Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Thực hiện công bằng xã hội và kiềm chế sự gia tăng bất bình đẳng xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.93 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CÔNG BẰNG XÃ
HỘI VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI........................................................2
1.1. Lý luận về cơng bằng xã hội............................................................2
1.2.1. Khái niệm chung.........................................................................2
1.2.2. Quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam:..................................3
1.2. Lý luận về bất bình đẳng xã hội......................................................4
1.2.1. Khái niệm....................................................................................4
1.2.2. Nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội.......................................5
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG VÀ KIỀM
CHẾ BẬT BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM................................6
2.1. Thực trạng bất bình đẳng xã hội tại Việt Nam..............................6
2.1.1. Thực trạng bình đẳng trong Phân phối thu nhập.........................6
2.1.2. Thực trạng bình đẳng trong Vấn đề phát triển con người...........7
2.1.3. Thực trạng bình đẳng trong Tiếp cận các dịch vụ cơng..............8
2.2. Nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội tại Việt Nam...................9
2.2.1. Khác biệt đáng kể về điều kiện kinh tế theo các nhóm dân tộc và
vùng, miền.............................................................................................9
2.2.2. Bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục.......................................10
2.2.3. Hệ thống và mạng lưới dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe phân bố
khơng đồng đều...................................................................................10
2.2.4. Việc phân bổ ngân sách ở Việt Nam còn những điểm bất hợp lý.
.............................................................................................................11
i


CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHÍNH SÁCH NHẰM TĂNG CƯỜNG
CƠNG BẰNG VÀ GIẢI QUYẾT BẤT BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM...........................................................................................................12


3.1. Phân bổ nguồn lực công một cách hiệu quả, hợp lý, minh bạch
và có trách nhiệm giải trình cao...........................................................12
3.2. Xây dựng hệ thống tài chính bao trùm.........................................12
3.3. Cải cách hệ thống giáo dục hợp lý, thích ứng với cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư..........................................................................13
3.4. Cải thiện chất lượng nguồn lao động, thúc đẩy việc làm, nâng
cao năng suất lao động quốc gia...........................................................14
3.5. Xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội hiện đại..................................15
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................17

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo trong hơn 35 năm qua đã mang lại cho đất nước ta những thành quả có ý
nghĩa to lớn trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu chúng ta
đã đạt được thì hàng loạt vấn đề tiêu cực nảy sinh: chất lượng tăng trưởng
kinh tế chưa cao, chưa bền vững; hiệu quả kinh tế không tỷ lệ thuận với tăng
trưởng; đạo đức xã hội có biểu hiện suy thối, tệ nạn và tội phạm xã hội diễn
ra rất phức tạp; mơi trường sinh thái đang bị ơ nhiễm; tình trạng bất bình
đẳng, phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo giữa các miền, vùng, thậm chí
ngay trên cùng một địa bàn dân cư khá gay gắt. Đặc biệt, vấn đề công bằng xã
hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường đang đòi hỏi phải được lý giải
rõ về mặt lý luận và phải hiện thực hoá trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Để sớm thực hiện thành công mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta cần phải quán triệt tốt quan điểm chỉ
đạo của Đảng: Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội

đồng thời hạn chế bất bình đẳng ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển. Mỗi bước tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với quá trình nâng cao
đời sống nhân dân, xây dựng đời sống xã hội lành mạnh. Do đó, sự kết hợp
giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội và hạn chế bất bình
đẳng đang là bài tốn xã hội và chính trị khó đặt ra cho con đường phát triển ở
nước ta. Nội dung này luôn được xem là vấn đề thời sự cấp bách trong suốt
thời kỳ quá độ. Vì vậy, trong quá trình học tập và nghiên cứu, tác giả đã lựa
chọn đề tài” Thực hiện công bằng xã hội và kiềm chế sự gia tăng bất bình
đẳng xã hội trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay” để nâng tầm hiểu biết về lý luận cũng như thực tế.

1


2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CƠNG BẰNG
XÃ HỘI VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI
1.1. Lý luận về công bằng xã hội
1.2.1. Khái niệm chung
Cơng bằng xã hội là một khái niệm mang tính lịch sử, bị quy định bởi
hồn cảnh cụ thể. Có thể nói, mỗi xã hột đều có chuẩn mực riêng của mình về
cơng bằng xã hội, do hồn cảnh lịch sử cụ thể ở đó quy định. Bàn về sự khác
biệt giữa bình đẳng xã hội và cơng bằng xã hội, trong tác phẩm Phê phán
cương lĩnh Gô-ta, Mác vạch rõ: trong xã hội XHCN ''mỗi một người sản xuất
nhận được trở lại vừa đúng cái mà anh ta đã cung cấp cho xã hội''. Đó là
ngun tắc cơng bằng; tuy nhiên, trong điều kiện của CNXH, công bằng xã
hội khơng đồng nhất với bình đẳng xã hội, nghĩa là bình đẳng khơng phải là

ngang bằng nhau về mọi phương diện. Phải chấp nhận tình trạng bất bình
đẳng ở một giới hạn nhất định đối với mọi thành viên trong xã hội.
1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh,
+ Quan niệm của Hồ Chí Minh: cơng bằng xã hội là mối quan hệ giữa
thực hiện nghĩa vụ và việc hưởng quyền lợi tương ứng. Điều trước tiên là phải
tạo được sự bình đẳng cho mọi cá nhân khi cống hiến. Có nghĩa là ai có khả
năng bao nhiêu thì có thể tham gia đóng góp và được hưởng thành quả tương
xứng từ chính sự đóng góp ấy.
Người cho rằng: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai khơng
làm thì khơng ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”1
. Đây chính là bản chất nhân văn truyền thống dân tộc và tính nhân ái
vơ sản. Cơng bằng xã hội có thể thực hiện ngay cả những lúc nền kinh tế khó
khăn, càng khó khăn thì càng phải cơng bằng.
3


1.2.2. Quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam:
Trong thời kỳ trước 1986, về mặt lý luận Đảng ta xác định phân phối
công bằng là chủ yếu theo lao động trong nền kinh tế duy nhất hai thành phần
là quốc doanh và tập thể. Các thành phần kinh tế khác mặc dù cịn đóng vai
trị tích cực cho tăng trưởng kinh tế nhưng bị xố bỏ nhanh chóng. Quan hệ
sản xuất bị đẩy quá cao so với trình độ của lực lượng sản xuất. Mặt khác, do
thực hiện cơ chế phân phối tập trung, bao cấp nên thực tế lợi ích chung (tài
sản quốc doanh, tài sản tập thể) và lợi ích của người lao động đều bị vi phạm.
Phân phối duy nhất theo lao động được thực hiện trong khn khổ của cơ chế
kế hoạch hố tập trung làm cho nó bị biến dạng thành phân phối bình qn.
Động lực phát triển kinh tế ư xã hội bị triệt tiêu, kinh tế đất nước bị
khủng hoảng. Đến thời kỳ Đổi mới đánh dấu bằng Đại hội VI, Đảng ta đã có
quan niệm mới về cơng bằng xã hội, đó là: “thực hiện chế độ phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn

cùng các nguồn lực khác và thơng qua phúc lợi xã hội”. Qua một thời gian
dài, quan niệm về công bằng xã hội của Đảng ta từng bước được hồn thiện
cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội hiện thời. Nguyên tắc
phân phối trên đây là nguyên tắc phân phối công bằng trong thời kỳ quá độ ở
nước ta.
Như vậy, công bằng được nhận thức một cách khái quát là Hưởng thụ
tương ứng với cống hiến. Cống hiến ở đây là những đóng góp cả về tiền của
và sức lực trong hiện tại và cả trong quá khứ. Và hưởng thụ là những cái được
nhận như: phần thưởng, đền đáp, ghi danh.... Công bằng xã hội trở thành động
lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế, bởi nó tác động trực tiếp đến lợi ích của
các chủ thể xã hội. Do đó, công bằng xã hội cũng là một trong những điều
kiện để đảm bảo tăng trưởng kinh tế lâu dài. Mặt khác, chính việc thực hiện
cơng bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường mà tình trạng phân hố xã
hội sẽ nảy sinh. Để khắc phục tình trạng này dưới chủ nghĩa xã hội cần phải
4


thực hiện phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội. Phân phối thông qua phúc
lợi xã hội thực chất cũng là việc thực hiện công bằng xã hội theo nguyên tắc
Hưởng thụ tương ứng với cống hiến.
Ở phương diện khái quát hơn, công bằng xã hội được hiểu là quyền
được đảm bảo điều kiện sống tối thiểu của mỗi cá nhân.
Bình đẳng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa các cá nhân về một lĩnh
vực xã hội: pháp luật, kinh tế, nhân phẩm, giới tính, tơn giáo... Khi có sự
ngang bằng giữa các cá nhân về mọi phương diện thì lúc đó có sự bình đẳng
hồn tồn. Trong khi đó cơng bằng xã hội là quan hệ xác định: hưởng thụ
tương xứng với cống hiến.
1.2. Lý luận về bất bình đẳng xã hội
1.2.1. Khái niệm
Bình đẳng xã hội

Bình đẳng xã hội là một tình trạng mà trong đó tất cả mọi người trong
một xã hội hay một nhóm cụ thể nào đó có địa vị, tình trạng pháp lý tương tự
như nhau ở những khía cạnh nhất định, thường bao gồm các quyền dân sự, tự
do ngôn luận, quyền sở hữu và tiếp cận bình đẳng đối với hàng hóa và dịch vụ
xã hội.
Bất bình đẳng xã hội
Bất bình đẳng xã hội là sự bình đẳng,cơng bằng, sự bằng nhau về các cơ hội
hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều
nhóm trong xã hội.
Tất cả các xã hội - cả quá khứ hay hiện tại - đều được đặc trưng bởi sự
khác biệt xã hội. Đó là một q trình trong đó con người tạo nên khoảng cách
do cách ứng xử khác nhau bởi các địa vị, vai trò và những đặc điểm khác
nhau. Quá trình của sự khác biệt xã hội khơng địi hỏi con người đánh giá các
5


vai trò và các hoạt động cụ thể tồn tại như là quan trọng hơn những cái khác;
tuy nhiên, sự khác biệt xã hội chuẩn bị cho sự bất bình đẳng xã hội, là một
điều kiện trong đó con người có cơ hội khơng ngang bằng về sử dụng của cải,
quyền lực và uy tín. Nhà xã hội học Daniel Rossides cho rằng: ngay trong các
xã hội đơn giản nhất "người già thường có uy quyền đối với người trẻ, cha mẹ
có uy quyền với con cái, và đàn ơng có uy quyền đối với đàn bà."
Bất bình đẳng xã hội không phải là một hiện tượng tồn tại một cách
ngẫu nhiên giữa các cá nhân trong xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số
nhóm xã hội kiểm sốt và khai thác các nhóm xã hội khác. Qua những xã hội
khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất bình đẳng xã hội khác nhau. Bất bình
đẳng xã hội là một vấn đề trung tâm của xã hội học, đây là vấn đề có ý nghĩa
quyết định đối với sự phân tầng trong tổ chức xã hội.
1.2.2. Nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội
Ở những xã hội khác nhau, bất bình đẳng cũng có những nét khác biệt.

Trong xã hội có quy mơ lớn và hồn thiện hơn thì bất bình đẳng xã hội gay
gắt hơn so với trong các xã hội giản đơn. Bất bình bình đẳng thường xuyên
tồn tại với những nguyên nhân và kết quả cụ thể liên quan đến giai cấp xã hội,
giới tính, chủng tộc, tơn giáo, lãnh thổ, v.v... Những ngun nhân dẫn đến bất
bình đẳng xã hội có đa dạng và khác nhau giữa các xã hội và nền văn hóa, và
các nhà xã hội học đưa về ba loại căn bản - Đó là:
+ Cơ hội trong cuộc sống: bao gồm tất cả những thuận lợi vật chất có
thể cải thiện chất lượng cuộc sống. Nó khơng chỉ bao gồm những thuận lợi về
vật chất, của cải, tài sản và thu nhập mà cả những điều kiện như lợi ích bảo vệ
sức khỏe hay an ninh xã hội. Cơ hội là những thực tế và những thực tế này
cho thấy những lợi ích vật chất và sự lựa chọn thực tế của một nhóm xã hội,
bất kể những thành viên của nhóm có nhận thức được điều đó hay khơng.
Trong một xã hội cụ thể, một nhóm người có thể có cơ hội, trong khi các
6


nhóm khác thì khơng; và đó là ngun nhân khách quan của bất bình đẳng xã
hội;
+ Địa vị xã hội: trái lại, với nguyên nhân khách quan trên, bất bình
đẳng xã hội về địa vị xã hội là do những thành viên của các nhóm xã hội tạo
nên và thừa nhận chúng. Cơ sở địa vị xã hội có thể khác nhau - có thể là bất
cứ cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu việt và được các nhóm xã hội khác
thừa nhận; ví dụ, của cải, sự trong sạch về tơn giáo, địa vị chính trị, v.v... Bất
kể với nguyên nhân như thế nào, địa vị xã hội chỉ có thể được giữ vững bởi
những nhóm xã hội nắm giữ địa vị đó và các nhóm xã hội khác tự giác thừa
nhận tính ưu việt của những nhóm đó;
+ Ảnh hưởng chính trị: bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị có thể
được nhìn nhận như là có được từ những ưu thế vật chất hoặc địa vị cao. Thực
tế, bản thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được địa vị và những
cơ hội trong cuộc sống. Có thể gọi đó là những bất bình đẳng dựa trên cơ sở

chính trị.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG VÀ
KIỀM CHẾ BẬT BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng bất bình đẳng xã hội tại Việt Nam
2.1.1. Thực trạng bình đẳng trong Phân phối thu nhập
Ở Việt Nam, chỉ số bất qn bình thu nhập Gini khơng q cao so với
các nước trong khu vực và khá ổn định (khoảng 0,4), nhưng khoảng cách giữa
nhóm 20% dân số thu nhập cao nhất với 20% dân cư thu nhập thấp vẫn ở mức
cao (khoảng 10 lần), đời sống của cư dân ở một số vùng dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa và nhóm người yếu thế (người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em...)
đang gặp rất nhiều khó khăn. Theo Tổng cục Thống kê, hệ số bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập của cả nước năm 2018 có xu hướng chuyển biến
tích cực khi giảm so với các năm trước. Từ năm 2012, Gini ở nông thôn cao
hơn thành thị và sự chênh lệch càng ngày càng giãn rộng ra. Điều này cho
7


thấy sự bất bình đẳng trong thu nhập của Việt Nam tuy giảm nhưng sự cách
biệt giữa nông thôn và thành thị ngày càng lớn. Ở nước ta, Đông Nam bộ và
đồng bằng sơng Hồng là nơi có hệ số bất bình đẳng thấp nhất (0,373 và
0,392), trong khi đó Trung du và miền núi phía Bắc, Tây Ngun có sự bất
bình đẳng cao nhất (0,443 và 0,440).

Nguồn: Tổng cục Thống kê
2.1.2. Thực trạng bình đẳng trong Vấn đề phát triển con người
Chỉ số phát triển theo giới tính của Việt Nam là 1,003 phản ánh phát
triển giới khá đồng đều, trong khi ở các nước còn phân biệt nam nữ khá
nhiều, thậm chí Trung Quốc cũng thấp hơn khá nhiều so với Việt Nam, chỉ
đạt 0,961. Kết quả so sánh năm 2019 phản ánh độ bất bình đẳng giới tính của
Việt Nam đã được cải thiện (0,314 xếp thứ 68), Trung Quốc (0,163 xếp thứ

38), Malaysia (0,274 xếp thứ 58), Thái Lan (0,377 xếp thứ 84).
Theo “Báo cáo phát triển con người năm 2015” của UNDP, chỉ số HDI
của Việt Nam liên tục tăng trong những năm qua nhưng tiến bộ của Việt Nam
là không đồng đều. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã làm cho cho xu
hướng phát triển con người toàn cầu và khu vực chững lại. Tuy nhiên, tiến bộ
tương đối của Việt Nam yếu hơn và tỷ lệ cải thiện chậm hơn các nước khác
trong khu vực. Điều đó cho thấy ảnh hưởng sau khủng hoảng và những yếu
kém kinh tế nội tại là vấn đề nghiêm trọng hơn ở Việt Nam. Khi nhìn sâu vào
8


cơ cấu kinh tế và thể chế kinh tế có thể thấy còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến
chất lượng tăng trưởng. Nhiều yếu kém và cả sự tụt hậu vẫn chưa được khắc
phục sau 33 năm đổi mới, nhất là trong so sánh tương quan với các nước
trong khu vực và thế giới về năng suất lao động, thu nhập bình quân, cơ cấu
kinh tế và thể chế kinh tế. Tình trạng tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn hiện hữu,
chưa thể so sánh được với các nền kinh tế đi vào giai đoạn tăng trưởng nhanh
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...
2.1.3. Thực trạng bình đẳng trong Tiếp cận các dịch vụ công
Đến nay, tỷ lệ người biết chữ độ tuổi từ 15 - 60 là 97,65%, cơ bản đạt
mục tiêu của Đề án xóa mù chữ (đến năm 2020 đạt 98%). Trong đó, số người
biết chữ trong độ tuổi 15 - 35 chiếm 97,92%; số người biết chữ trong độ tuổi
từ 36 - 60 chiếm 96,35%. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết chữ độ tuổi 15 - 60
là 93,44%. 100% đơn vị cấp tỉnh, huyện và 99,9% đơn vị cấp xã duy trì đạt
chuẩn xóa mù chữ (Bộ Giáo dục và Đào tạo). Nhờ tỷ lệ chi ngân sách cho
giáo dục hằng năm ở mức xấp xỉ 20% (tương đương 5% GDP), Việt Nam đã
phát triển được trường học và trung tâm dạy nghề rộng lớn. Số lượng các
trường học tại tất cả các cấp đều tăng lên trong những năm qua.
Theo kết quả “Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019”, cả nước có
khoảng 91,7% dân số trong độ tuổi đi học phổ thơng hiện đang đi học. Trong

vịng 20 năm qua, tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng hiện
không đi học (chưa bao giờ đi học hoặc đã thôi học) giảm đáng kể, từ 20,9%
trong năm 1999 xuống 16,4% trong năm 2009 và 8,3% năm 2019.

9


Tuy nhiên, số liệu về tỷ lệ học sinh đến trường giữa các nhóm thành thị
- nơng thơn và giữa các vùng có khoảng cách rõ rệt. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi
đi học nhưng không đi học ở khu vực nông thôn cao hơn so với khu vực thành
thị (gấp 1,7 lần), tương ứng là 9,5% và 5,7%. Tây Nguyên và đồng bằng sông
Cửu Long là các vùng có tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi học nhưng không đi học
cao nhất cả nước, tỷ lệ của mỗi vùng là 13,3%. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi
học phổ thông nhưng không đi học ở vùng đồng bằng sông Hồng là thấp nhất,
chiếm 3,2%.
2.2. Nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội tại Việt Nam
2.2.1. Khác biệt đáng kể về điều kiện kinh tế theo các nhóm dân tộc và vùng,
miền.
Điều này gắn với khoảng cách giãn rộng giữa những người rất giàu và
phần đông người Việt Nam, cũng như với tình trạng bất bình đẳng đáng kể về
cơ hội. Các nhóm người dân tộc thiểu số ngày càng bị tụt hậu trong quá trình
tăng trưởng, dẫn đến người nghèo tại Việt Nam ngày càng tập trung trong các
nhóm dân tộc thiểu số. Hiện nay, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực,
nhưng thực tiễn cho thấy, việc đổi mới mơ hình tăng trưởng của Việt Nam
vẫn cịn hạn chế, chưa bền vững. Mơ hình tăng trưởng kinh tế đã có những
chuyển biến tích cực nhưng vẫn tăng trưởng theo chiều rộng là chủ yếu, dựa
vào gia tăng các nhân tố đầu vào truyền thống (vốn, lao động, tài ngun).
Ngồi ra, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng một phần dẫn đến tình
trạng mất đất của nơng dân, của người nghèo ở nơng thơn. Sự bất bình đẳng
về phát triển kinh tế ln là ngun nhân của bất bình đẳng xã hội, trong đó

có bất bình đẳng về giáo dục. Mức sống thấp do thu nhập thấp, nghèo đói là
nguyên nhân trực tiếp cản trở cơ hội tiếp cận giáo dục của trẻ em, đặc biệt
một số nhóm như trẻ em khuyết tật, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em sinh ra ở
những gia đình nghèo. Nhu cầu trẻ em lao động, hộ gia đình nghèo, thiếu
động lực học hành… cũng là rào cản đối với việc tiếp cận giáo dục của trẻ
10


em. Ngồi ra, trình độ, học vấn của bố mẹ, nhận thức chưa đầy đủ của trẻ em
về tác dụng tích cực của giáo dục cũng là yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội tiếp
cận giáo dục của các em. Trình độ học vấn của bố mẹ càng cao thì nhận thức
về tác dụng tích cực của giáo dục cũng càng cao, do đó cơ hội đến trường của
trẻ em càng lớn. Trong những gia đình mà bố mẹ có trình độ học vấn cao, họ
sẽ đầu tư nhiều cho giáo dục đối với con cái của họ hơn những gia đình mà bố
mẹ có học vấn thấp.
2.2.2. Bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục
Phân tích mơ hình kinh tế lượng cho thấy người lao động trẻ có bố mẹ
làm quản lý sẽ có cơ hội làm quản lý, hoặc tối thiểu là nhân viên văn phòng,
cao hơn 10 lần so với người lao động trẻ có bố mẹ làm công việc chân tay
như nông dân hoặc ngư dân (Oxfam, 2018). Không chỉ vậy, những rào cản về
định kiến xã hội cũng làm cho cơ hội việc làm là khác nhau đối với lao động
nữ và lao động nam.
Tại Việt Nam, cũng như ở các nước đang phát triển, phụ nữ vẫn tiếp
tục là lực lượng chính cấu thành nhóm lao động nghèo, có thu nhập thấp hơn,
dễ trở thành nạn nhân của tình trạng thiếu việc làm hoặc thất nghiệp hơn và
có điều kiện việc làm bấp bênh hơn nam giới. Phụ nữ Việt Nam chủ yếu làm
việc trong các ngành nghề có thu nhập thấp hoặc những công việc dễ bị tổn
thương. Phụ nữ cũng chiếm phần lớn trong nhóm làm cơng việc của gia đình
khơng được trả lương và trong khu vực "vơ hình" của nền kinh tế phi chính
thức, như giúp việc gia đình, lao động tại gia, bán hàng rong và làm việc

trong ngành cơng nghiệp giải trí. Ngun nhân chính của tình trạng này là do
xã hội gán cho người phụ nữ địa vị thấp hơn và đặt gánh nặng làm công việc
nhà không lương lên vai người phụ nữ, nhưng vẫn mong muốn họ tham gia
sản xuất nông nghiệp tự cung, tự cấp và nền kinh tế thị trường.

11


2.2.3. Hệ thống và mạng lưới dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe phân bố khơng
đồng đều
Hệ thống các cơ sở y tế ở Việt Nam hiện nay được phân theo 4 cấp
(Trung ương, tỉnh/thành phố, quận/huyện và phường/xã). Các bệnh viện lớn
có các chuyên khoa sâu và chất lượng dịch vụ cao đều tập trung ở tuyến trung
ương và tuyến tỉnh/thành phố. Các bệnh viện tuyến quận/huyện và bệnh viện
đa khoa khu vực thường được phân bố ở các thị xã hay khu vực đô thị là trung
tâm của quận/huyện. Như vậy, cả ba tuyến các cơ sở y tế trên đều phân bố ở
khu vực đô thị, còn lại là các trạm y tế tuyến cơ sở (số này gấp hơn 5 lần số
lượng các loại bệnh viện 3 tuyến trên) được phân bố ở tại các xã/phường, mà
phần nhiều là ở các xã thuộc khu vực nơng thơn. Đội ngũ cán bộ y tế đã có sự
gia tăng đáng kể nhưng do điều kiện cơ sở vật chất, mức thu nhập quá chênh
lệch nên sự phân bố nhân viên y tế tập trung nhiều ở các bệnh viện tuyến
trung ương, tuyến tỉnh/thành phố, trong khi nhân viên y tế ở các trạm y tế
xã/phường lại chiếm số lượng ít hơn. Mặt khác, các cơ sở y tế tư nhân ở khu
vực đô thị là một yếu tố thu hút lực số lượng không nhỏ cán bộ và nhân viên y
tế đang làm việc ở các cơ sở y tế tại khu vực nơng thơn, từ đó dẫn đến sự
thiếu hụt trầm trọng lực lượng y tế tại khu vực nông thôn.
Hiện nay, hệ thống cơ sở vật chất, thuốc chữa bệnh và các trang thiết bị
kỹ thuật y tế để khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế chưa đáp ứng được so với
nhu cầu thực tế chăm sóc sức khỏe của nhân dân, đặc biệt là tại các tuyến cơ
sở (xã/phường, huyện/quận) so với tuyến bệnh viện tỉnh/thành phố và tuyến

trung ương. Việc đầu tư cơ sở vật chất, trạng thiết bị kỹ thuật và thuốc của
ngành y tế cho tuyến trung ương, khu vực thành thị nhiều hơn rất nhiều so với
tuyến cơ sở, khu vực nông thôn và người nghèo, dẫn đến việc tiếp cận dịch vụ
tốt, trang thiết bị hiện đại của nhóm yếu thế gặp nhiều khó khăn.

12


2.2.4. Việc phân bổ ngân sách ở Việt Nam còn những điểm bất hợp lý.
Theo chuẩn mới nghèo đa chiều, tỷ lệ nghèo, cận nghèo trong cả nước
khá cao, khoảng 15% (gấp gần 3 lần mức chuẩn cũ). Do vậy, ngân sách cho
giảm nghèo đa chiều cũng phải tăng theo, đạt hơn 46.000 tỷ đồng (Nghị quyết
số 100/2015/QH13). Tuy nhiên, vấn đề khơng phải tiền nhiều thì giảm nghèo
nhiều. Việc phân bổ, giám sát cách chi tiền là rất quan trọng. Mặc dù ngân
sách giảm nghèo được phân cấp xuống các tỉnh và giúp giảm tỷ lệ nghèo ở
nhiều tỉnh, nhưng có rất ít bằng chứng cho thấy ngân sách này góp phần làm
tăng chất lượng các dịch vụ cơng. Hơn nữa, các chính sách ở Việt Nam vẫn
cịn hiện tượng chồng chéo (Oxfam, 2018).
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHÍNH SÁCH NHẰM TĂNG CƯỜNG
CƠNG BẰNG VÀ GIẢI QUYẾT BẤT BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
Trên cở sở phân tích thực trạng tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam,
những nguyên nhân dẫn đến hạn chế và các thách thức trong thời gian tới, bài
viết tập trung vào 5 nhóm giải pháp nhằm tạo ra sự không phân biệt và giảm
sự yếu thế.
3.1. Phân bổ nguồn lực công một cách hiệu quả, hợp lý, minh bạch và có
trách nhiệm giải trình cao.
Các nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều ở các vùng
có tỷ lệ hộ nghèo cao (miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Tây Nguyên) cần
được ưu tiên. Các chính sách hỗ trợ miễn phí từng bước chuyển dần sang các

chính sách hỗ trợ có điều kiện, như tín dụng ưu đãi, hỗ trợ sản xuất... để tạo
động lực cho người dân tự vươn lên thoát nghèo. Cơ chế phân bổ, quản lý
nguồn lực dành cho các lĩnh vực như giáo dục, y tế, an sinh xã hội cần hướng
đến giảm bất bình đẳng giữa khu vực thành thị, nơng thơn; giữa các vùng,
miền. Có cơ chế ưu đãi để thu hút tư nhân tham gia đầu tư nhiều hơn vào các
lĩnh vực xã hội để giảm tải cho ngân sách nhà nước. Ngoài ra cần tạo điều
13


kiện để tăng cường sự tham gia của nhân dân trong q trình lập dự tốn ngân
sách nhà nước, nâng cao chức năng phản biện xã hội.

3.2. Xây dựng hệ thống tài chính bao trùm.

Phát triển hệ thống tài chính theo hướng phủ rộng là một thành phần quan
trọng trong mơ hình tăng trưởng bao trùm. Hệ thống tài chính lành mạnh và
chắc chắn sẽ đóng vai trị then chốt nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, góp phần
giảm nghèo gián tiếp thông qua tăng trưởng kinh tế cũng như trực tiếp tác
động lên các nhóm nghèo và yếu thế thơng qua các khoản hỗ trợ tài chính trực
tiếp. Hệ thống tài chính bao trùm sẽ đảm bảo cho tất cả những người nghèo và
nhóm yếu thế có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính mà khơng phải gặp bất kỳ
rào cản mang tính phân biệt nào. Điều đó cho phép họ tiết kiệm và vay mượn
để tích lũy của cải, đầu tư vào giáo dục và hoạt động kinh doanh, qua đó giúp
nâng cao mức sống của họ. Chính sách tài khóa cần kiểm sốt thâm hụt ngân
sách nhà nước và nợ cơng. Chính sách tiền tệ nên tập trung vào kiểm soát lạm
phát, ổn định giá trị của đồng Việt Nam và tăng sức cạnh tranh của hệ thống
tài chính ngân hàng, nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Chính
sách giá cả đi đơi với chính sách đầu tư thơng thống.

3.3. Cải cách hệ thống giáo dục hợp lý, thích ứng với cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ tư.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, đặc biệt trước sự
bùng nổ mạnh mẽ của cuộc Cách mạng cơng nghiệp 4.0, có thể thấy rằng
công nghệ và con người là hai yếu tố then chốt nhất trong các mơ hình tăng
trưởng nội sinh. Khác với các yếu tố đầu vào khác (vốn, lao động, đất đai, tài
nguyên thiên nhiên) luôn bị ràng buộc bởi trần giới hạn thì hai yếu tố này có
14


thể tăng lên và là chìa khóa để cho các quốc gia có thể thốt khỏi bẫy thu
nhập trung bình. Do đó, Việt Nam cần có chiến lược giáo dục và đào tạo theo
hướng hỗ trợ cho các ngành khoa học và cơng nghệ, khuyến khích tinh thần
học tập suốt đời, liên tục trên cơ sở tận dụng những công nghệ học tập mới
dựa trên Internet. Ngoài ra, với tinh thần “trao cơ hội như nhau” và “không
phân biệt đối xử”, Nhà nước cần tập trung cho phát triển giáo dục ở khu vực
nông thôn, các vùng sâu, vùng xa bằng các chính sách đãi ngộ thỏa đáng để
huy động, thu hút các giáo viên có trình độ cao về làm việc lâu dài, ổn định ở
khu vực này; đầu tư cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng để con đường đến trường
của trẻ em ở những địa bàn khó khăn khơng cịn gian nan và nhiều chơng gai.
Nhà nước cũng cần nâng cao trình độ học vấn, nhận thức và sự quan tâm về
giáo dục của người dân ở nông thôn nhiều hơn so với đô thị, bằng các chương
trình tuyên truyền, giáo dục, vận động người dân và con em họ tham gia giáo
dục.

3.4. Cải thiện chất lượng nguồn lao động, thúc đẩy việc làm, nâng cao
năng suất lao động quốc gia.
Đây là một giải pháp quan trọng vì nâng cao cơ hội tiếp cận và chất
lượng nguồn nhân lực giúp cho tất cả người dân có thể tham gia vào tiến trình
phát triển kinh tế và được hưởng lợi từ tăng trưởng, giúp giảm được sự gia
tăng của bất bình đẳng và bất ổn xã hội. Để cải thiện năng suất lao động,

Chính phủ cần ưu tiên ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo nhằm cải
thiện trình độ và kỹ năng lao động. Thực tế cho thấy, một trong những
nguyên nhân quan trọng dẫn đến năng suất lao động Việt Nam thấp chính là
chất lượng giáo dục, đào tạo và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, cơ cấu
đào tạo chưa hợp lý, thiếu lao động chất lượng cao, chưa chú trọng đào tạo lại
và bồi dưỡng nâng cao. Nhà nước cần đổi mới cơ chế quản lý đối với dạy
nghề theo nhu cầu của thị trường và yêu cầu cụ thể của người sử dụng lao
15


động, đặc biệt xây dựng nhiều điểm trường dạy nghề có chất lượng tốt ở khu
vực nơng thơn, vùng gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận thơng tin với thị
trường. Khơng chỉ vậy, Chính phủ cần phát triển một thị trường lao động đầy
đủ và minh bạch thông qua các chính sách tạo việc làm, đặc biệt là các chính
sách bảo vệ quyền lợi của người lao động, các chính sách khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động và tạo việc
làm bền vững. Khuyến khích cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, đổi mới, sáng tạo, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu từ các hoạt
động có giá trị gia tăng thấp sang các hoạt động có giá trị gia tăng cao bằng
cách tăng cường nguồn vốn con người và tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát
triển.
3.5. Xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội hiện đại.
Chính sách trợ giúp xã hội là biện pháp, công cụ tác động để thực hiện
mục tiêu bảo đảm an toàn cuộc sống cho bộ phận dân cư không may gặp phải
hồn cảnh khó khăn. Theo đó, chính sách trợ giúp xã hội dựa trên vòng đời sẽ
bảo đảm sự thống nhất, hài hịa với các chính sách an sinh xã hội khác, đặc
biệt là chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp.
Bảo hiểm xã hội cần mở rộng độ bao phủ, đảm bảo quỹ bảo hiểm xã hội bền
vững trong dài hạn để đảm bảo quyền an sinh xã hội cho tất cả người dân,
đồng thời giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Theo đó, Nhà nước

cần hướng dẫn người dân cụ thể và rõ ràng về các thông số bảo hiểm xã hội
để người dân ở khu vực nông thôn, vùng khó khăn khó tiếp cận thơng tin có
thể hiểu rõ những ích lợi mà bảo hiểm xã hội đem lại và chủ động hơn trong
việc đóng bảo hiểm xã hội. Hơn nữa, quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở
cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội cần phải phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp xã hội tiếp
cận các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu trợ giúp của người dân,
hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả.
16


17


PHẦN III: KẾT LUẬN
Từ khi đổi mới đến nay, qua các kỳ đại hội Đảng, qua nhiều hội nghị
Trung ương Đảng, trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng ở mỗi giai đoạn,
mỗi thời điểm lịch sử tuy hình thức thể hiện và cách thức diễn đạt có khác
nhau, nhưng xuyên suốt và nhất quán trong đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng nhận thức đúng đắn và giải quyết hài hịa
vấn đề Bất bình đẳng xã hội và Cân bằng xã hội trong điều kiện Kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Qua đó, đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong
lý luận và thực tiễn lãnh đạo cơng cuộc đổi mới của Đảng, góp phần quan
trọng vào thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Quan điểm của Đảng về Bất bình đẳng xã hội và Cân bằng xã hội trong
nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là kết quả
của quá trình Đảng ta nhận thức và vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời,
luôn bám sát sự vận động, phát triển của thực tiễn đất nước, tích cực tham
khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới; thực hiện tốt việc kết hợp giữa
nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn đổi mới.

Ngày nay, yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới toàn diện và
đồng bộ đất nước, cũng như q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu
rộng của Việt Nam,... đòi hỏi lý luận của Đảng về Cân bằng xã hội và Bất
bình đẳng xã hội khơng chỉ đúng đắn, sáng tạo mà cịn có sự đột phá và hiệu
quả cao hơn nữa.

18



×