa
phương cần tăng cường kiêm nhiệm một số chức danh trong các tổ chức của hệ
thống chính trị. Đổi mới mạnh mẽ tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công. Cần phải tăng cường củng cố tổ chức và hiệu lực, hiệu quả quản lý
của hệ thống chính trị ở địa phương và cơ sở. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Thực
hiện tốt và tổng kết kịp thời đề án đưa 600 cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học về làm Phó
Chủ tịch ủy ban nhân dân xã thuộc các huyện nghèo và khó khăn nhất. Chăm lo
đào tạo cán bộ tại chỗ.
Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI nhấn mạnh, tiếp tục đổi mới, hồn thiện hệ
thống chính trị cần thực hiện mạnh mẽ, đồng bộ với quyết tâm chính trị cao; những
vấn đề thực tiễn địi hỏi, đã đủ rõ, chín muồi, thì kiên quyết thực hiện, những vấn
đề chưa đủ rõ thì cần khẩn trương chỉ đạo nghiên cứu, làm thí điểm, tổng kết thực
tiễn để làm rõ, có bước đi thích hợp, khơng nóng vội, chủ quan, duy ý chí.
Đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị phải hướng tới việc xây dựng tổ chức
bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp chức năng, nhiệm vụ; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức hợp lý về số lượng, bảo đảm chất lượng chính trị,
chun mơn, có tiền lương, thu nhập bảo đảm cuộc sống.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là tạo dựng một xã hội mới tốt đẹp, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xây dựng một xã hội như thế là quá
trình xác lập nền tảng kinh tế, chế độ kinh tế và kiến trúc thượng tầng thích hợp. Ở
Việt Nam, đang xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa để đi tới hoàn thiện nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Điều đó địi hỏi phải hồn
thiện cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, tái cấu trúc nền kinh tế và nắm khâu đột phá,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đào tạo nguồn
nhân lực có chất lượng cao và xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng hiện
đại. Với nền tảng kinh tế như thế đòi hỏi phải đổi mới, hồn thiện hệ thống chính
trị, hồn thiện kiến trúc thượng tầng để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Với tư
cách là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng, hệ thống chính trị phải
khơng ngừng đổi mới và hoàn thiện.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua
đã nêu rõ: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng
được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã
hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.