Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng ở việt nam, những vấn đề tồn tại và giải pháp thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.31 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THAM NHŨNG.........2
1.1. Khái niệm, nguồn gốc và chủ thể của hành vi tham nhũng.........2
1.1.1. Khái niệm....................................................................................2
1.1.2. Nguồn gốc của hiện tượng tham nhũng......................................2
1.1.3. Chủ thể của tội tham nhũng.........................................................3
1.2. Thực trạng và biện pháp chống tham nhũng................................4
1.2.1. Nguyên nhân dẫn đến hành vi và phân loại tham nhũng............4
1.2.2. Các hình thức nhận diện tham nhũng..........................................6
1.2.3. Dấu hiệu nhận biết hành vi tham nhũng......................................6
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TẠI
VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI..........................................8
2.1. Thực trạng và cơng tác phịng, chống tham nhũng tại Việt Nam 8
2.1.1. Thực trạng hành vi tham nhũng tại Việt Nam.............................8
2.1.2. Thực trạng phòng chống tham nhũng tại Việt Nam....................9
2.2. Một số thành tựu và hạn chế trong công tác phòng chống tham
nhũng tại Việt Nam...............................................................................12
2.2.1. Một số thành tựu đạt được trong cơng tác phịng chống tham
nhũng tại Việt Nam.............................................................................12
2.2.2. Một số hạn chế trong cơng tác phịng chống tham nhũng tại Việt
Nam.....................................................................................................14
i


2.3. Các nguyên nhân làm gia tăng các tội phạm tham nhũng.........15
2.3.1. Tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và q trình tồn
cầu hóa, hội nhập quốc tế....................................................................15
2.3.2. Hệ thống chính sách, pháp luật ở Việt Nam thiếu đồng bộ và
nhất quán.............................................................................................16


2.3.3. Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn chưa chặt
chẽ, hiệu quả........................................................................................16
2.3.4. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn
hạn chế.................................................................................................16
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BÀI HỌC VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG
THAM NHŨNG TẠI VIỆT NAM...........................................................17
3.1. Một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn phòng chống tham
nhũng tại Việt Nam hiện nay................................................................17
3.2. Một số giải pháp.............................................................................19
3.2.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phịng,
chống tham nhũng...............................................................................19
3.2.2. Hồn thiện pháp luật về phịng, chống tham nhũng..................20
3.2.3. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước để đấu
tranh phịng, chống tham nhũng có hiệu quả......................................21
3.2.4. Xây dựng cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng độc
lập để điều tra, xử lý các hành vi tham nhũng.....................................21
3.2.5. Xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh và khơng có vùng cấm
đối với các hành vi tham nhũng..........................................................22
3.2.6. Đổi mới chế độ tiền lương và các chính sách đãi ngộ cho cán
bộ, cơng chức, viên chức nhà nước.....................................................22
ii


KẾT LUẬN....................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................24

iii


MỞ ĐẦU

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhận
định bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, trong đó tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi, còn diễn biến
phức tạp, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và
toàn dân thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các biện pháp phòng, chống
tham nhũng.
Sau gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ một đất nước nghèo
nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình
độ thấp, đến nay, nước ta đã vươn lên trở thành nước đang phát triển có thu
nhập trung bình; văn hóa, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị có bước đột phá; khối đại đồn kết tồn dân tộc khơng ngừng được củng
cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phịng - an ninh, độc lập, chủ quyền được
giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nước ta vẫn phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn
tồn tại, như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực
và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hịa bình” của thế lực thù địch nhằm
chống phá nước ta; khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng
tăng; tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức, tệ quan liêu, lãng phí… và nhất là tình trạng tham
nhũng với nhiều diễn biến phức tạp, đã và đang làm giảm lòng tin của cán bộ,
đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Do đó, qua q trình học tập
và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “Thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng
1



ở Việt Nam, những vấn đề tồn tại và giải pháp thực hiện” để có cái nhìn
sâu và rộng hơn
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm, nguồn gốc và chủ thể của hành vi tham nhũng
1.1.1. Khái niệm
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI),
tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy
của dân. Tham ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham
nhũng và tham ô là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý
kinh tế - xã hội lỏng lẻo tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện
tượng tham nhũng và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần
quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế.
Tham nhũng và tham ô làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội, làm
giảm lịng tin của cơng dân vào nhà nước và đến chừng mực nào đó nó gây
mất ổn định chính trị, kinh tế - xã hội.
1.1.2. Nguồn gốc của hiện tượng tham nhũng
Tham nhũng xuất hiện từ rất sớm từ khi có sự phân chia quyền lực và
hình thành nhà nước. Có ý kiến cho rằng tham nhũng, tham ơ bắt nguồn từ
nền văn hóa độc tài đề cao cá nhân, coi trọng biếu xén. Ý kiến khác cho rằng
xã hội thay đổi các chuẩn mực về đạo đức, xã hội biến đổi liên tục, nền kinh
tế biến đổi mạnh sinh ra tham nhũng tham ô.
Tham nhũng và tham ô thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có nền
kinh tế kém phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân đầu người thấp. Tại
các nước này con người thường có ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng ngũ
lãnh đạo để tham nhũng. Đối với một số nước kinh tế phát triển, có mức thu

2



nhập bình qn đầu người cao, các cá nhân có sở hữu tài sản lớn mới bắt đầu
tham gia chính trường để làm lãnh đạo.
1.1.3. Chủ thể của tội tham nhũng
Chủ thể thực hiện tội phạm tham nhũng không chỉ trong khu vực Nhà
nước, những người có chức vụ trong khi thực hiện cơng vụ mà cịn mở rộng
sang khu vực ngoài Nhà nước. Những người này bao gồm: cán bộ, công chức
làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, cơ quan đơn
vị quân đội nhân dân, cơ quan đơn vị công an nhân dân. Cán bộ lãnh đạo,
quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp, cán bộ xã, phường, thị trấn.

Tội phạm về chức vụ ở khu vực ngoài Nhà nước áp dụng đối với 4 tội
danh là: “Tội tham ô tài sản”, “Tội nhận hối lộ”, “Tội môi giới hối lộ” và “Tội
đưa hối lộ”. Trong đó, tội danh tham nhũng có hai tội là: “Tội tham ơ tài sản”
quy định tại khoản 6, Điều 353 và “Tội nhận hối lộ” quy định tại khoản 6,
Điều 354. Luật này cũng bổ sung việc xử lý hình sự đối với hành vi hối lộ
cơng chức nước ngồi, cơng chức các tổ chức quốc tế công. Đồng thời mở
rộng nội hàm "của hối lộ" cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Theo quy định của BLHS năm 1999, "của hối lộ" chỉ bao gồm tiền,
tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá được bằng tiền. BLHS năm 2015 đã
bổ sung “lợi ích phi vật chất” vào các cấu thành định tội đối với tội nhận hối
lộ, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục
lợi.

Hành vi đưa hối lộ được quy định cụ thể hơn: “Người nào trực tiếp hay
qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc
người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ,

3



quyền hạn làm hoặc khơng làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của
người đưa hối lộ” (Điều 354, khoản 1).

Luật mới bổ sung cấu thành tăng nặng định khung hình phạt đối với
một số tội, quy định cụ thể các tình tiết định tội, định khung hình phạt. Ví dụ
như Điều 353 tội tham ơ tài sản, bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung
trách nhiệm hình sự: Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói,
giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có cơng với cách
mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho
những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn;
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội...
1.2. Thực trạng và biện pháp chống tham nhũng
1.2.1. Nguyên nhân dẫn đến hành vi và phân loại tham nhũng
Hiện nay, tham nhũng là vấn đề mang tính tồn cầu nhưng đồng thời nó
cũng chứa đựng những yếu tố đặc thù gắn với từng quốc gia. Về cơ bản mỗi
quốc gia có những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng riêng. Tuy
nhiên, dựa trên cơ sở xem xét nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng
của các nước trên thế giới, thấy rằng tuy có điểm riêng nhưng cũng có một số
nguyên nhân, điều kiện mang tính chất chung, tương đồng, đó là:
Sự phát triển của các hình thái Nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế, chính trị tạo ra tiền đề khách
quan cho tham nhũng nảy sinh, phát triển. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là sự gặp nhau của hai
nhân tố: Quyền lực công và lịng tham cá nhân.
Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước trước hết đại diện cho quyền lực
của một giai cấp nhất định, nó có chức năng điều hịa những lợi ích của các
giai cấp khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Quyền lực của Nhà nước khi được
4


trao cho những con người cụ thể, những người đại diện cho Nhà nước thực thi

quyền lực công, nếu không có cơ chế kiểm sốt dễ dẫn tới sự lợi dụng quyền
lực hoặc lạm quyền. Sự gặp nhau giữa quyền lực công khi không được chế
ước với nhu cầu cá nhân vượt quá giới hạn cho phép, lòng tham, đã dẫn tới
việc sử dụng quyền lực công phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Đó chính là cơ sở
nảy sinh tham nhũng. Tham nhũng còn được coi là “sản phẩm của sự tha hóa
quyền lực”.
Tham nhũng là hệ quả tất yếu của của nền kinh tế kém phát triển, quản
lý kinh tế, xã hội lỏng lẻo, yếu kém. Thực tế cho thấy ở các quốc gia có nền
kinh tế phát triển, quản lý cơng khai, minh bạch, văn minh thì tham nhũng
xảy ra ít hơn. Ngược lại, ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển, trình
độ quản lý và dân trí chưa cao thì ở đó tham nhũng phức tạp hơn.
Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ hoặc thực thi pháp luật
yếu kém cũng là một nguyên nhân và điều kiện của tham nhũng. Cơ chế,
chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán có nhiều
“kẽ hỡ” tạo cho những người có chức vụ, quyền hạn, điều kiện để “lách luật”
trục lợi, làm giàu bất chính.
Phẩm chất chính trị đạo đức của đội ngũ có chức, có quyền bị suy thối
đặc biệt là suy thối tư tưởng chính trị. Họ sẵn sàng bỏ qua lợi ích chung, lợi
ích tập thể để trục lợi, làm giàu bất chính cho bản thân, gia đình, họ hàng
mình; nhất là trong điều kiện khủng hoảng chính trị, xã hội, kinh tế ảnh hưởng
tiêu cực tới đạo đức của đội ngũ cơng chức.
Trình độ dân trí thấp, ý thức pháp luật của người dân chưa cao tạo điều
kiện cho những người có chức quyền có thể nhũng nhiễu, hạch sách dân
chúng, vòi vĩnh nhận quà biếu, tặng hay nói cách khác là nhận hối lộ. Thực tế
ở các nước phát triển có trình độ dân trí cao thì tham nhũng ít xảy ra hơn là

5


những nước đang phát triển và kém phát triển với trình độ dân trí thấp, người

dân chưa có điều kiện tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Bộ máy hành chính nhà nước cồng kềnh, với nhiều thủ tục hành chính
phiền hà, nặng nề, bất hợp lý tạo điều kiện cho một số cán bộ, công chức nhà
nước sách nhiễu, ăn hối lộ của người dân, doanh nghiệp. Một số cơ chế “xin cho”, đó là “mảnh đất màu mỡ” của tham nhũng.
Chế độ, chính sách đãi ngộ, nhất là vấn đề tiền lương cho cán bộ, công
chức chưa thỏa đáng. Một khi cán bộ, công chức Nhà nước chưa thể sống no
ấm, đầy đủ với tiền lương của mình thì tất yếu họ sẽ tìm mọi cách để kiếm
thêm thu nhập từ chính cơng việc, chức vụ mà nhà Nước giao cho mình kể cả
tham nhũng.
1.2.2. Các hình thức nhận diện tham nhũng
Tham nhũng vật chất, là dạng tham nhũng nhằm thỏa mãn những nhu
cầu vật chất của cá nhân như tiền bạc, tài sản.
Tham nhũng quyền lực, là dạng tham nhũng mà người tham nhũng lợi
dụng quyền lực cá nhân để đưa những người thân tín vào bộ máy cơng quyền
cũng như vào các tổ chức chính trị, xã hội, đơn vị kinh tế, tài chính... vì động
cơ vụ lợi.
Tham nhũng chính trị, là dạng tham nhũng được hình thành do sự câu
kết giữa những người có ảnh hưởng trong hệ thống chính trị, chủ yếu là
những quan chức cấp cao trong bộ máy cầm quyền, nhằm tạo ra những quyết
định, hay tìm cách tác động thiên lệch vào những quyết sách của Nhà nước có
lợi cho một cá nhân, doanh nghiệp hoặc những nhóm lợi ích nào đó.
Tham nhũng hành chin, là dạng tham nhũng xảy ra phổ biến trong các
hoạt động quản lý hành chính của đội ngũ cơng chức hành chính. Ở đó những
người được giao quyền đã sử dụng quyền lực hành chính, trình tự thủ tục
6


hành chính để gây khó khăn cho cơng dân hoặc tổ chức nhằm trục lợi cho bản
thân.
Tham nhũng kinh tế, là dạng tham nhũng xảy ra trong hoạt động quản

lý kinh tế, như: Sản xuất kinh doanh, dịch vụ, mua sắm tài sản công, quản lý
tài sản…được thực hiện bởi những người có thẩm quyền trong quản lý Nhà
nước về kinh tế, những người có thẩm quyền trong doanh nghiệp Nhà nước.
1.2.3. Dấu hiệu nhận biết hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng phải bao gồm đồng thời ba dấu hiệu đặc trưng sau:
Thứ nhất, tham nhũng phải được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn. Luật Phịng, chống tham nhũng quy định 4 nhóm người có chức
vụ, quyền hạn bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sỹ quan, qn nhân
chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
Nhân dân, sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người
đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; Người được giao thực
hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ
đó; Ngồi ra, theo Bộ luật Hình sự 2015, chủ thể của các hành vi tham ô tài
sản, nhận hối lộ cịn có thể là người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.
Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng, lạm dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao. Sự lợi dụng, lạm
dụng thông qua: (1) hoặc là chức năng chính quyền; (2) hoặc là chức năng tổ
chức, lãnh đạo; (3) hoặc là chức năng hành chính, kinh tế theo nhiệm vụ, cơng
vụ được giao; (4) hoặc theo thẩm quyền chun mơn mà người đó đảm nhận.
Thứ ba, người thực hiện hành vi tham nhũng phải có mục đích, động cơ
vụ lợi (vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt
7


được hoặc có thể đạt được thơng qua hành vi tham nhũng). Đây là dấu hiệu
bắt buộc phải có để phân biệt hành vi tham nhũng với những hành vi vi phạm
pháp luật khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.
Nếu thiếu một trong ba dấu hiệu đặc trưng trên thì khơng bị coi là hành

vi tham nhũng mà bị coi là hành vi vi phạm pháp luật khác.

8


CHƯƠNG II: THỰC TIỄN PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI
2.1. Thực trạng và công tác phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam
2.1.1. Thực trạng hành vi tham nhũng tại Việt Nam
Thời gian qua, không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có
chức, có quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng,
tiêu cực vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ
luật của Đảng, hành chính của Nhà nước và xử lý hình sự. Tổng kết cơng tác
xây dựng Đảng của nhiệm kỳ XII, Đại hội XIII đã chỉ ra: “Một bộ phận cán
bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thối về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn
còn diễn biến phức tạp”.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Ban Chỉ đạo Trung
ương về PCTN, tiêu cực, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ
đạo, cơng tác PCTN, tiêu cực đã được đẩy mạnh, có nhiều điểm đột phá.
Thậm chí, có thể khẳng định, một trong những thành tựu nổi bật nhất trong
nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng là công tác PCTN; công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị đã đạt được nhiều kết quả tích cực, có sự thay
đổi rõ rệt về chất. Đánh giá về cơng tác PCTN, lãng phí, Đại hội XIII của
Đảng đã nhận định: “Công tác đấu tranh PCTN được lãnh đạo, chỉ đạo và
thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất
cao, khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ và đạt được nhiều kết quả rất
quan trọng, rõ rệt, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ,
đánh giá cao và quốc tế ghi nhận. Tham nhũng từng bước được kiềm chế,
ngăn chặn, có chiều hướng thuyên giảm”.

Tổng kết về công tác PCTN, tiêu cực trong nhiệm kỳ Đại hội XII của
Đảng cho thấy, có đến hơn 87 nghìn đảng viên bị kỷ luật, trong đó vi phạm
chủ yếu là nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc, những điều
9


đảng viên không được làm, tham nhũng, tiêu cực, buông lỏng lãnh đạo, cố ý
làm trái. Kết quả cũng cho thấy, có đến 113 cán bộ cao cấp diện Trung ương
quản lý bị kỷ luật (tăng hơn 10 lần so với nhiệm kỳ Đại hội XI - chỉ xử lý 11
trường hợp cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý). Thanh tra Chính phủ và
thanh tra chuyên ngành đã chuyển cơ quan điều tra xem xét, xử lý gần 450 vụ,
hơn 600 đối tượng. Kiểm toán nhà nước đã chuyển gần 20 vụ việc có dấu hiệu
tội phạm sang cơ quan điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật. Từ năm
2013-2020, các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và địa phương đã khởi
tố, điều tra 14.300 vụ/24.410 bị can, xét xử sơ thẩm hơn 11.700 vụ/22.600 bị
cáo về tham nhũng, kinh tế, chức vụ. Riêng Ban Chỉ đạo đã đưa hơn 800 vụ
án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan
tâm vào diện theo dõi, chỉ đạo.
2.1.2. Thực trạng phòng chống tham nhũng tại Việt Nam
Theo số liệu do Tổ chức Minh bạch thế giới (TI) công bố, Chỉ số cảm
nhận tham nhũng (CPI) của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng lên,
thể hiện một chỉ báo tích cực đối với các nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta
trong cơng tác phịng, chống tham nhũng (PCTN). Cụ thể, năm 2018, Việt
Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180 toàn cầu. Trong năm 2018, Đảng và
Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đẩy mạnh cơng tác PCTN, điển hình là việc
nhanh chóng, kiên quyết xử lý các vụ án tham nhũng lớn và hồn thiện khn
khổ pháp lý về PCTN. Tháng 11/2018, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng,
chống tham nhũng (sửa đổi) gồm 10 chương với 96 điều. Chính phủ đã chỉ
đạo tăng cường kiểm tra và tổ chức thực hiện nghiêm các biện pháp PCTN
như: đề cao tính liêm chính trong khu vực cơng, thực hiện hiệu quả công tác

kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, cơng chức... Vì vậy, chỉ số
CPI của Việt Nam năm 2019 đạt 37/100 điểm, tăng 4 điểm so với năm 2018,
đứng thứ 96/180 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng toàn cầu, tăng
21 bậc so với năm 2018. Đây là mức điểm cao nhất mà Tổ chức Minh bạch
10


thế giới đánh giá đối với Việt Nam và là năm có mức tăng điểm cao nhất từ
trước đến nay; cũng là sự khẳng định những kết quả tích cực trong công tác
PCTN ở Việt Nam.

Những kết quả nêu trên thể hiện quyết tâm chính trị cùng với những
hành động quyết liệt, thực hiện những giải pháp hiệu quả của Đảng và Nhà
nước, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương trong công tác
PCTN. Cụ thể, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được
thành lập “với mong muốn đẩy mạnh cơng tác phịng, chống tham nhũng
thêm một bước”. Trong nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, có 56.572 đảng
viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có 16.259 cấp ủy viên các cấp. Ủy ban Kiểm
tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra 13 tổ chức đảng và 33 đảng viên. Qua
kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có khuyết điểm, vi phạm,
trong đó đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách 3 tổ chức đảng,
thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7, cảnh cáo 6). Ủy ban kiểm tra các
địa phương, đơn vị đã kiểm tra 15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng viên,
trong đó số tổ chức đảng có vi phạm là 10.478, phải thi hành kỷ luật 791 tổ
chức đảng; số đảng viên có vi phạm là 42.757, trong đó phải thi hành kỷ luật
20.344 trường hợp. 

11



Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đến cuối năm
2018, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 45
nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và phòng, chống tham nhũng; Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
thông qua, ban hành 45 luật, pháp lệnh, 46 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành
511 nghị định, 413 nghị quyết, 160 quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phịng
ngừa tiêu cực, tham nhũng; đã thi hành kỷ luật 53.306 đảng viên với hơn 60
cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 16 Ủy viên Trung ương
Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính
trị.
Trong năm 2019, cơng tác PCTN đã có bước tiến mạnh mẽ với nhiều
chủ trương, giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, do đó tham nhũng được kiềm
chế, từng bước ngăn chặn và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần quan
trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín và
vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Nổi bật là đẩy mạnh việc xây dựng,
hoàn thiện thể chế trên các lĩnh vực đời sống: “Cụ thể là Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành gần 30 văn bản về xây dựng Đảng, hệ
thống chính trị và PCTN. Quốc hội đã thơng qua 18 luật, 20 nghị quyết;
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 100 nghị định, 119 nghị quyết,
37 quyết định, 33 chỉ thị. Như vậy, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần
thứ XII đến nay, đã thi hành kỷ luật hơn 90 cán bộ thuộc diện Trung ương
quản lý, trong đó có 21 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng (2 Ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng trong lực
lượng vũ trang”. Những tháng đầu năm 2020, Ban Chỉ đạo Trung ương về
PCTN yêu cầu tập trung đưa ra xét xử sơ thẩm 10 vụ án nghiêm trọng, phức
tạp được dư luận xã hội quan tâm.

12



Có thể khẳng định rằng, cơng tác PCTN ở Việt Nam đã đạt được những
kết quả đáng ghi nhận; nạn tham nhũng đã bị ngăn chặn, đẩy lùi; niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được nâng lên.
Có thể khái quát một số đặc điểm của công tác PCTN ở Việt Nam như sau: 
- Khơng có vùng cấm, khơng có đặc quyền, khơng có ngoại lệ, khơng
chịu sự tác động khơng đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào;
- Làm từng bước, rõ đến đâu xử lý đến đó; 
- Nhân dân và cả hệ thống chính trị vào cuộc; 
- Nhân văn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; 
- Lấy phịng ngừa là chính, cơ bản, phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp
bách.
Bên cạnh kết quả đạt được, cơng tác PCTN ở Việt Nam vẫn cịn một số
hạn chế như: công tác tuyên truyền, giáo dục về PCTN hiệu quả chưa cao,
hiện tượng phải hối lộ, bôi trơn hoặc tác động bằng hình thức khác để được
thuận lợi hơn trong giải quyết cơng việc cịn phổ biến; một số cơ chế, chính
sách cịn thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn; thực thi pháp luật có lúc,
có nơi chưa nghiêm. Công tác tổ chức, cán bộ, kiểm sốt tài sản, thu nhập cịn
nhiều hạn chế, vướng mắc; vấn đề phát hiện, xử lý tham nhũng chưa đáp ứng
yêu cầu, nhất là tự phát hiện, xử lý tham nhũng trong nội bộ...

13


2.2. Một số thành tựu và hạn chế trong công tác phòng chống tham
nhũng tại Việt Nam
2.2.1. Một số thành tựu đạt được trong cơng tác phịng chống tham nhũng tại
Việt Nam
Thực hiện đường lối, chủ trương về phòng, chống tham nhũng trong
các văn kiện Đại hội XI, XII và XIII của Đảng, trong những năm qua, công

tác này đã đạt được những thành quả to lớn như ban hành một số văn bản quy
phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, như: Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2012, Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2018… Những văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo cơ sở
pháp lý vững chắc cho việc phịng, chống tham nhũng và góp phần rất to lớn
vào cơng cuộc phịng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
Để phịng, chống tham nhũng, Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân các
cấp và các cơ quan nhà nước khác đã thực hiện công khai, minh bạch trong
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Xây dựng và thực hiện các chế độ,
định mức, tiêu chuẩn. Thực hiện các biện pháp về minh bạch tài sản, thu nhập
của cán bộ, công chức. Đổi mới khoa học công nghệ quản lý và phương thức
thanh tốn khơng dùng tiền mặt nhằm phịng ngừa tham nhũng. Cơng tác
tun truyền, phổ biến, giáo dục đấu tranh phòng, chống tham nhũng với
nhiều hình thức phong phú. Đặc biệt, Ban Chỉ đạo Phịng, chống tham nhũng
Trung ương, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cùng với
Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo
quyết liệt nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, đưa ra xét
xử nghiêm minh theo đúng các quy định của pháp luật, được dư luận xã hội
đồng tình ủng hộ, đánh giá cao.
Theo báo cáo tại Hội nghị tồn quốc tổng kết cơng tác phịng, chống
tham nhũng giai đoạn 2013-2020, đã xử lý kỷ luật 131.000 đảng viên, trong
đó có nhiều trường hợp liên quan đến tham nhũng.
14


Khởi tố, điều tra truy tố xem xét hơn 1.900 vụ án tham nhũng với 4.400
bị cáo trong đó có 18 cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý hình sự, trong
đó có: 1 Ủy viên Bộ Chính trị, 7 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng,
4 Bộ trưởng và nguyên Bộ trưởng, 7 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ
trang.

Các cơ quan có thẩm quyền đã kiến nghị thu hồi 700.000 tỉ đồng,
20.000 ha đất, kiến nghị xử lý trách nhiệm 14.000 tập thể và cá nhân; chuyển
cơ quan điều tra xử lý 700 vụ việc có dấu hiệu tội phạm; tỷ lệ thu hồi tài sản
tham nhũng đạt 32,04%.
Từ năm 2016 đến năm 2020, đã kỷ luật 87.000 đảng viên trong đó có
hơn 3.200 trường hợp liên quan tới tham nhũng.
2.2.2. Một số hạn chế trong cơng tác phịng chống tham nhũng tại Việt Nam
Bên cạnh những thành tựu đạt được cơng tác phịng, chống tham
nhũng, vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế. Hệ thống pháp luật về phòng,
chống tham nhũng cịn có một số quy định chưa phù hợp, tính khả thi thấp,
hoặc cịn có "lỗ hổng", nhưng chưa được sửa đổi bổ sung; hoàn thiện kịp thời
để làm cơ sở pháp lý cho việc phòng, chống tham nhũng. Hiện nay, quyền
tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp chưa được bảo đảm đầy đủ.
Một số cán bộ, công chức lợi dụng quy định về bí mật nhà nước để che giấu
thơng tin, nhằm mục đích tham nhũng.
Việc kê khai tài sản, thu nhập cịn nặng về hình thức; hầu hết các bản
kê khai chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng; chưa giúp cho các cơ
quan chức năng kiểm soát được những biến động về tài sản của người có chức
vụ, quyền hạn; nhiều cơ quan, đơn vị chưa nắm đầy đủ trình tự, thủ tục kê
khai và cơng khai giải trình.

15


Một số người đứng đầu chưa nêu cao vai trò của mình trong phịng,
chống tham nhũng, số người bị xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng ở
các cơ quan, đơn vị cịn ít so với số vụ việc tham nhũng được phát hiện.
Việc xử lý tham nhũng trong nhiều trường hợp còn chưa nghiêm, chưa
kịp thời. Hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp, vì vậy việc phát
hiện và xử lý tham nhũng gặp nhiều khó khăn. Hành vi “tham nhũng vặt” của

một số cán bộ, công chức chưa bị xử lý một cách triệt để.
Việc xử lý và thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng cịn gặp rất
nhiều khó khăn do một số nguyên nhân như: bị can, bị cáo trốn ra nước ngoài,
hoặc bị can, bị cáo chết, hoặc chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của xã
hội nên tài sản có nguồn gốc tham nhũng dễ dàng bị tẩu tán. Do đó, một số vụ
án tiền, tài sản tham nhũng thu hồi được nhỏ hơn nhiều so với tổng số thiệt
hại do các đối tượng chiếm đoạt.
2.3. Các nguyên nhân làm gia tăng các tội phạm tham nhũng
2.3.1. Tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và q trình tồn cầu hóa,
hội nhập quốc tế
Sau năm 1986, Đảng ta nhận thức rõ nền kinh tế hàng hóa có nhiều
mặt tích cực cần vận dụng trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Tổng kết thực
tiễn hơn 35 năm tiến hành đổi mới, lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đạt được, mặt trái của nền kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rõ như: Ảnh
hưởng tiêu cực đến đạo đức, văn hóa, xã hội; phân hóa giàu nghèo; cạnh tranh
khơng lành mạnh; ơ nhiễm môi trường và phát sinh tội phạm, tệ nạn xã hội...
trong đó có vấn nạn tham ơ, tham nhũng. Các quy luật kinh tế, cạnh tranh, đặc
biệt là quy luật giá trị không chỉ tác động đến kinh tế mà cịn tác động đến tư
tưởng, tình cảm, kích thích sự quan tâm của con người đến lợi ích vật chất.
Trong điều kiện đó, một số người quá đề cao các yếu tố vật chất đã hình
thành, phát triển lối sống thực dụng, bỏ qua những giá trị, chuẩn mực đạo
16


đức, nhân cách con người, văn hóa xã hội. Một số người vì những mục tiêu cá
nhân, để làm giàu, kiếm tiền đã dùng mọi thủ đoạn, trong đó có tham ô, hối
lộ, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản
của Nhà nước. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, dưới sự tác động của q
trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển nhanh chóng của khoa

học, cơng nghệ đã tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi để các đối tượng lợi
dụng thực hiện hành vi tham nhũng, che dấu, chuyển hóa, tẩu tán tài sản tham
nhũng như: Lợi dụng cơ chế, chính sách ứng dụng khoa học, công nghệ, thu
hút đầu tư; chuyển tài sản ra nước ngoài, mua tiền kỹ thuật số, tiền điện tử;
mua quốc tịch nước ngồi... gây khó khăn cho cơng tác điều tra, phát hiện, thu
thập, thu hồi các tài sản trong các vụ án tham nhũng.
2.3.2. Hệ thống chính sách, pháp luật ở Việt Nam thiếu đồng bộ và nhất quán
Thể chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn
còn bất cập, chưa giải quyết triệt để những vấn đề thực tiễn đặt ta; tính cơng
khai, minh bạch trong một số lĩnh vực kinh tế cịn hạn chế, chưa xóa bỏ được
cơ chế “xin, cho”, là điều kiện dẫn đến tham nhũng. Pháp luật là công cụ
mạnh nhất để ngăn chặn tham nhũng, song chế tài xử lý chưa đủ mạnh để đủ
sức răn đe, pháp luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém để
các đối tượng lợi dụng để tham nhũng. Các thủ tục hành chính cịn rườm rà,
chưa số hóa, tự động hóa; cơ chế quản lý tài sản, minh bạch tài sản chưa hiệu
quả và chặt chẽ tạo kẽ hở cho các cán bộ, viên chức tham nhũng.
2.3.3. Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực cịn chưa chặt chẽ,
hiệu quả
Cơ chế, chính sách quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội vẫn cịn những hạn chế, thiếu sót để các đối tượng lợi dụng thực
hiện hành vi tham nhũng, đặc biệt trên các lĩnh vực: Quản lý ngân sách, vốn,
tài sản nhà nước, quản lý đất đai, đầu tư xây dựng , tổ chức - cán bộ, tín dụng,
ngân hàng, y tế, giáo dục... cịn một số kẽ hở để các đối tượng lợi dụng phạm
17



×