Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tieu luan cao học, vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.48 KB, 41 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta, trước hết và trọng tâm là đổi
mới kinh tế đồng thời từng bước đổi mới chính trị, được thực hiện từ quyết
định quan trọng - Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986).
Đổi mới kinh tế - xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng
XHCN là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta, phù hợp với yêu cầu khách quan của thực trạng kinh tế xã hội của đất nước và xu thế phát triển của thời đại.
Trong đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã bước đầu đề ra nội
dung, hình thức và bước đi cụ thể, thích hợp. Từng bước chuyển nền kinh
tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng XHCN.
Thực hiện đường lối đó, Nhà nước Cộng hịa XHCN Việt Nam
đóng vai trị hết sức quan trọng - quản lý và điều tiết nền KTTT, bảo đảm
quá trình phát triển theo đúng định hướng XHCN.
Thực tiễn từ 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý
của Nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta đã và đang đạt được
nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng, song cũng đặt ra nhiều vấn đề phức
tạp - những thách thức, trở ngại lớn như nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ
- khóa VII đã chỉ rõ, đặc biệt là nguy cơ chệch hướng XHCN.
Cùng với nguy cơ, thách thức trong nước, những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới - xu hướng khu vực hóa, quốc tế hóa và tồn cầu hóa
đời sống kinh tế thế giới... đem đến thời cơ, vận hội mới và những thách
thức lớn cho nước đang ta.
Những năm qua, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã tích cực
đổi mới theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì


2


dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã phát huy vai trò, hiệu
lực quản lý, phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được một số hiệu quả rất
quan trọng. Song trong quá trình thực thi quyền lực cịn tồn tại nhiều thiếu
sót, khuyết điểm cần được khắc phục.
Trước thực trạng đó, đặt ra vấn đề khách quan là Nhà nước phải tự
đổi mới và hồn thiện mình như thế nào? Điều tiết, quản lý và can thiệp
vào kinh tế bằng những nội dung, giải pháp nào để phát huy vai trò, hiệu
lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền lực chính trị của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và phát triển nền KTTT đúng định hướng
XHCN...
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề "Vai trò nhà nước
trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay" làm tiểu luận.


3

Phần I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG KINH TẾ VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ

1.1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước trong
phát triển kinh tế và kinh tế thị trường
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, nhà nước ln có chức
năng kinh tế. Nghĩa là, nhà nước ra đời và tồn tại không phải chỉ thuần túy
để làm chính trị, khơng chỉ quản lý xã hội mà còn quản lý và phát triển
kinh tế. Nhà nước chính là đại diện cho giai cấp thống trị về kinh tế và
chức năng kinh tế của nhà nước cũng chính là nhằm củng cố địa vị của giai

cấp cầm quyền. Khẳng định chức năng kinh tế của nhà nước, phân tích mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Lênin cho rằng: khơng có chính trị đơn
thuần và kinh tế đơn thuần mà chính trị và kinh tế ln gắn bó với nhau, tác
động, ảnh hưởng lẫn nhau.
"Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, lập luận một cách khác
đi là quên mất điều thường thức của chủ nghĩa Mác" [20, tr. 349], "Chính
trị tức là kinh tế được cơ đọng lại" [23, tr. 147].
Chính trị thực chất là quan hệ giữa các giai cấp, các nhóm xã hội,
các quốc gia dân tộc. Trong đó trước hết và cơ bản là quan hệ về kinh tế.
Trong chính trị, vấn đề quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực
nhà nước) là mục tiêu và trực tiếp mà bất cứ giai cấp, nhóm xã hội nào
cũng muốn nắm và chi phối. Vì nắm được quyền lực nhà nước là nắm được
công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp
khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình.


4
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp
từ trước tới nay, xét đến cùng đều vì mục đích kinh tế - giải phóng kinh tế
và được tiến hành trước hết vì lợi ích kinh tế. Và do đó một khi xã hội cịn
tồn tại giai cấp, cịn tồn tại nhà nước thì tất cả những vấn đề chính trị và bất
kỳ một thái độ nào cũng đều ảnh hưởng từ vấn đề kinh tế.
Vì vậy Lênin khẳng định: Trong quá trình phát triển xã hội, kinh tế
quyết định chính trị cịn khi hoạch định chính sách thì chính trị phải chiếm
hàng đầu, chiếm vị trí ưu tiên, phải đưa vào các chính sách, các quan hệ
giai cấp các lực lượng kinh tế xã hội. "Khơng có một lập trường chính trị
đúng thì một giai cấp nhất định nào đó khơng thể nào giữ được sự thống trị
của mình và do đó cũng khơng thể hồn thành nhiệm vụ của mình trong sản
xuất" [21, tr. 350].
Sự tác động của chính trị vào kinh tế thể hiện thơng qua vai trị hoạt

động của nhà nước - các thể chế và các chính sách của nhà nước. Sự tác
động đó ln diễn ra theo hai hướng:
- Nếu sự tác động cùng chiều sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Nghĩa là, nhà nước trước hết bằng các thể chế chính trị tạo ra các
quan hệ kinh tế phù hợp với sự phát triển của LLSX. Nhà nước nắm bắt các
quy luật phát triển của nền kinh tế, tạo mơi trường pháp lý và hoạch định
các chính sách để phát huy các mặt tích cực của các xu hướng tích cực,
đồng thời loại bỏ những mặt, những nhân tố tiêu cực cản trở sự tác động
của các quy luật kinh tế.
- Sự tác động của nhà nước theo hướng ngược chiều sẽ dẫn tới kìm
hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nghĩa là, nhà nước duy trì các quan hệ kinh tế lỗi thời, khơng cịn
phù hợp với sự phát triển của LLSX hoặc bảo vệ lợi ích của giai cấp phản
động chống lại lợi ích của giai cấp đang lên, lợi ích của nhân dân lao động.
Hoạt động bất chấp quy luật khách quan của kinh tế - xã hội.


5
Nhà nước với chức năng kinh tế, có vai trị hết sức to lớn đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vai trị đó được phát huy và thực hiện
có hiệu quả hay khơng là phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ chính trị
và bản chất giai cấp của từng nhà nước.
Các nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản) đều bằng cách này hay
cách khác kiểm soát các hoạt động kinh tế của xã hội, đặt ra những chính
sách, luật lệ nhằm giữ vững vị trí thống trị của giai cấp cầm quyền. Ngay
dưới CNTB, mặc dù các thể chế thị trường phát triển cao, nhà nước TBCN
tham gia vào các quá trình kinh tế với rất nhiều hình thức (mà đỉnh cao là
CNTB độc quyền nhà nước - sự liên minh giữa nhà nước và các tập đoàn tư
bản) cũng đều nhằm củng cố vị trí thống trị của giai cấp tư sản - giai cấp
cầm quyền.

Khác với nhà nước của các giai cấp bóc lột, nhà nước XHCN là nhà
nước kiểu mới - nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nhà nước thực hiện trấn áp giai cấp bóc lột - giai cấp tư sản và bọn phản
động, nhà nước dân chủ với quảng đại quần chúng. Nhà nước có nhiệm vụ
kinh tế và vì lợi ích kinh tế của nhân dân lao động. Trong hai chức năng
trấn áp và xây dựng của nhà nước XHCN, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng
định rằng chức năng xây dựng là chủ yếu.
Để làm được việc đó, giai cấp vơ sản phải bằng quyền lực nhà nước
của mình, tiến hành một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, trước hết, trọng tâm là phát triển kinh tế, cải tạo những
cơ sở kinh tế cũ, xây dựng nền tảng kinh tế mới với các quan hệ kinh tế
lành mạnh vì mục đích con người. Với tư cách là chủ thể kinh tế, nhà nước
XHCN sử dụng những yếu tố vật chất (đất đai, tiền vốn, lao động, tài
nguyên) và tạo ra những quan hệ cần thiết để trực tiếp quản lý, sản xuất
hoặc lưu thông, dịch vụ trên những ngành, vùng chủ chốt. Đồng thời, nhà
nước là người đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, nắm trong tay


6
các cơng cụ, phương tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, luật pháp, tài
chính, ngân hàng...) và kiểm sốt việc sử dụng tài sản quốc gia, tổ chức
quản lý sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế theo quan điểm mục tiêu
đường lối phát triển kinh tế của giai cấp lãnh đạo - giai cấp công nhân mà
đại biểu là Đảng cộng sản. Trong thời kỳ này, nhiệm vụ của nhà nước
XHCN là phải làm gì, làm như thế nào để tạo ra năng suất lao động ngày
càng cao để chiến thắng hoàn toàn CNTB.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bước chuyển từ
CNTB lên CNXH không phải một sớm một chiều mà là một thời kỳ quá độ
lâu dài - thời kỳ quá độ lên CNXH (Mác gọi là những "cơn đau đẻ" kéo
dài). Đặc trưng cơ bản của thời kỳ này là kết cấu kinh tế - xã hội mới còn

tồn tại đan xen với kết cấu kinh tế - xã hội cũ. Nền kinh tế có nhiều thành
phần tồn tại, tác động đan xen với nhau, trong đó thành phần kinh tế
XHCN thậm chí chưa thắng lợi hồn tồn. Vì vậy việc nhà nước XHCN
quản lý nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu của thời kỳ quá độ.
Chính Mác đã chỉ rõ: Khơng một hình thức kinh tế nào, biến đi trước khi
nó cịn phục vụ được cho các lực lượng sản xuất mà nó đã dọn khoảng đất
trống cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất ấy; Ngược lại,
khơng một hình thức kinh tế nào có thể ra đời trước khi xuất hiện đầy đủ
các tiền đề vật chất cần thiết cho nó. Vì kết cấu nền kinh tế của thời kỳ quá
độ lên CNXH còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế nên hệ thống các quy
luật kinh tế hoạt động trong thời kỳ này rất đa dạng. Bên cạnh những quy
luật kinh tế XHCN mới hình thành nhưng chưa phát huy đầy đủ tác dụng của
nó, vẫn cịn những quy luật tương ứng với các thành phần kinh tế khơng
XHCN cịn hoạt động và phát huy tác dụng, tác động đến nền kinh tế quốc
dân với mức độ khác nhau.
Vì vậy trong quá trình quản lý nền kinh tế, nhà nước XHCN phải
tính đến việc vận dụng tồn bộ hệ thống các quy luật đó sao cho phù hợp,
có lợi cho CNXH. Một mặt tạo ra những điều kiện vật chất và xã hội để các


7
quy luật kinh tế XHCN phát huy ngày càng đầy đủ tác dụng của mình - là
nhân tố chủ đạo; mặt khác, chủ động vận dụng các quy luật kinh tế khác,
hướng theo quỹ đạo của CNXH. Đây là việc khó khăn, phức tạp, dễ phạm
sai lầm "tả" hoặc "hữu khuynh". Do đó địi hỏi nhà nước XHCN phải có
bản lĩnh, có khả năng tổ chức quản lý giỏi, biết tìm ra những hình thức,
phương pháp mới phong phú, đa dạng để hướng các thành phần kinh tế đi
theo quỹ đạo của CNXH.
Từ thực tiễn nước Nga, khi chấm dứt nội chiến và chuyển sang thời
bình, Lênin đã nghiêm khắc rút ra những bài học của chính sách "cộng sản

thời chiến", phê phán những khuynh hướng tư tưởng chủ quan, nóng vội
(muốn lập tức quốc hữu hóa, quốc doanh hóa, hạn chế khơng sử dụng các
hình thức kinh tế q độ đang còn tồn tại và còn tác dụng đối với việc phát
triển LLSX), dẫn đến hậu quả nghiêm trọng: Kinh tế khơng phát triển và
gây sự bất bình của nhân dân đối với chính quyền Xơ viết... Theo Lênin q trình chuyển từ thời chiến sang thời bình "khơng những chỉ liên quan
đến những cơ sở của công cuộc kiến thiết kinh tế mà còn liên quan đến các
cơ sở của những mối quan hệ giữa các giai cấp còn tồn tại trong xã hội
chúng ta". "Vấn đề này là vấn đề cần giải quyết". Không thực hiện được
bước chuyển ấy sẽ là thất bại của Đảng của giai cấp cơng nhân.
Lênin cho rằng, điều kiện thời bình phải xem xét lại tất cả các quan
điểm lý luận và thực tiễn sự phát triển kinh tế - xã hội nước Nga, thậm chí
thay đổi căn bản cách tiếp cận với CNXH. Chính từ thực tiễn nước Nga,
Lênin đã đưa ra NEP, trong đó Người nêu rõ những nhiệm vụ và chính
sách kinh tế mà nhà nước chun chính vơ sản phải thay đổi là:
- Nhà nước vô sản phải thực hiện xây dựng một nền kinh tế nhiều
thành phần, phát triển các quan hệ thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước
XHCN. Các thành phần kinh tế đó bao gồm: (1) Kinh tế nông dân kiểu gia


8
trưởng; (2) kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ (chủ yếu là nông dân); (3) kinh tế
CNTB tư nhân; (4) kinh tế CNTB nhà nước; (5) kinh tế của CNXH [21, tr. 248].
Các thành phần kinh tế trên đây đan xen với nhau, trong đó thành
phần tiểu tư sản (nơng dân) chiếm ưu thế. Các thành phần này đấu tranh
với nhau mà chủ yếu là cuộc đấu tranh giữa thành phần tiểu tư sản và tư
bản tư nhân với CNXH và CNTB nhà nước. Nghĩa là đấu tranh giữa
khuynh hướng sản xuất nhỏ và sản xuất lớn. Thắng lợi của CNXH phụ
thuộc vào thắng lợi của khuynh hướng sản xuất lớn.
Trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH, Lênin đặc biệt chú
ý và luôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của thành phần kinh tế CNTB

nhà nước, đặt hầu hết sự chú ý của nhà nước Xô viết vào việc phát triển
thành phần kinh tế này. Thậm chí bước sang giai đoạn thực hiện NEP,
Lênin coi đó là bắt đầu một thời kỳ quá độ, là một bước tiến từ "một nước
Cộng hịa Xơ viết XHCN chuyển sang CNTB nhà nước" [21, tr. 247] và ở
Nga từ kinh tế tiểu tư sản đến CNXH và CNTB nhà nước đều trải qua một
con đường [21, tr. 254] CNTB nhà nước theo Lênin là "sự chuẩn bị vật chất
đầy đủ nhất cho CNXH, là phòng chờ đi vào CNXH, là nấc thang lịch sử
mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là CNXH thì khơng có
một nấc thang nào ở giữa cả" [21, tr. 250]. CNTB nhà nước (trong đó có cả
chính sách tơ nhượng) mà mục đích của nó dưới CNXH theo Lênin là kiểu
quan hệ kinh tế mà bên trên có vẻ một sự liên minh với CNTB nước ngoài,
cái kiểu quan hệ kinh tế ấy sẽ tạo cho chính quyền của giai cấp vơ sản có
khả năng tiến hành ở bên dưới việc trao đổi tự do với nơng dân, Lênin cịn
cho rằng "hoặc là những quan hệ kiểu ấy hoặc là không có gì hết" [21, tr. 82].
Vấn đề CNTB nhà nước, vấn đề mà "ngay cả Mác cũng không viết
một lời nào" là một đóng góp quan trọng của Lênin trong quá trình phát
triển chủ nghĩa Mác về xây dựng CNXH trong điều kiện còn lạc hậu về
kinh tế kỹ thuật. Đây cũng chính là một chỉ dẫn quý báu của Lênin về việc
sử dụng quyền lực nhà nước của giai cấp vô sản trong phát triển kinh tế.


9
Trong điều kiện nước Nga sau Cách mạng tháng Mười, Lênin coi
CNTB nhà nước là thành phần kinh tế cao hơn, đứng trên thành phần kinh
tế XHCN. Vấn đề khác nhau của CNXH và CNTB nhà nước chính là vấn
đề chính trị, tức là vấn đề giai cấp cầm quyền. Lênin nêu vấn đề, mà theo
Người là "chân lý": "tốt hơn là nên trước hết hãy thực hiện CNTB nhà nước
để rồi sau đó, đi đến CNXH" [23, tr. 326]. Đó là một trong những nhiệm vụ
mấu chốt của nhà nước vơ sản. Để đánh tan những hồi nghi, phê phán
cách hiểu kinh viện về CNTB nhà nước, Lênin giải thích rằng "CNTB nhà

nước mà chúng ta nói đó là một thứ CNTB mà chúng ta có thể hạn chế, có
thể quy định giới hạn, CNTB nhà nước đó gắn liền với nhà nước, mà nhà
nước chính là cơng nhân, chính là bộ phận tiên tiến của cơng nhân, là đội
tiền phong, là chúng ta" [23, tr. 102]. Khi thực hiện CNTB nhà nước Lênin
coi trọng "sự lãnh đạo chính trị của giai cấp vô sản". Sự lãnh đạo này phải
hướng vào giải quyết những nhiệm vụ mấu chốt, cấp thiết nhất. Mà trong
một nước tiểu nơng thì đó là "phục hồi ngay những LLSX của kinh tế nông
dân" [21, tr. 263]. Trong lĩnh vực này những ý kiến của Lênin đặc biệt có
giá trị phương pháp luận cho các Đảng cộng sản ở các nưóc nơng nghiệp.
Trong các nước ấy, cũng như ở nước Nga "tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn
đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức
là của thương mại, tức là của CNTB, một sự phát triển khơng thể tránh
được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột
và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện
kinh tế, chính sách ấy là khơng thể nào thực hiện được; tự sát, vì những
đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản"
[21, tr. 267].
Để thực hiện được các nhiệm vụ "quy định", "giới hạn" CNTB nhà
nước, Lênin nhấn mạnh nhà nước chun chính vơ sản phải cải tiến
phương pháp làm việc của bộ máy Xô viết theo hướng tăng cường quyền
lực trong điều kiện nền KTTT.


10
Bộ máy nhà nước Xơ viết là chun chính vơ sản, nhà nước của
giai cấp công nhân và nông dân, nhưng bộ máy ấy khơng phải sau khi
giành được chính quyền đã hoạt động tốt. Vì theo Lênin, bộ máy đó chưa
thực sự là cơng nơng, cịn nhiều tàn dư phong kiến và tư sản nên phải xây
dựng lâu dài. Những đảng viên cộng sản làm việc trong bộ máy cịn chưa
có kinh nghiệm quản lý, làm việc kém hiệu quả; bộ máy còn cồng kềnh và

thiếu sự kiểm tra giám sát từ phía nhân dân. Vì vậy, việc xây dựng nhà
nước Xô viết là một nhiệm vụ nối tiếp quan trọng sau khi hồn thành cuộc
cách mạng giành chính quyền vĩ đại.
"Tơi biết rõ ràng chúng ta có những khuyết điểm trong bộ máy tổ
chức quần chúng", nhưng "vấn đề không phải là ở chỗ lấy việc cải tổ nhanh
chóng để cải tiến bộ máy đó, mà vấn đề là ở chỗ phải quán triệt cuộc cải
tạo chính trị đó để đạt tới một trình độ kinh tế - văn hóa khác" [22, tr. 401].
Lênin đưa ra ví dụ về Ủy ban đặc biệt toàn Nga - tổ chức an ninh
đặc biệt chống lật đổ. Nhưng chuyển sang giai đoạn mới cần phải xác định
rõ chức năng và quyền hạn của nó và giới hạn cơng tác của nó vào những
nhiệm vụ chính trị, mà chủ yếu là thực hiện các chính sách kinh tế mới KTTT. "Phải thu hẹp phạm vi hoạt động của các cơ quan chuyên giáng trả
lại" [22, tr. 403-404]. "Sắc lệnh thì chúng ta có quá nhiều và chúng ta làm
sắc lệnh đó một cách quá vội vàng... nhưng việc chấp hành thực tiễn đó thì
khơng được kiểm tra lại" [23, tr. 17]. Vấn đề không chỉ ở chỗ ra sắc lệnh
mà là ở chỗ làm thế nào để thực hiện được các sắc lệnh đó.
Lênin đã từng chỉ rõ vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng. Nhưng giai cấp cơng nhân sau khi đã giành được chính
quyền thì "cái mấu chốt khơng phải là chính quyền mà cái mấu chốt chính
là biết lãnh đạo" [23, tr. 128].
Thực chất những quan điểm về xây dựng bộ máy chính quyền Xô
viết mà Lênin nêu ra là khắc phục những sai lầm khuyết điểm trong quản lý
nền kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần với những


11
quan hệ thị trường. Nghĩa là trong điều kiện mới, nhà nước phải tăng cường
quyền lực của mình khơng phải bằng các mệnh lệnh hành chính quan liêu
mà phải bằng các thể chế kinh tế - chính trị, cơng cụ để quản lý kinh tế.
Phải có kế hoạch, chiến lược, hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế
hợp lý, đúng đắn để quản lý chứ không phải can thiệp vào các quá trình

hoạt động kinh tế như trong thời chiến...
Tóm lại, Lịch sử phong trào XHCN thế giới đã chứng minh tính
đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhà nước XHCN trong
phát triển kinh tế. Mặc dù ngày nay hệ thống XHCN đã tan rã do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà ở đây chúng ta khơng đề cập đến, nhưng mơ
hình phát triển kinh tế thống nhất và có kế hoạch của Liên Xô và của các
nước XHCN trước những năm tám mươi của thế kỷ XX đã đưa lại những
kinh nghiệm thành công mẫu mực về nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế.
Những luận điểm này đã mang lại nhiều thành công trong thực tiễn
của nhà nước XHCN lãnh đạo, quản lý nền KTTT như: Thời kỳ NEP của
Liên Xô, giai đoạn đầu của mơ hình kinh tế tự quản ở Nam Tư; những
thành quả to lớn trong chính sách cải cách mở cửa của Trung Quốc; và đổi
mới ở Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn của các nước xây dựng CNXH
chỉ ra rằng, nhà nước XHCN có thể sử dụng các hình thức quản lý quá độ,
hỗn hợp, trong đó có thể sử dụng các quan hệ thị trường để quản lý và phát
triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, nhà nước quản lý nền kinh tế XHCN như thế nào, cịn là
vấn đề chưa có câu trả lời cuối cùng và vấn đề đó cịn tùy thuộc vào điều
kiện từng nước và bối cảnh chung của thế giới. Nhưng khơng thể phủ nhận
vai trị đặc biệt của nhà nước XHCN trong phát triển nền kinh tế quốc dân,
đặc biệt là trong nền KTTT định hướng XHCN hoặc thị trường XHCN.


12
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ
CHỨC NĂNG NHÀ NƯỚC TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Từ khi ra đời cho đến nay, mặc dù với tên gọi khác nhau trong từng
giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của

giai cấp công nhân và nhân dân lao động - Nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Nhà nước đó có vai trị hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng CNXH.
Cuộc cách mạng XHCN ở nước ta là một q trình biến đổi tồn
diện, liên tục, sâu sắc và triệt để. Đó là q trình kết hợp cải tạo với xây
dựng, mà xây dựng là chủ yếu. Đó là q trình xóa bỏ cái lạc hậu, phát huy
cái tiến bộ, cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Phải xây dựng cả lực lượng
sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất mới; xây dựng cả cơ sở kinh tế mới lẫn
kiến trúc thượng tầng mới; xây dựng cả đời sống vật chất mới lẫn đời sống
tinh thần mới... [3, tr. 18].
Để đưa cách mạng XHCN đến thắng lợi hoàn toàn, "Điều kiện
quyết định trước tiên là phải thiết lập và khơng ngừng tăng cường chun
chính vơ sản thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động" [3, tr. 18].
Yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng XHCN địi hỏi phải
có một nhà nước mạnh có đủ năng lực quản lý đất nước. Ngay từ đầu,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập trung xây dựng và kiện tồn nhà nước
XHCN theo hướng tăng cường vai trị, hiệu lực của nhà nước về tổ chức và
quản lý kinh tế, văn hóa xã hội. Xác định rõ vai trị nhà nước - là cơng cụ
thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân, tiến hành tổ chức xây dựng
kinh tế nâng cao đời sống nhân dân lao động. "Nhà nước chun chính vơ
sản của ta phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân, một tổ chức đủ năng
lực tiến hành ba cuộc cách mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng


13
khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa), xây dựng chế độ mới, nền
kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới, bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân lao động" [3, tr. 61].
Để thực hiện vai trị đó - Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV đã

xác định từng bước thực hiện hệ thống quản lý kinh tế, nhằm vào những
vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội trong phạm vi cả
nước; cải tiến phương thức quản lý kinh tế lấy kế hoạch làm chính; kiện
tồn bộ máy quản lý kinh tế [3, tr. 61].
Vai trò nhà nước thể hiện rõ trong quản lý nền kinh tế bằng kế
hoạch hóa tồn bộ nền kinh tế quốc dân, quản lý nền kinh tế tập trung
thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Tuy nhiên, với cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp,
cùng với sai lầm khuyết điểm nóng vội, chủ quan duy ý chí, can thiệp vào
tất cả các hoạt động kinh tế (trói buộc các chủ thể kinh tế trong một cơ chế
quản lý, kế hoạch hóa sản xuất cứng nhắc), kết quả là sản xuất trì trệ, dẫn
đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Nhận thức được những sai lầm khuyết điểm trên, bắt đầu từ Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982), Đảng Cộng sản Việt Nam bước đầu đề
ra và từng bước thực hiện đổi mới chính sách kinh tế và quản lý kinh tế.
Xác định nền kinh tế gồm nhiều thành phần, nhiều trình độ kỹ thuật, nhiều
quy mơ hoạt động, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh và đang có nhiều
mất cân đối gay gắt. Do đó, thích ứng với nền kinh tế ấy phải có cơ chế
quản lý năng động, có khả năng xóa bỏ tập trung quan liêu, bảo thủ trì trệ
và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế
quản lý mới phải mở rộng quyền chủ động cho cơ sở, địa phương và ngành,
đồng thời bảo đảm cho trung ương nắm chắc những khâu cần quản lý. Lấy


14
kế hoạch nhà nước làm trung tâm, đòn bẩy, vận dụng các quan hệ thị trường thị trường có tổ chức... [3, tr. 72-73].
Thực hiện chủ trương đó, vai trị nhà nước trong kinh tế cũng từng
bước được chuyển đổi, từ quyết định toàn bộ các hoạt động kinh tế chuyển
dần sang quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, quyết tâm thực hiện đường lối

đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực. Trước hết là đổi mới kinh tế, đồng thời
với từng bước đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị - trọng tâm là đổi mới
vai trò nhà nước trong quản lý kinh tế. Thực hiện nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN với cơ chế quản lý kinh tế hạch toán kinh
doanh XHCN. Vai trò nhà nước chuyển hẳn từ can thiệp sâu vào các hoạt
động kinh tế sang quản lý kinh tế vĩ mô bằng các công cụ: Kế hoạch; pháp
luật; chính sách và sức mạnh kinh tế của các DNNN. Báo cáo chính trị Đại
hội VI xác định rõ: Cơ chế quản lý của nhà nước đối với lĩnh vực kinh tế
đó là quản lý hành chính - kinh tế, đối với xã hội là quản lý hành chính - xã
hội. Song cần thấy rằng, đây không phải là thứ hành chính quan liêu mà là
quản lý hành chính phản ánh đúng các quan hệ xã hội khách quan thành
những mệnh lệnh hành chính có tính bắt buộc chung cho mọi người tuân
theo - Nhà nước quản lý bằng các thể chế nhà nước trong mọi lĩnh vực.
Trong lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết nhấn mạnh: phân biệt rõ chức
năng của các cơ quan nhà nước (các bộ, các tổng cục...) là quản lý hành
chính - kinh tế với chức năng của các đơn vị kinh tế cơ sở là quản lý sản
xuất kinh doanh. Lâu nay do lẫn lộn chức năng này nên có tình trạng "các
cơ quan quản lý hành chính - kinh tế can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các đơn vị cơ sở nhưng lại khơng chịu trách nhiệm gì về
các quyết định của mình; các đơn vị ở cơ sở mất quyền tự chủ, lại bị ràng
buộc trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, xảy ra tình trạng


15
người làm nhiều bị khuyết điểm nhiều, người làm ít bị ít khuyết điểm, hạn
chế tính năng động sáng tạo của cơ sở, ỷ lại vào kế hoạch, mệnh lệnh bên
trên. Tiêu chí đánh giá về hiệu lực của bộ máy nhà nước bị sai lệch, các cơ
quan nhà nước buông lơi, không thực hiện chức năng quản lý hành chính kinh tế của mình.
Đổi mới tư duy kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của

Đảng đòi hỏi nhà nước phải tập trung thực hiện chức năng quản lý kinh tế
của mình - theo các nhiệm vụ:
- Xây dựng kịp thời chính sách, cân đối các kế hoạch kinh tế dài
hạn và kế hoạch kinh tế hàng năm cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Với
nước ta, phải xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội cho một thời kỳ phát
triển tương đối dài - thời kỳ quá độ lên CNXH.
- Xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ, thể lệ, định
mức... trong quản lý kinh tế.
- Xây dựng cơ chế quản lý mới và hệ thống tổ chức quản lý kinh tế
phù hợp với cơ chế đó, nhằm phát huy mạnh mẽ quyền chủ động trong sản
xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ khoa học kỹ thuật,
công nhân kỹ thuật có đủ phẩm chất năng lực...
Đại hội VII, VIII của Đảng tiếp tục đổi mới và nâng cao quá trình
nhận thức về phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Thực hiện kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN là chính sách nhất quán của Đảng. Đi đôi với
phát triển KTTT không thể tách rời với việc xây dựng và vận hành có hiệu
quả cơ chế quản lý mới "cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN".
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định:


16
Sản xuất hàng hóa khơng đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát
triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công
cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, thị trường
theo định hướng XHCN là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia
sản xuất lưu thơng, trong đó KTNN giữ vai trị chủ đạo, thị trường trong

nước gắn với thị trường thế giới.
Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch
nhà nước từ chỗ mang tính pháp lệnh thì hiện nay chủ yếu mang tính định
hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mơ. Thị trường có vai trị
trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và
phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.
KTTT định hướng XHCN ở nước ta yêu cầu tất yếu phải nâng cao
năng lực tự chủ của các chủ thể sản xuất kinh doanh, đồng thời xác lập đầy
đủ vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước nhằm phát huy tác dụng đi đơi với
ngăn ngừa hạn chế tiêu cực của nó. Điều đó đã được Đảng ta xác định như
là vấn đề có tính ngun tắc trong đổi mới kinh tế và đổi mới nhận thức về
vai trò nhà nuớc trong KTTT: "Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách, các cơng cụ địn bẩy kinh tế và các nguồn lực
của khu vực kinh tế nhà nước" [2, tr. 60]..
Để thực hiện các chủ trương đó, nhà nước phải tăng cường vai trị
quản lý của mình, xây dựng các thể chế kinh tế phù hợp với các quan hệ
KTTT. Nhà nước phải tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường, các loại
hình thị trường như: thị trường hàng hóa - dịch vụ; thị trường lao động; thị
trường bất động sản; thị trường vốn; thị trường tài chính, tiền tệ...
Nhà nước phải hồn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế, tạo hành
lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh. Pháp
luật phải thực sự trở thành công cụ để nhà nước quản lý nền kinh tế.


17
Cùng với hệ thống pháp luật đồng bộ, nhà nước phải tiếp tục đổi
mới cơng tác kế hoạch hóa điều tiết nền KTTT hướng theo mục tiêu CNH,
HĐH đất nước. Hệ thống kế hoạch phải quán triệt đường lối chủ trương của
Đảng, đưa ra các mục tiêu vĩ mô, xác định tốc độ phát triển, cơ chế và các
cân đối lớn, xác định chính sách, giải pháp để dẫn dắt thị trường hoạt động

theo hướng phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của KTTT.
Nhà nước phải thực hiện tốt các chức năng định hướng sự phát triển
bằng cách đổi mới và hoàn thiện các thể chế tài chính, tiền tệ, trực tiếp đầu
tư vào một số lĩnh vực mà tư nhân không muốn đầu tư hoặc không thể kinh
doanh được, một số lĩnh vực có vai trị dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo
định hướng XHCN, thiết lập khn khổ pháp luật; hoạch định hệ thống
chính sách nhất quán, tạo môi trường thể chế ổn định thuận lợi cho sản xuất
kinh doanh; khắc phục những hạn chế của KTTT; phân phối và phân phối
lại thu nhập quốc dân, bảo đảm về mặt xã hội cho công dân.
Thực chất chức năng của nhà nước theo quan điểm của Đảng ta:
Nhà nước vừa là chủ thể kinh tế vừa là cơ quan duy nhất có quyền lực quản
lý nhà nước nền kinh tế, định hướng và điều tiết nền kinh tế phát triển theo
định hướng XHCN. Sự thành bại trong quá trình quản lý, điều tiết trong
nền KTTT của nhà nước XHCN sẽ quyết định quy mô năng lực của nó
trong đời sống chính trị xã hội và tính định hướng XHCN của nền kinh tế
nước ta.


18

Phần II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Xác định đúng vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, những năm qua chúng ta đã
từng bước chuyển nền kinh tế từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trường. Theo
hướng đó, vai trị nhà nước đã từng bước chuyển đổi từ chỉ huy mệnh lệnh
hành chính sang quản lý hành chính nền kinh tế. Với việc xác định đúng

vai trị nhà nước trong KTTT đã góp phần quan trọng khắc phục khủng
hoảng kinh tế - xã hội và đã đạt được tăng trưởng kinh tế, cải thiện được
đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới vẫn còn tồn tại những quan điểm
nhận thức lệch lạc về vai trò nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN
ở nước ta, dẫn đến trong tổ chức thực hiện ở một bộ phận cán bộ công chức
vẫn nặng về quan liêu mệnh lệnh, can thiệp quá sâu, thậm chí làm thay cho
các doanh nghiệp...
Những sai lầm đó, xuất phát từ những ý kiến cho rằng chỉ trong nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, khi bộ máy nhà nước là người trực
tiếp tổ chức và điều khiển nền sản xuất xã hội với hệ thống kế hoạch chỉ
tiêu pháp lệnh và mệnh lệnh hành chính thì mới cần đến vai trò quản lý,
điều hành của nhà nước, cịn trong cơ chế thị trường thì cứ để cho các
thành phần kinh tế phát triển tự do, thị trường sẽ định hướng, dẫn dắt cả
người sản xuất kinh doanh lẫn người tiêu dùng. Quan niệm như vậy, dường
như đã lặp lại quan điểm "Nhà nước tối thiểu và thị trường tối đa", Với
quan điểm đó, tất yếu dẫn đến tình trạng bng lỏng quản lý nhà nước, làm


19
xuất hiện tình trạng thả nổi, vơ chính phủ, để những mặt tiêu cực của
KTTT phát triển, tạo cơ hội cho những kẻ thối hóa biến chất và các thế lực
xấu lũng đoạn thị trường, đục khoét tài sản của nhà nước và nhân dân như
vừa qua. Mặt khác, làm cho tình trạng quan liêu, cửa quyền, mất dân chủ,
thủ tục rườm rà, qua nhiều khâu, nhiều nơi vẫn đang tiếp tục hạn chế sự
phát triển của LLSX gây không ít khó khăn cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh và làm cho nhân dân bất bình với Đảng với Nhà nước như ở
một số địa phương có "điểm nóng" vừa qua.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng trong KTTT, Nhà
nước chỉ cần quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô, không can thiệp sâu vào q

trình kinh tế, cịn các doanh nghiệp, các cơ sở kinh tế muốn làm gì thì làm,
nghĩa là tự chủ động xử lý một cách khơn khéo và có lợi nhất.
Quan điểm này, mới chỉ dừng lại ở lối suy luận logic hình thức và
là một nhận thức khơng đầy đủ về quản lý vĩ mô.
Thực tiễn những năm đổi mới cho chúng ta thấy: "Đúng là chúng ta
vẫn đang còn nắm quá chặt những cái cần mở rộng; Đồng thời lại đang
buông lỏng những cái cần phải nắm" [13, tr. 14].
Theo chúng tôi, phải khắc phục những nhận thức không đúng trên
và phải thống nhất nhận thức đúng đắn hơn về vai trò nhà nước trong nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Đây là vấn đề khơng chỉ có ý
nghĩa về mặt lý luận mà cả với thực tiễn hiện nay trong việc tăng cường vai
trò nhà nước trong KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn cho chúng ta thấy, nền KTTT định hướng XHCN rất cần
đến vai trị nhà nước, nhưng khơng phải một vai trò nhà nước theo những
quan niệm trên mà là một nhà nước XHCN pháp quyền của dân, do dân và
vì dân. "Quá trình chuyển đổi cơ chế hiện nay không cho phép chúng ta


20
tiếp tục quản lý theo lối cũ mà đòi hỏi phải đổi mới nhận thức, quan niệm
cũng như tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước" [13, tr. 14].
Việc tổ chức và phương thức hoạt động với các chức năng của nhà
nước ta phải xem xét từ bản chất của nhà nước XHCN pháp quyền của dân,
do dân và vì dân, chứ khơng phải sự vay mượn hoặc áp đặt.
Theo tinh thần đó, trên cơ sở quan điểm của Đảng chúng ta cần
nhận thức chức năng của nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta như sau:
Trước hết, nhà nước phải tạo lập được các thể chế, hệ thống pháp
luật, tạo môi trường lành mạnh cho các hoạt động sản xuất kinh doanh,
thiết lập đồng bộ các yếu tố và cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.

Đồng thời, nhà nước phải định hướng phát triển xã hội thơng qua
việc hoạch định các chính sách lâu dài, được cụ thể hóa thành các chương
trình, kế hoạch xây dựng phát triển kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế đi đôi với công bằng và tiến bộ xã hội.
Cùng với chức năng tạo điều kiện và định hướng phát triển kinh tế xã hội, nhà nước phải điều tiết, quản lý nền kinh tế bằng các cơng cụ vĩ mơ
(kế hoạch, pháp luật, chính sách). Kiểm soát được nền kinh tế, ngăn ngừa
những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, tích cực giải quyết những
vấn đề xã hội...
Song song với việc thực hiện chức năng quản lý xã hội, nhà nước ta
còn là người đại diện cho nhân dân thực hiện vai trị sở hữu đối với tài sản
thuộc sở hữu tồn dân. Sử dụng các DNNN trong việc đảm bảo hàng hóa
và dịch vụ cơng cộng. Coi đó là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô
quan trọng. Đây là một chức năng đặc thù của nhà nước ta, nắm giữ những
bộ phận then chốt để chi phối nền kinh tế theo định hướng XHCN.



×