Tải bản đầy đủ (.pdf) (200 trang)

Văn hóa truyền thông của các tạp chí điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 200 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM NGỌC

VĂN HĨA TRUYỀN THƠNG
CỦA CÁC TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2022


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM NGỌC

VĂN HĨA TRUYỀN THƠNG
CỦA CÁC TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 9229040

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. VŨ THỊ PHƯƠNG HẬU

HÀ NỘI - 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Vũ Thị Phương Hậu. Các số liệu thống kê,
trích dẫn trong luận án bảo đảm độ tin cậy, chính xác, trung thực và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Kim Ngọc


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN CỦA LUẬN ÁN

7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

7

1.2. Cơ sở lý luận về văn hóa truyền thơng

23


Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN HĨA TRUYỀN THƠNG CỦA CÁC
TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

57

2.1. Khái quát về các tạp chí điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

57

2.2. Khảo sát, nhận diện văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam

63

2.3. Những ưu điểm và hạn chế văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam

96

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN
HĨA TRUYỀN THƠNG CỦA CÁC TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM

107

3.1. Những yếu tố tác động đến văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam

107


3.2. Phương hướng xây dựng văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam

119

3.3. Các giải pháp nâng cao văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới
KẾT LUẬN

126
144

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG
BỐ CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

150

PHỤ LỤC

161


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NCS


Nghiên cứu sinh

Nxb

Nhà xuất bản

PVS

Phỏng vấn sâu

TCCSĐT

Tạp chí Cộng sản điện tử

Tr.

Trang


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Trang
Bảng 2.1. Trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên

79

Bảng 2.2. Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên
tập viên

79


Bảng 2.3. Trình độ sử dụng các thiết bị tin học và internet của đội ngũ cán
bộ, phóng viên, biên tập viên

80

Bảng 2.4. Các nội dung được độc giả quan tâm khi đọc các ấn phẩm Tạp
chí Lý luận chính trị
Biểu đồ 2.1. Lượt truy cập của độc giả từ tháng 1-2020 đến tháng 6-2021

88

87

Sơ đồ 1.1. Khung phân tích văn hóa truyền thơng của các Tạp chí điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam

53


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiến bộ về khoa học và công nghệ, nhất là những đột phá công nghệ số
(digital technology) ba thập niên qua đã đưa đến những chuyển mang tính cách
mạng trong sản xuất, lưu giữ, truyền bá, sử dụng thơng tin, thúc đẩy hình thành và
phát triển các phương tiện truyền thông mới. Sự thay đổi lớn cả về số lượng và chất
lượng các phương tiện truyền thơng khiến q trình truyền tải văn hóa đến cơng
chúng được tối ưu hóa cả về tốc độ, tính năng và tính đa dạng của phương thức
truyền thơng, mang lại những nội dung và hình thức mới trong tổ chức sản xuất,

truyền bá, sử dụng và quản trị thơng tin.
Báo chí là một trong những phương tiện truyền thông đại chúng thiết yếu,
với chức năng hàng đầu là thông tin mọi mặt đời sống xã hội, là công cụ tư tưởng
chính trị sắc bén tuyên truyền, tập hợp, giáo dục và định hướng, hướng dẫn dư luận
xã hội, là phương tiện, phương thức giao tiếp, liên kết, giám sát và phản biện xã
hội… Trong xã hội thông tin và tồn cầu hóa hiện nay, báo chí - truyền thơng ngày
càng đóng vai trị quan trọng trong đời sống của mỗi quốc gia, dân tộc.
Báo chí là cơng cụ tư tưởng, chính trị của Đảng và Nhà nước, đồng thời là
một sản phẩm văn hóa có tác động sâu rộng trong quần chúng. Báo chí, truyền
thơng có quan hệ mật thiết với văn hóa, là sản phẩm văn hóa, nhưng đồng thời cũng
là một phương thức quan trọng phổ biến, lưu truyền, sáng tạo và thúc đẩy phát triển
văn hóa. Cịn văn hóa khi đã thẩm thấu vào hoạt động báo chí, truyền thơng sẽ gia
tăng giá trị của các chủ thể cùng quá trình hoạt động, tạo động lực cho sự phát triển.
Hoạt động báo chí khơng chỉ là hoạt động chính trị - xã hội hay nghề nghiệp, mà
cịn là một hoạt động mang đậm tính văn hóa. Vì vậy, cần nhận diện đúng bản chất
của văn hóa truyền thơng, vai trị của văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí.
Văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí là nền tảng cơ bản bảo đảm hoạt
động báo chí truyền thơng giữ vững bản chất, phương hướng của nền báo chí cách
mạng, thực hiện đúng sứ mệnh, tơn chỉ, mục đích mà mỗi cơ quan báo chí đã tự đặt
ra cho mình; là “thể chế mềm” ràng buộc nghĩa vụ của nhà báo với trách nhiệm xã
hội, liêm chính nghề nghiệp, làm cho mỗi tác phẩm báo chí thật sự là một cơng trình
mang tầm văn hóa; là phong cách tạo nên sức hấp dẫn, lơi cuốn độc giả, gắn độc giả
với sản phẩm báo chí bằng cả tình cảm và trách nhiệm. Tất cả cùng tham dự vào


2
định hình hệ sinh thái văn hóa truyền thơng góp phần thúc đẩy bồi đắp tri thức, cải tạo
thực tiễn, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giao lưu và tiếp biến văn hóa, vì
một thế giới tốt đẹp hơn. Chỉ thị số 22 - CT/TW ngày 17-10-1997 của Bộ chính trị yêu
cầu các cấp, các ngành, các cơ quan báo chí xuất bản: “Phải đảm bảo tính tư tưởng,

tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng, có trách nhiệm hình thành
dư luận xã hội lành mạnh, góp phần tăng cường đồn kết, nhất trí về tư tưởng, chính trị
và tinh thần trong nhân dân. Không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, văn hóa, khoa
học, cơng nghệ, nghề nghiệp, từng bước hiện đại hóa” [34, tr.470].
Những năm qua, các cơ quan báo chí, truyền thơng, trong đó có các Tạp chí
điện tử của Đảng như: Tạp chí Cộng sản sản điện tử, Tạp chí Tuyên giáo điện tử,
Tạp chí Lý luận chính trị điện tử…, đã phát huy vai trị quan trọng trong lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, truyền bá, giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao nhận thức về mọi mặt cho
các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội; tích cực đấu tranh, phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch, các hiện tượng tiêu cực, các biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; góp phần lưu giữ và
truyền bá các giá trị văn hóa - nhân văn của dân tộc, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, văn hóa truyền thơng của các Tạp chí
điện tử của Đảng cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Một số Tạp chí chưa định
hình rõ bản sắc văn hóa truyền thơng của riêng mình, có mặt, có nội dung chưa bám
sát tơn chỉ, mục đích; tính đa giá trị của văn hóa truyền thơng chưa thể hiện rõ; tri
thức chứa đựng trong thông tin ở nhiều tác phẩm chưa đúng tầm với tính chất tạp
chí Đảng; tính sắc bén, tính thuyết phục trong thực hiện chức năng tuyên truyền,
giáo dục, định hướng tư tưởng chính trị, thu hút sự quan tâm của bạn đọc cịn hạn
chế. Tiếp cận cơng nghệ làm báo hiện đại cịn chậm; nguồn lực đầu tư hạn hẹp. Hầu
hết phóng viên, biên tập viên chủ yếu vừa làm tạp chí in, vừa làm tạp chí điện tử,
chưa qua đào tạo kỹ năng làm báo chí điện tử chuyên nghiệp... Thậm chí ở một số
chuyên mục, tác phẩm tạp chí điện tử vẫn có biểu hiện “báo hóa tạp chí”.
Trong khi đó, tình hình khu vực và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị ráo riết thực hiện âm



3
mưu “diễn biến hịa bình”, hoạt động chống phá dưới nhiều hình thức khác nhau.
Mạng xã hội trở thành khơng gian chiến lược mà các thế lực thù địch lợi dụng
chống phá nhằm gây nhiễu loạn thông tin, thúc đẩy “tác động chuyển hóa” trên lĩnh
vực tư tưởng - văn hóa. Nhiều vấn đề mới, khó phát sinh trong thực tiễn đòi hỏi cần
được lý giải thấu đáo bằng lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn qua các bài viết đăng
tải trên báo chí truyền thơng chính thống thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước.
“Báo chí dù của thể chế chính trị nào, là báo chí tư nhân hay của chính phủ thì cũng
nhằm đến mục đích lợi ích. Cũng chính vì vậy mà các giai cấp, nhà nước, các tổ
chức, cá nhân nhà hoạt động chính trị đều phải nắm lấy báo chí, dùng làm cơng cụ,
phương tiện để truyền bá ý thức hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng cho công chúng; cổ
vũ, động viên họ làm theo”[119]. Điều này đòi hỏi các cơ quan báo chí, truyền
thơng, trong đó có các Tạp chí điện tử của Đảng rất cần có định hướng và giải pháp
cải tiến trên nhiều phương diện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tuyên truyền trong
tình hình mới.
Việc nghiên cứu văn hóa truyền thơng của các Tạp chí điện tử của Đảng cần
được nghiên cứu ở cả phạm vi chiều rộng lẫn mức độ chiều sâu. Xây dựng và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thơng sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển các
tạp chí điện tử của Đảng trong bối cảnh truyền thông đa phương tiện, hội tụ và
hướng đến xu thế truyền thông đa nền tảng. Nghiên cứu này càng có ý nghĩa cấp
thiết về mặt lý luận và thực tiễn trong bối cảnh các cơ quan báo chí, truyền thơng
đang tiến hành kiện toàn tổ chức, cơ cấu lại theo định hướng quy hoạch báo chí đến
năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, nghiên cứu sinh đã đi sâu tìm
hiểu và lựa chọn đề tài: “Văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ chun ngành Văn hóa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về văn hóa truyền thông, luận
án bước đầu xây dựng khung lý thuyết, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng

văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử của Đảng; từ đó khuyến nghị, đề xuất
các giải pháp nâng cao văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử Đảng Cộng sản
nói riêng và trong hoạt động báo chí nói chung.


4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan các nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp về văn hóa truyền thơng
để làm cơ sở cho việc xác định các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Làm rõ cơ sở lý luận, xây dựng khung phân tích về văn hóa truyền thơng của
các Tạp chí điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Khảo sát và phân tích thực trạng văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử
của Đảng; đánh giá những ưu điểm, hạn chế; nêu rõ những vấn đề đặt ra trong xây
dựng văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
- Phân tích các yếu tố tác động và khuyến nghị một số giải pháp cơ bản nâng
cao văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử của Đảng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận án nghiên cứu văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử
của Đảng trên các phương diện: giá trị của sản phẩm truyền thơng, văn hóa của chủ thể
truyền thơng; văn hóa tiếp nhận, phản hồi thông tin của bạn đọc, kênh truyền thông.
+ Đối tượng khảo sát, nghiên cứu: một số tạp chí điện tử của Đảng. Trong
phạm vi của luận án, nghiên cứu sinh lựa chọn ba tạp chí điện tử: Tạp chí Cộng sản
điện tử, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử (phiên bản
tiếng Việt) để tiến hành khảo sát. Tạp chí Cộng sản điện tử thuộc Tạp chí Cộng sản;
Tạp chí Tuyên giáo điện tử thuộc Ban Tuyên giáo Trung ương; Tạp chí Lý luận
chính trị điện tử thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là các Tạp

chí gắn liền với từng cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu, tuyên
truyền, giáo dục lý luận chính trị của Đảng.
+ Về thời gian: Từ thời điểm thành lập các tạp chí điện tử của Đảng cho đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, nhất là phép biện chứng duy vật; các quan điểm lý luận và thực tiễn của
Đảngvề công tác tư tưởng, lý luận và xây dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam.


5
4.2. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Trong luận án này, NCS sử dụng cách tiếp cận liên ngành kết hợp với cách
tiếp cận chuyên ngành. Cụ thể, NCS đã sử dụng tri thức và phương pháp của các
ngành văn hóa học, xã hội học văn hóa, báo chí học, khoa học lý luận chính trị,…
để triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án bao gồm:
Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu: Trên cơ sở tài liệu được thu thập,
các thao tác được sử dụng chủ yếu trong phương pháp này là tiến hành kiểm tra,
sàng lọc, phân loại, xử lý, phân tích, đánh giá, tổng hợp hóa và dữ liệu hóa để sử
dụng cho từng nội dung nghiên cứu, làm cơ sở rút ra các kết luận khoa học về lý
luận cũng như thực tiễn văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử của Đảng.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Thao tác cụ thể của phương pháp này là thiết
kế bộ câu hỏi phỏng vấn sâu với các câu hỏi mở dành cho các đối tượng là thành
viên Ban Biên tập, Lãnh đạo các Ban chuyên môn, cán bộ, phóng viên, biên tập
viên, cộng tác viên, bạn đọc của các tạp chí điện tử của Đảng xung quanh nội dung
về văn hóa truyền thơng. NCS đã tiến hành phỏng vấn sâu 22 người, trong đó có 5
cán bộ của các Tạp chí, 8 cộng tác viên, 9 độc giả [Xem Phụ lục 2 đến Phụ lục 11].
Trên cơ sở ý kiến trả lời phỏng vấn sâu, NCS đã tiến hành phân tích, làm sáng tỏ
các giả thuyết khoa học đặt ra trong luận án.
Phương pháp khảo sát, thống kê, phân tích số liệu: Thao tác cụ thể ở đây là

tiến hành khảo sát trực tuyến trên internet, thu thập báo cáo của 3 tạp chí điện tử
trong phạm vi khảo sát qua các giai đoạn hình thành và phát triển, định hình các
bảng biểu thống kê, phân tích các số liệu thu thập được.
Phương pháp so sánh:
Trên cơ sở những dữ liệu thu thập được từ khảo sát trực tuyến, phỏng vấn
sâu, ý kiến chuyên gia, từ các báo cáo thống kê, từ quan sát tham dự, luận án đã so
sánh những điểm tương đồng, khác biệt, những điểm mạnh, điểm yếu của văn hóa
truyền thơng ba tạp chí điện tử của Đảng đã lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu. Kết
quả so sánh này sẽ là cơ sở để rút ra các kết luận khoa học và đề xuất các giải pháp
sát hợp với tình hình thực tiễn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đây là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về văn hóa truyền thơng của các tạp
chí điện tử của Đảng ở cấp độ luận án tiến sĩ. Luận án xây dựng khung lý thuyết về


6
văn hóa truyền thơng ở các tạp chí lý luận chính trị điện tử của Đảng trong thời gian
qua, làm rõ những kết quả đã đạt được, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân. Trên cơ
sở đó đề xuất hệ thống các giải pháp góp phần nâng cao văn hóa truyền thơng ở các
tạp chí điện tử của Đảng trong thời gian tới.
Về lý luận:
- Luận án xây dựng khung lý thuyết về văn hóa truyền thơng, đưa ra những
đặc điểm cơ bản nhận diện văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí, đồng thời
góp phần làm phong phú hơn những vấn đề lý luận về văn hóa truyền thông.
Về thực tiễn:
Trên cơ sở khảo sát thực trạng văn hóa truyền thơng ở các tạp chí điện tử,
khuyến nghị một số giải pháp để tiếp tục xây dựng và hồn thiện văn hóa truyền
thơng trong hoạt động của các tạp chí điện tử Đảng Cộng sản nói riêng và trong
hoạt động báo chí cả nước nói chung.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong xây dựng văn hóa

truyền thơng ở các tạp chí điện tử của Đảng và các cơ quan báo chí truyền thơng
khác. Là tài liệu tham khảo cho sinh viên các học viện, trường đại học đào tạo
chuyên ngành văn hóa, báo chí truyền thơng và cả các đối tượng quan tâm.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
được kết cấu thành 3 chương như sau:
- Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận của luận án.
- Chương 2. Thực trạng văn hóa truyền thơng của các tạp chí điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
- Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao văn hóa truyền thơng của
các tạp chí điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.


7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1.1. Nghiên cứu về văn hóa truyền thơng
Vấn đề văn hóa truyền thông trên thế giới khởi đầu được nghiên cứu và chủ
yếu đề cập trong xã hội tư bản ở các nước phương Tây từ nửa sau của thế kỷ XX.
Văn hố truyền thơng (Media Culture) được các nhà nghiên cứu mơ tả là tồn bộ
những tác động và sự định hướng tư tưởng của các phương tiện truyền thông. Các
phương tiện truyền thơng đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh,
quảng cáo, internet, các phương tiện truyền thơng mới… đã có tác động, ảnh hưởng
nhất định đến đời sống xã hội và hoạt động truyền thông. Truyền thơng đóng vai trị
quan trọng trong quản trị xã hội, giữ gìn và phát triển văn hóa, do các phương tiện
truyền thông đại chúng tác động và ảnh hưởng đến nhiều người mà chứa đựng trong

đó là các giá trị văn hóa. Nghiên cứu truyền thơng và vai trị của nó trong việc xây
dựng các giá trị văn hóa, sự lưu hành các giá trị biểu tượng chính là trọng tâm của
nghiên cứu văn hóa. Văn hóa truyền thơng khơng chỉ tập trung vào các khía cạnh
văn hóa của bất kỳ phương tiện truyền thơng nào mà cịn chú trọng đến tính kinh tế
của hoạt động truyền thơng. Văn hóa truyền thông giúp củng cố quyền bá chủ và
quyền lực của các nhóm chính trị, văn hóa và kinh tế cụ thể. Các nghiên cứu về văn
hóa truyền thơng cho rằng, các ý thức hệ và tư tưởng chính trị ẩn chứa trong cả lĩnh
vực giải trí của truyền thơng đại chúng, với niềm tin rằng văn hóa truyền thơng
truyền tải các ý thức hệ, củng cố các cấu trúc áp đặt của giai cấp, giới tính và chủng
tộc thơng qua đại diện phổ biến. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ
truyền thông trong xã hội đang làm thay đổi những quan niệm của con người với xã
hội và tự nhiên, trong việc tiếp nhận những tri thức mới. Tác động cả tích cực và
tiêu cực của các phương tiện truyền thông đại chúng làm thay đổi hành vi, quan
điểm, cách sống của con người trong những cộng đồng khác nhau. Chiều hướng tích
cực thể hiện ở nhận thức các giá trị tốt đẹp và thúc đẩy dân chủ lành mạnh. Chiều
hướng tiêu cực hiểu hiện ở việc thương mại hóa tin tức, quảng cáo mà khơng quan
tâm đến sự thật có thể gây hậu quả xấu cho xã hội, hay những thực hành phi đạo
đức chịu ảnh hưởng, tác động chi phối bởi các nhóm quyền lực…


8
Văn hóa truyền thơng với tư cách là một lĩnh vực học thuật liên quan đến nội
dung, hình thức, lịch sử, hiệu ứng và ý nghĩa chính trị của các phương tiện và công
nghệ khác nhau, là một phần quan trọng không thể thiếu trong xã hội hiện đại.
Năm 1974, Raymond Williams xuất bản cuốn sách: “Truyền hình: Cơng
nghệ và hình thức văn hóa” (Television: Technology and Cultural form). Nội dung
cuốn sách đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực truyền hình. Trong nghiên cứu này, Raymond
Williams khơng chỉ tiếp cận truyền hình từ góc độ cơng nghệ, kỹ thuật mà cịn đi sâu
phân tích ảnh hưởng của truyền hình với nền tảng văn hóa của đời sống xã hội hiện đại.
Cuốn sách “Phản thuyết Châu Âu là Trung tâm: Đa văn hóa và truyền thơng”

(Unthinking Eurocentrism: Multiculturalism and the Media), [1994] của Robert Stam
đưa ra những quan điểm, luận giải mang tính phê phán thuyết trung tâm châu Âu dựa
trên phân tích tác động của truyền thơng đối với đại chúng và xem truyền thông là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi văn hóa.
Cuốn “Văn hóa truyền thông” (Media Culture) [1995] của Douglas Kellner
đã đề cập đến những vấn đề văn hóa - xã hội, trên cơ sở phân tích mối liên hệ giữa
văn hóa truyền thơng với chính trị - xã hội, tác giả nhấn mạnh đến tác động của văn
hóa truyền thơng đến độc giả từ đó lan tỏa đến tồn xã hội. Các văn bản văn hóa
truyền thơng khơng chỉ là phương tiện của ý thức hệ, hay thuần túy là giải trí. Thay
vào đó, chúng là những tác phẩm phức tạp thể hiện các diễn ngơn chính trị xã hội.
Do đó, văn hóa truyền thông khiến các cá nhân tuân thủ tổ chức xã hội, nhưng nó
cũng cung cấp các nguồn lực có thể trao quyền cho các cá nhân chống lại xã hội đó.
Vì văn hóa truyền thơng được cấu thành và tạo thành động lực chính trị - xã hội lớn
hơn, nên nó phản ánh bản chất của xã hội đương đại, chính trị và cuộc sống hàng
ngày. Các cơng nghệ mới và các phương tiện truyền thông mới xuất hiện đã thay
đổi các mơ hình của cuộc sống hàng ngày. Cơng nghệ mới và máy tính đã thay thế
nhiều cơng việc và tạo ra những ngành nghề, việc làm mới, cung cấp các hình thức
truy cập thơng tin mới với nhiều sự lựa chọn hơn, nhiều khả năng tự chủ hơn về văn
hóa và nhiều cơ hội cho các can thiệp của văn hóa và ý tưởng thay thế. Các phương
tiện truyền thơng đã tác động đến văn hóa, là nền tảng cho sự phân phối và phổ biến
văn hóa. Tác giả lập luận rằng, một số văn bản truyền thơng văn hóa nâng cao các
quan điểm tư tưởng cụ thể có thể được xác định bằng cách liên quan các văn bản
với chính trị.


9
Cuốn “Văn hóa truyền thơng hậu hiện đại” (Postmodern media culture) của
Jonathan Bignell [2000], đề cập đến các tác giả như Marshall McLuhan, Fredric
Jameson, Jean Baudrillard, với ý tưởng đa dạng của họ về mối quan hệ giữa văn hóa
với truyền thơng, văn hóa truyền thơng hậu hiện đại. Mục đích là để chỉ ra rằng hậu

hiện đại là một cấu trúc rời rạc phụ thuộc vào việc trích dẫn các loại đối tượng cụ
thể, có thể là văn bản, thể chế, khán giả hoặc cách khái niệm hóa các khía cạnh khác
của văn hóa truyền thơng. Tác giả cho rằng một nền văn hóa truyền thơng hậu hiện
đại gắn với sự phát triển của cơng nghệ, hình ảnh kỹ thuật số và thực tế ảo với kết
nối máy tính; các video, hệ thống thực tế ảo và phương tiện tương tác như CDROM, trải nghiệm giải trí mới… định hình lại thói quen của khán giả. Các đối
tượng của văn hóa truyền thơng hậu hiện đại, dù được coi là văn bản, công nghệ hay
phương thức quan hệ khán giả, có chức năng là mối quan hệ giao tiếp giữa con
người, các mối quan hệ của văn hóa với quyền lực chính trị và kinh tế. Sự hội tụ của
văn bản với đồ họa, hình ảnh quang học, chuyển động và âm thanh trong các sản
phẩm đa phương tiện cho thấy khả năng của kỹ thuật số biến đổi và tích hợp các
phương tiện truyền thơng, khác biệt so với trước đây. Tác giả cũng đưa ra những dự
báo về một xã hội ngày càng bị chi phối bởi truyền thơng và thơng tin, một thế giới
trong đó các cơng nghệ và phương tiện truyền thơng mới có mặt ở khắp nơi và trong
đó con người hợp nhất với các cơng nghệ và mất quyền kiểm sốt của chính họ và
môi trường công nghệ mới của họ.
Nick Stevenson trong cuốn: "Hiểu biết về văn hóa truyền thơng, lý thuyết xã
hội và truyền thông đại chúng" (Understanding Media Culture Social Theory and
Mass Communication) [2002] đã cung cấp một cách nhìn tổng quan toàn diện mà
các lý thuyết xã hội cố gắng lý thuyết hóa tầm quan trọng của phương tiện truyền
thơng trong xã hội đương đại. Trên cơ sở đó phát triển các lý thuyết gần đây liên
quan đến phương tiện truyền thông mới và xã hội thông tin, cũng như khán giả và
lĩnh vực công cộng, những hiểu biết về văn hóa truyền thơng. Nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng, các cuộc tranh luận thường xoay quanh sự liên kết giữa truyền thông đại
chúng, dân chủ và chủ nghĩa tư bản, tầm quan trọng của một xã hội thông tin và sự
phát triển của các phương tiện truyền thông mới, sự phát triển của các cơng nghệ
mới và các hình thức văn hóa.
Tác giả cũng đặt vấn đề về sự phát triển của các phương tiện truyền thông
mới, phát triển của cơng nghệ Internet, truyền hình kỹ thuật số và không gian mạng,



10
tồn cầu hóa các nền văn hóa truyền thơng gây ra những lo ngại về sự chuyển đổi
bản sắc xuyên quốc gia, quốc tế, khu vực và địa phương.
Năm 2002, Jostenim Gripsrud xuất bản cuốn: "Hiểu biết về văn hóa
truyền thơng" (Understanding Media Culture) đã trình bày một cách khá hệ thống
về cấu trúc của hoạt động truyền thông đại chúng. Một số khía cạnh văn hóa truyền
thơng cũng được Jostenim Gripsrud bàn đến trong cơng trình này như: cơng chúng
truyền thông, phương tiện truyền thông đại chúng, ứng dụng khoa học cơng nghệ…
Tác giả cho rằng, q trình của hoạt động truyền thông đại chúng như một hiện
tượng văn hóa tổng thể. Dưới sự tác động của các yếu tố chủ quan và khách quan,
hiện tượng văn hóa này vừa là sản phẩm của mơi trường văn hóa có tính lịch sử cụ
thể, vừa tác động lên chính diện mạo của đời sống văn hóa, xã hội đó. Các nhà
nghiên cứu cũng chỉ ra những ảnh hưởng của phương tiện truyền thông và sự khác
biệt về xã hội, lối sống và khẩu vị tiếp nhận thông tin của các đối tượng khác nhau.
Phương tiện truyền thông hiện đại đã góp phần vào sự phân chia rõ rệt hơn giữa các
nhóm tuổi và các thế hệ đầu thế kỷ XX.
Cuốn “Nghiên cứu truyền thơng và văn hóa - các cơng trình tiêu biểu”
(Media and Cultural Studies-Keyworks) [2006] của Meenakshi Gigi Durham &
Douglas M.Kellner) là tập hợp những lý thuyết và phương pháp tiêu biểu hiện nay
trong nghiên cứu văn hóa, truyền thơng và xã hội; phân tích những ảnh hưởng của
truyền thơng với văn hóa đương đại. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra những cách tiếp
cận mới về văn hóa và các hiện tượng văn hóa bằng góc nhìn mới và những rào cản
tư tưởng trong văn hóa truyền thông. Những lý thuyết và phương pháp gợi mở cấu
trúc, ý nghĩa và giá trị, trào lưu tổ chức văn bản truyền thơng, cách thức truyền
thơng và văn hóa truyền thông. Các bài viết cũng gợi mở những hướng nghiên cứu
mới về truyền thơng và văn hóa truyền thơng, dự báo về sự địi hỏi những phân tích
lý thuyết mới trong nghiên cứu truyền thơng và văn hóa trong thời đại mới, đặc biệt
là tác động của công nghệ truyền thơng mới tới văn hóa và xã hội.
Cơng trình “Phương tiện truyền thơng đại chúng và sự biến đổi văn
hóa” (2010) của Triệu Dũng, giáo sư trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh, nghiên

cứu sự biến động trong đời sống văn hóa thẩm mỹ Trung Quốc thời hiện đại. Theo
tác giả, văn hóa truyền thơng là hình thức văn hóa xuất hiện sau khi văn hóa đại
chúng phát triển đến một giai đoạn mới và liên tục phát triển. Phương tiện truyền


11
thông mới đã tạo nên sự biến đổi mạnh mẽ về văn hóa, chuyển từ văn hóa thẩm mỹ
sang văn hóa tiêu dùng, từ tri thức phân tử sang tri đạo phân tử, từ văn hóa quần
chúng cách mạng đến văn hóa đại chúng thương nghiệp rồi đến văn hóa hỗn tạp của
thanh niên, từ văn hóa truyền hình học thuật đến văn hóa truyền hình vui chơi giải
trí... Sự kết hợp giữa tri thức phân tử và phương tiện truyền thông đã làm xuất hiện
loại tri thức gắn với truyền hình, làm đơn giản hóa những tư tưởng sâu sắc, những
vấn đề phức tạp.
Cùng với sự phổ biến của sách điện tử, máy tính, internet… phương thức tư
duy và hành vi sáng tác cũng thay đổi mạnh mẽ. Truyền thông kỹ thuật số ngày
càng phát triển, việc thu thập, xử lý tài liệu, đọc sách, sao chép các văn bản cũng
biến đổi rất lớn theo cả hướng tích cực và tiêu cực. Kho tàng tri thức trở nên đồ sộ,
không giới hạn về không gian do vậy khối lượng kiến thức thu được rất nhanh
chóng, tiện ích, tuy nhiên năng lực dung nạp, tiêu thụ thơng tin có hạn nên nhiều khi
biến chúng ta vơ tình trở thành “nơ lệ của thông tin”.
Theo tác giả, phương tiện truyền thông hiện đại tác động làm biến đổi văn
hóa, trong đó nguyên nhân sâu xa nhất là sự phát triển của khoa học cơng nghệ. Sự
biến đổi văn hóa do ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đại chúng không phải là
hiện tượng cá biệt của riêng một quốc gia nào, mà là hiện tượng có tính chất tồn cầu.
Khẳng định thêm cho nhận định này, cuốn sách “Điểm mới của văn hóa
truyền thơng” của tác giả Tần Chí Hy (2010), cho rằng chủ nghĩa tiêu dùng đang
lây lan nhanh chóng, chi phối, hình thành một ý thức hệ mới. Từ đó quan niệm về
giá trị và lối sống bị đảo lộn, dẫn đến có nguy cơ làm biến đổi các giá trị văn hóa
truyền thống. Theo tác giả, từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX trở lại đây, hình ảnh nhân vật
trên truyền thơng của Trung Quốc đã có sự thay đổi. Thay vào việc truyền thông tập

trung phản ánh các gương điển hình lao động sản xuất, anh hùng văn hóa như trước kia
là hình ảnh của các thần tượng tiêu dùng, như các ngôi sao điện ảnh, ca sĩ, diễn viên,
cầu thủ bóng đá, các doanh nhân nổi tiếng, các chính trị gia… Do vậy, xét về góc độ
nào đó, chức năng của truyền thơng đã thay đổi, giải trí trở thành chức năng nổi bật trên
truyền thơng. Nội dung biểu đạt giờ đây khơng cịn tập trung ở ngơn ngữ mà hình ảnh
thị giác đóng vai trò chủ đạo, với sự giúp sức của kỹ thuật và cơng nghệ.
Bài viết “Tồn cầu hóa, văn hóa truyền thông Đông Á và công chúng của
họ” (Globalization, East Asian media culture and their public) đăng trên Tạp chí


12
Truyền thông châu Á (2010) của GS. Koichi Iwabuchi, Đại học Monash, Australia
đề cập đến sự phát triển của sản xuất văn hóa truyền thơng Đơng Á và đồng sản
xuất, lưu thông và tiêu thụ truyền thông liên Á. Sự phát triển sản xuất văn hóa, lưu
thơng và kết nối trong và ngoài khu vực đã thách thức các luồng văn hóa truyền
thơng xun quốc gia khơng đồng đều, tạo nên sự phân cấp. Sự gia tăng của sản
xuất văn hóa truyền thơng châu Á và các kết nối liên châu Á khơng phục vụ lợi ích
cơng cộng ở địa phương, quốc gia và xuyên quốc gia, đặc biệt là về việc thúc đẩy
q trình tồn cầu hóa khơng đồng đều mà trong đó thị trường đã chi phối sâu sắc
sản xuất, lưu thơng và tiêu thụ văn hóa truyền thông. Tác giả cho rằng, các quốc gia
đang hỗ trợ các hoạt động của các ngành cơng nghiệp văn hóa truyền thông xuyên
quốc gia, các nhà nghiên cứu bắt buộc phải kiểm tra chặt chẽ hơn sự không đồng
đều, bất bình đẳng và bên lề trong mạng lưới văn hóa đại chúng liên châu Á và hợp
tác xuyên quốc gia với các chủ thể xã hội khác nhau để cùng phát triển theo những
cách dân chủ và đối thoại hơn.
Bàn về vấn đề các phương tiện truyền thông là tác nhân thúc đẩy tồn cầu
hóa văn hóa, trong bài viết “Tồn cầu hóa văn hóa thơng qua các phương tiện
truyền thông” (Globalization of culture through the media) (2022), Marwan M.
Kraidy, Đại học Pennsylvania, Mỹ, đã cho rằng tồn cầu hóa văn hóa gắn liền với
các phương tiện truyền thơng quốc tế. Quan điểm về tồn cầu hóa văn hóa tiếp cận

ở góc độ tồn bộ nền văn hóa thế giới đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi văn hóa
phương Tây, mà chủ yếu là Mỹ. Nhờ công nghệ truyền thông hiện đại như truyền
hình vệ tinh, internet đã tạo ra dịng chảy ổn định của hình ảnh xun quốc gia, kết
nối khán giả trên phạm vi tồn thế giới.
Các cơng trình nghiên cứu của nước ngồi về văn hóa truyền thông đã tiếp
cận ở nhiều phương diện khác nhau, là tài liệu tham khảo có giá trị, cung cấp cách
nhìn so sánh giữa các quốc gia và khu vực, giữa nước phát triển và nước đang phát
triển, kể cả các chính thể khác nhau.
Ở Việt Nam, những cơng trình nghiên cứu về văn hóa truyền thơng chưa
nhiều, vì đây cũng là một vấn đề khá mới mẻ. Cuốn sách: "Những vấn đề văn hóa
báo chí truyền thơng" (1997) của Phạm Ngọc Trung là cơng trình tập hợp các bài
viết về văn hóa, báo chí và truyền thơng. Trong đó khơng có bài viết nào đi sâu
nghiên cứu về văn hóa truyền thơng hay đề cập đến văn hóa truyền thơng như một


13
thành tố của nền văn hóa trong xã hội mà chỉ có một số nội dung nghiên cứu có liên
quan đến văn hóa, báo chí và truyền thơng, là những lĩnh vực rất rộng lớn.
Luận án tiến sĩ xã hội học của Trần Hữu Quang “Truyền thông đại chúng và
công chúng trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh” [2000], dưới góc nhìn xã hội học,
tác giả đã tiến hành khảo sát các mô thức tiếp nhận truyền thông đại chúng của các
giới cơng chúng, trong đó, nêu quan điểm về sự thay đổi trong cách quan hệ của
người dân đối với các phương tiện truyền thơng đại chúng có thể là một trong
những kênh góp phần tạo ra những mơ hình văn hóa mới và từ đó là những động lực
xã hội mới cho quá trình phát triển đất nước. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ mới tập
trung nghiên cứu mô thức tiếp nhận truyền thông đại chúng của giới cơng chúng đối
với báo in, truyền hình, đài phát thanh mà chưa đề cập đến tác động của các phương
tiện truyền thơng mới hay báo chí điện tử. Bên cạnh đó, đối tượng nghiên cứu là
thái độ đối với truyền thơng của các nhóm cơng chúng do vậy cơng trình này cũng
chưa đề cập đến văn hóa của những người làm truyền thơng.

Một số cơng trình của các tác giả chủ yếu nghiên cứu về mối quan hệ giữa
văn hóa và truyền thơng, vai trị của truyền thơng đại chúng, biến đổi văn hóa, xã
hội đang diễn ra ở Việt Nam dưới tác động của các phương tiện truyền thông, từ
những thay đổi trong tâm lý và nhận thức thẩm mỹ, kích thích khả năng sáng tạo
của mỗi cá nhân đến những thay đổi trong sinh hoạt chính trị, hoạt động kinh tế và
đời sống xã hội, khả năng lưu trữ, chia sẻ và tương tác với thông tin. Những tác
phẩm có nội dung liên quan đến vấn đề này như: "Vai trị của truyền thơng đại
chúng trong giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay" của Trần Ngọc Tăng [2001];
"Báo chí truyền thơng và kinh tế văn hóa xã hội" của Lê Thanh Bình [2005];
“Truyền thơng đại chúng và phát triển xã hội”[2008], Bài viết “Truyền thơng văn
hóa và văn hóa truyền thơng” của Nguyễn Thị Minh Thái [2015]; “Phương tiện
truyền thông xã hội với giới trẻ Việt Nam” của Lê Hải [2017]... Các nghiên cứu
chủ yếu xuất phát từ các góc độ tiếp cận đa ngành của báo chí truyền thơng, lịch sử,
triết học, văn hóa, xã hội học và mới chỉ bàn luận ở một số khía cạnh có liên quan
đến văn hóa truyền thơng.
Năm 2008, tại hội thảo "Mỹ thuật Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa"
do trường Đại học Mỹ thuật, Viện Mỹ thuật tổ chức tại Hà Nội, trong bài viết: "Ảnh
hưởng của văn hóa truyền thơng đối với mỹ cảm của giới trẻ Việt Nam hiện nay"


14
của Phạm Trung đã nhìn nhận truyền thơng như một hiện tượng văn hóa có tác động
mạnh đến mỹ cảm của giới trẻ, cụ thể là đến thị hiếu nghệ thuật của giới trẻ, nhìn nhận
những hiện tượng văn hóa đại chúng có liên hệ chặt chẽ với truyền thơng đại chúng.
Ngày nay thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như sách, báo,
phát thanh, truyền hình, báo điện tử, internet… công chúng không chỉ nhận được
các thông điệp mà xu hướng tương tác ngày càng mạnh, họ tham gia nhiều hơn vào
quá trình sáng tạo ra các sản phẩm thông tin. Cuốn sách "Phương tiện truyền thông
mới và những thay đổi văn hóa xã hội ở Việt Nam" [2008] của tác giả Bùi Hoài Sơn
nhấn mạnh đến bối cảnh phát triển khoa học công nghệ đã gia tăng sức ảnh hưởng

của công nghệ thông tin hiện đại, làm nên sức mạnh của truyền thông đại chúng. Sự
lớn mạnh của truyền thông đại chúng đã tạo nên những biến đổi về văn hóa - xã hội
sâu sắc ở mọi ngóc ngách của trái đất nơi chúng ta đang sống. Một thế giới ảo đan
xen với thế giới thực, một không gian tương tác tối đa trong mọi mối quan hệ xã
hội, các khoảng cách không gian và thời gian trở nên tương đối. Điều đó có nghĩa là
nền văn hóa hiện đại xét trên một phương diện nào đó, chính là sản phẩm của văn
hóa truyền thơng hiện đại.
Trong bài viết “Văn hóa truyền thơng trên báo chí” (Tạp chí Lý luận chính
trị, số 3-2008), Nguyễn Văn Dững cho rằng văn hóa truyền thơng trên báo chí, tức
là văn hóa giao tiếp đại chúng có một sức mạnh. Từ cách tiếp cận này cho thấy vai
trò đặc biệt quan trọng của chủ thể hoạt động báo chí trong việc hình thành văn hóa
truyền thơng. Nhà báo, nhà truyền thơng trước hết phải là nhà văn hóa. Tiếp đến là
văn hóa của cơ quan báo chí và diện mạo của sản phẩm báo chí. Nghiên cứu này đã
đánh giá được vai trị của văn hóa truyền thơng trên báo chí và chỉ ra được các
thành tố cấu thành văn hóa truyền thơng là tính văn hóa của nhà báo, cơ quan báo
chí, giá trị sản phẩm báo chí. Tuy nhiên, tác giả chưa đánh giá vị trí, vai trị của
cơng chúng và công nghệ truyền thông, những thành tố quan trọng của văn hóa
truyền thơng.
Bài viết “Phân tích xu hướng văn hóa - truyền thơng thế giới và đề xuất kiến
nghị cho Việt Nam”(2010), của Lê Thanh Bình, đã tổng kết về các xu hướng cơ bản
của văn hóa - truyền thông thế giới, tác động đến nhiều mặt đời sống thế giới đương
đại, kể cả vấn đề giao lưu văn hóa giữa các quốc gia và ngoại giao văn hóa. Tác giả
cũng phân tích về sự biến đổi của văn hóa dưới tác động của truyền thơng đại chúng


15
thời hội nhập là xuất hiện sự pha trộn, lai ghép, cải biến, hỗn dung trong văn hóa
(Hybridization Culture) và giao thoa văn hóa (Cross Culture) cùng sự tương tác
mạnh mẽ giữa các nền văn hóa và giữa văn hóa với các lĩnh vực khác. Sự tham gia
ngày càng tăng của các phương tiện truyền thông mới mẻ, đa năng, có thể ảnh

hưởng đến thói quen, lối sống của đơng đảo mọi người (đại chúng), như tác động
của các thiết bị truyền thơng di động, Internet, Blog mà cịn mang tính “tiểu chúng”
tức là văn hóa của nhóm người cùng sở thích, lợi ích, nhu cầu. Mặc dù tác giả đã chỉ
ra các chiều hướng tác động của các phương tiện truyền thơng đại chúng đối với
văn hóa và đời sống xã hội, nhưng chưa nhìn nhận văn hóa truyền thơng như một hệ
thống có ảnh hưởng lớn và tác động định hướng tư tưởng xã hội. Bên cạnh đó bài
báo cũng chưa đánh giá thực trạng văn hóa truyền thơng báo chí ở Việt Nam để từ
đó có những kiến nghị sát hợp hơn.
Cuốn sách: "Văn hóa truyền thơng trong thời kỳ hội nhập - Những bài học
kinh nghiệm cho người làm báo" (2013), gồm tập hợp 35 bài tham luận tại Hội thảo
Khoa học "Văn hóa truyền thơng trong thời kỳ hội nhập" của các nhà báo, nhà khoa
học và nhà quản lý báo chí, bước đầu đã đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa
báo chí và văn hóa; vai trị, vị trí của văn hóa truyền thơng với việc nâng cao tính
văn hóa của đội ngũ những người làm báo, vai trò của các cơ sở đào tạo nguồn nhân
lực cho ngành báo chí truyền thơng và văn hóa ứng xử với truyền thơng của cơng
chúng. Trong bài viết “Văn hóa truyền thơng và truyền thơng có văn hóa”, Hà Minh
Đức phân tích về vai trị của văn hóa truyền thơng “Báo chí truyền thơng là gương
mặt tinh thần của một quốc gia, trong đó hoạt động văn hóa truyền thơng có vị trí
quan trọng”. Bài viết “Một số vấn đề về truyền thông đại chúng, văn hóa đại chúng
và văn hóa truyền thơng trong kỷ nguyên kỹ thuật số”, Đặng Thị Thu Hương đã hệ
thống hóa các quan điểm của các trường phái nghiên cứu về truyền thông thế kỷ XX
để nhận diện mối quan hệ và tác động qua lại giữa truyền thông đại chúng, văn hóa
đại chúng và văn hóa truyền thơng; Vai trị, trách nhiệm của truyền thơng đại chúng
Việt Nam trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt trong thời kỳ hội
nhập quốc tế và tồn cầu hóa của kỷ nguyên kỹ thuật số.
Bài viết “Bàn về văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí” của Dương
Văn Thắng trong cuốn Văn hóa truyền thơng trong thời kỳ hội nhập Những bài học
kinh nghiệm cho người làm báo (2013), đã chỉ ra mối quan hệ giữa văn hóa, truyền



16
thơng và báo chí, đồng thời đưa ra quan niệm về văn hóa truyền thơng trong hoạt
động báo chí như sau: Văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí là giá trị sản
phẩm báo chí mang lại cho cơng chúng báo chí. Để đánh giá văn hóa truyền thơng
của hoạt động báo chí, tác giả đã đưa ra bốn tiêu chí bao gồm: yếu tố văn hóa của
người làm báo; giá trị văn hóa của tác phẩm báo chí khi đăng tải, phát sóng; tính
văn hóa của cơ quan báo chí; tính văn hóa của cơng chúng báo chí. Có thể nói rằng,
mặc dù khái niệm văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí mà tác giả đưa ra
chưa thực sự hồn chỉnh vì mới chỉ đề cập đến giá trị sản phẩm báo chí, tuy nhiên
bài viết của tác giả đã gợi mở bước đầu cho việc hình thành ý tưởng và hướng
nghiên cứu của nghiên cứu sinh về văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí.
Trong bài viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa báo chí” tác giả Nguyễn Duy
Hạnh, Nguyễn Tùng Lâm (Tạp chí Lý luận chính trị, số 6-2014 ) nhận định: Văn
hóa báo chí là tồn bộ những giá trị mà con người tạo ra được biểu hiện và thẩm
thấu trong hoạt động báo chí. Nó biểu hiện trong nhận thức, hành vi của các chủ thể
tham gia hoạt động báo chí và kết quả mà họ tạo ra trong hoạt động đó. Văn hóa
báo chí trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cái hay, cái đẹp, và là các giá trị bền
vững của báo chí cách mạng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người và xây dựng xã hội mới. Các tác phẩm báo chí của Hồ
Chí Minh đều thể hiện tính mẫu mực trong giáo dục, định hướng giá trị của báo chí.
Ở đây tác giả khẳng định giá trị của tác phẩm báo chí là yếu tố cốt lõi của văn hóa
truyền thơng.
Cơng trình "Văn hóa truyền thơng đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh
tế thị trường và tồn cầu hóa" (2015) của Đặng Thị Thu Hương tập trung nghiên
cứu về văn hóa truyền thơng đại chúng. Nội dung cuốn sách đã hệ thống hóa cơ sở
lý luận và phương pháp nghiên cứu về vấn đề truyền thơng đại chúng, văn hóa đại
chúng, văn hóa truyền thông đại chúng trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay. Tác
giả đã phân tích, khảo sát, tổng kết và đánh giá thực trạng, thành tựu và vai trò tác động
của văn hóa truyền thơng đại chúng đối với công chúng và xã hội Việt Nam; chỉ ra
những hạn chế của văn hóa truyền thơng đại chúng; nhận diện các cơ chế tác động của

kinh tế thị trường và tồn cầu cầu hóa tới văn hóa truyền thơng đại chúng. Đây là cơng
trình nghiên cứu cơng phu, có giá trị cả về tư liệu, phương pháp nghiên cứu và xác
định nội dung nghiên cứu. Văn hóa đại chúng và truyền thông đại chúng là đối tượng


17
nghiên cứu rộng, khi nghiên cứu tác giả tiếp cận trên cơ sở lý thuyết liên ngành và đa
ngành, do vậy khía cạnh tiếp cận từ góc độ của văn hóa học chưa khái quát được những
đặc điểm cơ bản của văn hóa truyền thơng đại chúng ở Việt Nam.
Q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng khiến đời
sống văn hóa báo chí truyền thơng có những thay đổi nhất định, nhất là tạo ra những
giá trị mới, năng suất mới, cách thức truyền thông mới do nhu cầu tiếp nhận và nhu
cầu được định hướng của cơng chúng đã có những thay đổi căn bản. Trong bài viết
“Vai trò của yếu tố văn hóa trong việc nhận diện mơi trường truyền thơng Việt Nam
thế kỷ XXI”, Phan Văn Kiền cho rằng vai trò của văn hóa như là một yếu tố dẫn
đường, mở đầu cho mọi quá trình phát triển và giao lưu, hội nhập không chỉ riêng
truyền thông. Tác giả luận giải, nếu ở thế kỷ trước, con người ta cần phải có văn
hóa để khơng bị “đói” thơng tin, khơng bị loại ra khỏi dịng chảy chung của xã hội
thì ở thế kỷ XXI này, để tồn tại trong một xã hội thơng tin, con người phải tự trang
bị cho mình tri thức và văn hóa tiếp nhận thơng tin. Tác giả đã đề cập đến một khía
cạnh của văn hóa truyền thơng đó là văn hóa của người tiếp nhận thơng tin.
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Báo chí 30 năm đổi mới, những vấn đề lý luận và
thực tiễn” (2016), có một số bài viết tiếp cận ở góc độ báo chí truyền thơng, cũng
có đề cập đến các thành tố cấu thành của văn hóa truyền thơng, như đạo đức của
nhà báo, văn hóa của cơ quan báo chí, chất lượng thơng tin trong bối cảnh truyền
thơng đa phương tiện hiện nay. Tuy nhiên các bài viết mới chỉ dừng ở góc độ
nghiên cứu báo chí do vậy chưa có những bài nghiên cứu khảo sát, đánh giá về thực
trạng văn hóa truyền thơng ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới.
Trong bài viết “Truyền thông với sự phát triển của văn hóa đại chúng”,
Đặng Thị Tuyết chỉ ra vai trị của truyền thơng đại chúng với sự phát triển văn hóa

đại chúng, nhờ truyền thơng đại chúng mà nhân loại có khả năng hưởng thụ giá trị
văn hóa do chính mình tạo ra trên khắp thế giới, con người gần gũi nhau hơn trong
tư duy, trong hoạt động và những khát vọng vươn tới chân, thiện, mỹ… “Truyền
thơng đại chúng cũng góp phần đưa văn hóa đại chúng trở nên phổ biến, truyền bá
tới mọi đối tượng, lĩnh vực hoạt động xã hội, đồng thời góp phần xây dựng các
chuẩn mực văn hóa, hồn thiện nhân cách văn hóa tồn cầu” [109, 2017, tr38-41].
Một số bài viết trong ấn phẩm Hồ sơ sự kiện - chuyên san của Tạp chí Cộng
sản số 377, ra ngày 25-6-2018 cũng đã đề cập đến mối quan hệ khăng khít giữa văn


18
hóa và truyền thơng; tác động của truyền thơng đặc biệt là các phương tiện truyền
thông mới đối với Nhà nước, cơng chúng, với nền văn hóa, kinh tế và cho rằng văn
hóa là nền tảng của truyền thơng, bên cạnh vỏ bọc ngôn ngữ, những thông điệp
được truyền thông cịn chứa đựng hàm lượng văn hóa khổng lồ. Nếu người tham gia
truyền thơng khơng có kiến thức về văn hóa trong một ngơn ngữ nhất định, họ sẽ
khơng thể trao đổi, tương tác thông tin với đối tượng truyền thơng. Văn hóa với
những dạng thức, biểu hiện vơ cùng đa dạng chính là một trong những nội dung,
chất liệu quan trọng của truyền thông. Truyền thông cung cấp kiến thức, nâng cao
văn hóa hay nói cách khác là sáng tạo và phát triển văn hóa. Tuy nhiên ở đây, các
tác giả cũng chưa chỉ rõ văn hóa truyền thơng là một chỉnh thể gồm nhiều thành tố
cấu thành mà mới chỉ phân tích được một vài khía cạnh, biểu hiện của văn hóa
truyền thơng nói chung.
Bài viết “Vai trị của truyền thông xã hội đối với mối quan hệ nhà nước – xã
hội ở Việt Nam” của Phạm Quỳnh Phương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn hóa
Việt Nam số 1(187), năm 2020, đã phân tích vai trị của truyền thông xã hội trong
sự tương tác quyền lực giữa nhà nước và người dân, tạo nên dạng thức giao tiếp mới
và cách thức vận hành quyền lực mới. Bài viết chỉ ra rằng, người dân giờ đây khơng
chỉ có năng lực phê phán, phản biện nhà nước, mà còn kiến tạo nhà nước thông qua
việc tương tác trên mạng xã hội. Ở chiều ngược lại, nhà nước một mặt vẫn duy trì

tính chất đặc trưng, mặt khác được cung cấp những công cụ mới để tăng cường
năng lực quản trị, kiểm sốt xã hội và duy trì thể chế.
Ở Việt Nam, văn hóa truyền thơng là một khái niệm tương đối mới mẻ. Nhìn
chung, việc nghiên cứu văn hóa truyền thơng được triển khai từ chiều kích nghiên
cứu vai trị và tác động của truyền thơng đại chúng. Hầu như các quan niệm về văn
hóa truyền thơng đã trình bày ở trên mới được nhìn nhận từ góc độ truyền thơng, xã
hội hội học mà chưa hoặc ít tiếp cận từ góc độ văn hóa. Ở đây, văn hóa truyền thông
được tiếp cận chủ yếu từ mối quan hệ giữa truyền thơng đại chúng và văn hóa.
Quan niệm của một số nhà nghiên cứu Việt Nam, tuy có gắn văn hóa truyền thơng
với văn hóa nói chung nhưng hầu như mới chỉ nói đến vai trị, vị trí và một số ảnh
hưởng, tác động của truyền thông mà chưa làm rõ và khẳng định văn hóa truyền
thơng là một bộ phận, một phương diện của văn hóa xã hội. Vì vậy, nhìn nhận,
nghiên cứu văn hóa truyền thơng dưới góc độ văn hóa để góp phần khỏa lấp khoảng


19
trống nêu trên là việc làm cần thiết, đồng thời lượng hóa thành những tiêu chí đánh
giá văn hóa truyền thơng và coi văn hóa truyền thơng như là một chỉnh thể gồm
nhiều yếu tố cấu thành.
1.1.2. Nghiên cứu về báo chí điện tử
Trên thế giới và ở Việt Nam, báo chí điện tử dù ngày càng được quan tâm
nghiên cứu nhưng số lượng cơng trình vẫn cịn hết sức khiêm tốn.
Trong cuốn sách “Sức mạnh của tin tức truyền thông” (The power of news)
(1996), Nhà xã hội học Michael Schudson (Mỹ), đã chỉ ra rằng báo chí truyền thơng
khơng chỉ đơn thuần cung cấp thông tin, tin tức mà phải cung cấp tư liệu cho công
chúng - những người đã có thơng tin. Ơng cũng đề cao tầm quan trọng của “báo chí
dữ liệu”; đề cập sâu đến vấn đề: cơng chúng có quyền thơng tin và được thơng
tin, mức độ cao của chất lượng truyền thông và văn hóa chính trị theo nghĩa rộng.
Trong bài báo “Sự cải tiến của những tờ báo điện tử - kết hợp in ấn và trực tuyến”
(The e-newspaper innovation - converging print and online) của tác giả Carina

Ihlström, Đại học Halmstad, Thụy Điển đã nhấn mạnh việc báo điện tử ra đời đã
cung cấp cho các cơng ty báo chí cơ hội xuất bản một số báo điện tử di động với
khả năng đọc tương tự như báo giấy. Báo điện tử hội tụ được tất cả ưu điểm của cả
báo in và trực tuyến trên mạng Internet với những ưu điểm như thiết kế quen thuộc
của ấn bản in và khả năng tương tác với người đọc, cập nhật liên tục 24/7 của trang
web. Sự ra đời của tờ báo điện tử khiến quy trình biên tập và quảng cáo ngay lập tức
cũng thay đổi và nó sẽ khơng chỉ ảnh hưởng đến nội bộ nhà truyền thơng mà cịn
ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa nhà xuất bản, người đọc, nhà quảng cáo, nhà sản
xuất thiết bị công nghệ và cung cấp cơ sở hạ tầng.
Cuốn sách “Báo mạng điện tử - Những vấn đề cơ bản” (2014) của Nguyễn
Thị Trường Giang phân tích báo điện tử là loại hình báo chí ra đời muộn hơn báo
in, phát thanh và truyền hình nên có những ưu điểm vượt trội. Báo điện tử là
phương tiện truyền thơng đại chúng có thể thực hiện được nhiệm vụ của cả đài phát
thanh, truyền hình và báo in nhờ sự kết nối với máy tính và mạng internet. Trong
cuốn sách, tác giả mơ tả q trình hình thành và phát triển của báo chí điện tử nói
chung và sự ra đời, phát triển của báo chí điện tử ở Việt Nam nói riêng; sự ra đời
của báo chí điện tử tạo nên sự đa dạng các kênh truyền thông, đặt các phương tiện
truyền thông đại chúng vào cuộc cạnh tranh quyết liệt.


×