Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận cao học, những vấn đề cơ bản cải cách hành chính nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.54 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hành chính quốc gia là bộ phận trọng tâm hết sức quan trọng của bộ máy
Nhà nước (BMNN) làm chức năng thực thi quyền lực hành pháp, bao gồm hệ
thống tổ chức, thiết chế định chế, bao quát mọi hoạt động xã hội, làm cho mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc
sống đưa lại lợi ích cho nhân dân. Có thể nói năng lực, quyền lực, hiệu quả của
Nhà nước, xét đến cùng đều thể hiện ở hiệu quả hoạt động của nền hành chính
quốc gia.
Cải cách hành chính (CCHC) là yêu cầu thường xuyên ở nhiều nước trên thế
giới. Nội dung CCHC ở mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm có những yêu
cầu riêng, tuỳ thuộc nhiều yếu tố khác nhau, song nhìn chung hướng về mục đích
làm cho bộ máy hành chính Nhà nước (HCNN) hoạt động có hiệu lực và hiệu quả
nhằm phục vụ tốt nhất, các mục tiêu chương trình, chính sách nhà nước về phát
triển kinh tế – xã hội.
Ở Việt Nam từ thập kỷ cuối của thế kỷ XX, CCHC đã trở thành một yêu cầu
bức xúc, vừa phải giải quyết những nhiệm vụ cấp bách để đáp ứng sự phát triển
mạnh mẽ của kinh tế – xã hội đang chuyển đổi theo cơ chế mới, vừa phải củng cố
cơ sở chiến lược lâu dài cho sự phát triển bền vững của một nền hành chính mang
tính chất “của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng. CCHC Nhà nước
là một trong những nội dung mang tầm chiến lược trong công cuộc đổi mới ở Việt
Nam. Mục tiêu CCHC là xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh,
nâng cao hiệu lực và hiệu quả, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho phát triển
kinh tế – xã hội, phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế thế giới. CCHC được tiến
hành đồng bộ trên các mặt; cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy; xây dựng
đội ngũ cơng chức quản lý nhà nước (QLNN); quản lý tài chính công và thực hiện
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Việt Nam, Đảng ta ngày càng
nhận thức rõ hơn về những vấn đề cần thiết nhằm xây dựng và từng bước kiện toàn
bộ máy HCNN phù hợp với sự phát triển của đất nước và nhiệm vụ cụ thể của mỗi
giai đoạn cách mạng. Ngay trong bước đầu khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi


mới đất nước, Đảng đã nhận thức được yêu cầu tất yếu của CCHC, do đó, đã sớm
đề cập tới vấn đề CCHC và ngày càng có sự lãnh đạo chỉ đạo cụ thể hơn đối với
vấn đề này. Sự hình thành và phát triển những quan điểm của Đảng về CCHC là
một quá trình nhận thức liên tục và nhất quán.
1


Vì vậy, mà cơng cuộc đổi mới tồn diện của đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn, quan trọng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong nhiều năm
qua. Thành tựu đó có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân cơ bản, quan
trọng đó là cải cách nền HCNN mà nguyên nhân mang tính đột phá từ cơ chế chính
sách.
Thành cơng nổi bật của cải cách thể chế là giảm dần thể chế hành chính đơn
thuần sang thể chế kinh tế, phát huy tính chủ động sáng tạo và chịu trách nhiệm của
các cấp bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp và công dân, tách quản lý nhà
nước và quản lý sản xuất – kinh doanh, xoá dần quan niệm chủ quản trực thuộc. Từ
đó nền HCNN ngày càng tập trung đi sâu theo hướng dân chủ hiện đại.
Gần 20 năm đổi mới, CCHC tuy đã đạt được một số kết quả nhưng vẫn cịn
nhiều khó khăn yếu kém. Thể chế của CCHC; bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ
và quản lý tài chính cơng; cải cách cịn chậm thiếu đồng bộ so với u cầu phát
triển trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước cũng như
xu thế phát triển của thế giới.
Để đạt được mục tiêu lý tưởng XHCN là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” nói chung và mục tiêu CCHC nói riêng thì phải
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới bản thân hệ thống chính trị, cải cách nền
hành chính quốc gia cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới. Bởi vì CCHC có
hiệu lực, hiệu quả là phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và cả hệ thống chính trị và
ngược lại Đảng lãnh đạo thành cơng cách mạng là đổi mới hệ thống chính trị và từ
năng lực, hiệu quả quản lý HCNN.
Căn cứ vào điều kiện thực tiễn cách mạng trong nước cũng như kinh nghiệm

của thế giới, chúng ta cần phải cải cách nền HCNN một cách có hệ thống, chính
quy và hiện đại. CCHC Nhà nước, là vấn đề được Đảng, Nhà nước và xã hội quan
tâm sâu sắc là vấn đề cấp thiết hiện nay. Chính vì thế qua nghiên cứu học tập mơn
Quản lý Hành chính Nhà nước em chọn đề tài: Những vấn đề cơ bản cải cách
hành chính Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay làm tiểu luận.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Tìm ra những khuyết điểm, yếu kém, tồn tại của quá trình CCHC, nhằm
xác định đúng mục tiêu, quan điểm, nội dung giải pháp CCHC Nhà nước ta.
- Nhiệm vụ của đề tài là làm rõ những vấn đề cơ bản về CCHC Nhà nước ta
từ khi đổi mới đến nay. Tìm ra thực trạng nội dung CCHC để có giải pháp kiến
nghị khắc phục.
3. Phương pháp nghiên cứu
2


- Nghiên cứu đề tài này được thực hiện trên cơ sở học thuyết Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về quản lý HCNN.
- Phương pháp biện chứng, phân tích, lơgíc.
I. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ, QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ
NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1. Những khái niệm cơ bản về quản lý, QLNN và QLHCNN
1.1. Khái niệm về quản lý
Từ khi có lao động tập thể quản lý xuất hiện như một yếu tố cần thiết để
phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới mục tiêu nhất định. Ở đâu có hoạt động
chung của con người thì ở đó có quản lý. Hoạt động quản lý là kết quả của sự phân
công và hợp tác lao động. Phân công lao động xã hội càng phát triển thì hoạt động
quản lý càng phong phú đa dạng và phức tạp. Ngày nay quản lý đã trở thành thiết
yếu phổ biến ở mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và liên quan đến mọi người, mọi tổ chức
chính trị xã hội.

Quản lý có nhiều khái niệm khác nhau ở từng góc độ tiếp cận nghiên cứu.
Theo nghĩa rộng: Quản lý là hoạt động có mục đích và theo phương thức
hoạt động chung để đạt tới mục đích đó.
Theo từ điển Bách khoa: Quản lý là tổ chức điều khiển và theo dõi thực hiện.
Theo điều khiển học: Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một
quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ
thống hay quá trình vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những
mục đích đã định trước.
Vấn đề quản lý mà chúng ta quan tâm nghiên cứu là quản lý xã hội, QLNN.
Quản lý (quản lý xã hội) đã được C.Mác coi là một chức năng đặc biệt nảy
sinh từ bản chất xã hội của q trình lao động. Nhấn mạnh nội dung trên ơng viết
“Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên qui
mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động
của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của
nó. Một người độc tấn vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì
cần phải có một nhạc trưởng”. Mác - Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 1993, tập 23, tr.480. Luận điểm trên của Mác có thể áp dụng cho
mọi hoạt động chung của con người trong xã hội.
3


Lênin phát triển quan điểm của Mác cho rằng: Trong tổ chức quản lý khơng
chỉ có thuyết phục mà cịn biết phải tổ chức về thực tiễn. Lênin muốn trên cơ sở
khoa học quản lý thì trong thực tế chủ thể quản lý còn phải áp dụng sáng tạo trong
quản lý bằng cách thức, hình thức nào để quản lý có hiệu quả cao. Vậy lý thuyết và
thực tiễn phải gắn bó chặt chẽ với nhau.
Bất cứ một tổ chức, một lĩnh vực nào, quản lý bao giờ cũng được xem là một
hệ thống bao gồm hai phần hệ: Chủ thể quản lý và khách thể quản lý (đối tượng
quản lý). Đối tượng quản lý (hệ thống bị quản lý) là một hệ thống năng động đòi

hỏi chủ thể quản lý phải luôn luôn tự đổi mới cho phù hợp. Chủ thể quản lý tác
động đến đối tượng quản lý thông qua hệ thống các phương pháp, công cụ quyết
định. Bằng những mối liên hệ ngược, các cơ quan quản lý thu thập được những dữ
liệu về đối tượng quản lý để điều chỉnh tác động cho phù hợp. Theo quan điểm
hiện đại, quản lý không chỉ là sự tác động, chi phối mà còn dẫn dắt, hỗ trợ các nỗ
lực phát triển để phát huy được năng lực nội sinh của đối tượng.
Quá trình quản lý được thể hiện qua sơ đồ sau:

Chủ thể
quản lý

Công
cụ

Khách
thể quản


Phương
pháp

M
ục

Trong công tác quản lý, có rất nhiều yếu tố tác động nhưng đặc biệt có 6
yếu tố: xã hội (yếu tố con người); chính trị; tổ chức; quyền uy; thơng tin; văn
hố tổ chức.
1.2. Quản lý Nhà nước và Quản lý hành chính Nhà nước
1.2.1. Khái niệm quản lý Nhà nước
QLNN là hoạt động của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành

pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà
nước.
Nói cách khác, QLNN là sự tác động của chủ thể mang tính quyền lực nhà
nước, chủ yếu bằng pháp luật từ các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức
năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Như vậy tất cả cơ quan Nhà nước đều làm
chức năng QLNN.
4


Pháp luật là phương tiện chủ yếu để Nhà nước quản lý xã hội. Bằng pháp
luật, Nhà nước có thể trao quyền cho các tổ chức xã hội hoặc các cá nhân để họ
thay mặt Nhà nước tiến hành hoạt động QLNN.
QLNN khác các dạng quản lý khác vì QLNN mang tính tồn diện rộng rãi
nhất, bao trùm nhất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2.2. Khái niệm quản lý hành chính Nhà nước
QLNN trong lĩnh vực hành pháp là quản lý hành chính Nhà nước
(QLHCNN).
- QLHCNN là một hình thức hoạt động của Nhà nước được thực hiện
trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan HCNN, có nội dung là bảo đảm sự chấp
hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước nhằm tổ
chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xun cơng cuộc xây dựng kinh tế,
văn hố - xã hội và hành chính – chính trị. Nói cách khác QLHCNN là hoạt động
chấp hành điều hành.
- QLHCNN là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, đó là sự
tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình
xã hội và hành vi hoạt động của cơng dân. QLHCNN do các cơ quan trong hệ
thống Chính phủ từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng nhiệm
vụ duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật, thoả mãn các nhu
cầu hợp pháp của cơng dân.
- Tính chất chấp hành thể hiện ở mục đích của QLHCNN là bảo đảm thực

hiện trên thực tế các văn bản pháp luật của các cơ quan QLNN. Mọi hoạt động
QLHCNN đều được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật.
- Tính chất điều hành của QLHCNN thể hiện ở chỗ để đảm bảo cho các văn
bản pháp luật của các cơ quan QLNN được thực hiện trên thực tế, các chủ thể
QLHCNN phải tiến hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối
tượng quản lý thuộc quyền quản lý.
Trong quá trình điều hành, cơ quan HCNN có quyền nhân danh Nhà nước
ban hành các văn bản pháp luật để đặt ra các quy phạm pháp luật (QPPL) hay các
mệnh lệnh cụ thể bắt buộc các đối tượng quản lý có liên quan phải thực hiện.
Quyền hành pháp của QLHCNN gồm 2 quyền: quyền lập quy và quyền
hành chính.
5


Quyền lập quy: Là quyền ban hành các văn bản pháp quy để thực thi và cụ
thể hoá luật của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội thuộc phạm vi của quyền hành pháp.
Quyền hành chính: Quyền tổ chức điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội
đưa pháp luật vào đời sống nhằm duy trì, giữ gìn trật tự, an ninh xã hội, phục vụ lợi
ích của cơng dân; sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính và cơng sản để phát triển đất
nước một cách có hiệu quả.
Như vậy các chủ thể QLHCNN sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức và
điều khiển hoạt động của các đối tượng quản lý qua đó thể hiện một cách rõ nét
mối quan hệ “quyền lực – phục tùng” giữa chủ thể quản lý và các đối tượng quản
lý. Hoạt động điều hành là một nội dung cơ bản của hoạt động chấp hành QLNN,
nó gắn với hoạt động chấp hành và cùng với hoạt động chấp hành tạo thành hai mặt
thống nhất của QLHCNN. Hoạt động QLHCNN được đặt dưới sự giám sát của cơ
quan quyền lực Nhà nước nhưng vẫn mang tính chủ động sáng tạo. Tính chủ động
sáng tạo của hoạt động QLHCNN được thể hiện rõ nét trong quá trình các chủ thể
QLHCNN đề ra chủ trương biện pháp quản lý thích hợp đối với các đối tượng khác

nhau tạo điều kiện cho họ lựa chọn cách thức tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ trên
cơ sở nghiên cứu xem xét tình hình cụ thể.
Chủ thể QLNN và các tổ chức hay cá nhân mang quyền lực Nhà nước trong
quá trình tác động tới đối tượng quản lý. Chủ thể QLNN bao gồm: Nhà nước, cơ
quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân được Nhà nước uỷ quyền thực hiện hoạt động
QLNN.
Khách thể QLNN là trật tự QLNN, trật tự này do pháp luật quy định.
Chủ thể QLHCNN là các CQNN (chủ yếu là các cơ quan HCNN) các cán
bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức và cá nhân được Nhà nước
trao quyền QLHCNN trong một số trường hợp cụ thể.
Các chủ thể kể trên khi tham gia vào các cơ quan QLHC có quyền sử dụng
quyền lực nhà nước để chỉ đạo các đối tượng quản lý thuộc quyền nhằm thực hiện
nhiệm vụ quản lý đồng thời bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia quan hệ QLHCNN.
2. Nền hành chính Nhà nước
2.1. Khái niệm nền hành chính Nhà nước
6


Thuật ngữ hành chính, theo ngun nghĩa, đó là sự quản lý của BMNN, xuất
hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Sự quản lý đó khác hồn tồn với mọi sự
quản lý thông thường của một chủ thể đối với khách thể nào đó.
Như vậy, nói đến sự QLNN tức là nói đến nền HCNN, nền hành chính cơng
hay cịn gọi là nền hành chính quốc gia.
Đảng ta khẳng định: nền hành chính quốc gia là một bộ phận lớn nhất trong
cơ cấu Nhà nước, đảm nhận những chức năng thực thi quyền hành pháp để quản lý,
điều hành mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng và thực thi quyền lực của nhân dân.
Có thể định nghĩa nền HCNN như sau:
Nền HCNN là tổng thể các tổ chức và qui chế hoạt động của bộ máy hành

pháp, có trách nhiệm quản lý cơng việc hàng ngày của Nhà nước do các cơ quan
có tư cách pháp nhân công quyền tiến hành bằng những văn bản luật và văn bản
dưới luật để giữ gìn trật tự cơng, bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hàng
ngày của cơng dân.
Với ý nghĩa HCNN (hành chính cơng hay hành chính quốc gia) nó là hệ
thống các chức năng của Nhà nước đảm bảo thực thi quyền hành pháp và hoạt
động liên tục của BMNN, các công sở. Nền hành chính cũng có nghĩa là tồn bộ
các cơng sở và công chức đặt dưới quyền quản lý của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ và các Bộ trưởng.
Như vậy HCNN gồm các bộ phận:
- Thể chế của nền HCNN.
- Tổ chức bộ máy của nền HCNN.
- Nền công vụ và công chức Nhà nước.
- Nguồn ngân sách Nhà nước phục vụ cho hoạt động hành chính (tài chính
cơng) ngồi ra cũng còn xem xét tới hai yếu tố khác được xem là điều kiện (hay cơ
sở vật chất) đảm bảo cho nền hành chính hoạt động có hiệu lực và hiệu quả:
- Công sở.
- Công sản.
Thể chế nền HCNN là sự phân chia, xác định chức năng, thẩm quyền của
từng cơ quan, từng cấp trong nền hành chính, được thể hiện qua các văn bản pháp
luật của Nhà nước.
7


Tổ chức bộ máy của nền HCNN các cấp, các ngành từ Chính phủ trung
ương đến cơ sở.
Nền cơng vụ và công chức nhà nước bao gồm những người thực thi cơng vụ
trong bộ máy hành chính cơng quyền được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Tài chính cơng là tài chính của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ của Nhà
nước, do cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước quyết định bằng cách huy động

các quyền lực và phân bổ quyền lực cho các đối tượng và lĩnh vực kinh tế – xã hội,
đảm bảo sự cân đối tài chính quốc gia.
Cơng sở Nhà nước là nơi giải quyết công việc hàng ngày của một CQNN.
Công sản là các phương tiện, trang thiết bị, trang bị phục vụ cho cơng sở…
2.2. Hành chính Nhà nước trong hệ thống các tổ chức quyền lực Nhà nước
Nhà nước ra đời là sản phẩm của những mâu thuẫn không thể điều hoà được,
là một sản phẩm lịch sử của xã hội có giai cấp với hai dấu hiệu cơ bản:
- Quyền lực xã hội trở thành một quyền lực đặc biệt, quyền lực công quyền
với một bộ máy hoạt động chuyên nghiệp.
- Sự phân chia dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ để quản lý (dưới sự
cai trị của một bộ máy quyền lực Nhà nước).
Từ khi có Nhà nước, xã hội được tổ chức và hoạt động trong khn khổ các
thiết chế mang tính pháp lý mà cộng đồng dân cư thiết lập nên bằng trình độ, kinh
nghiệm truyền thống và phương pháp khác nhau.
Nhà nước trở thành một pháp nhân, pháp nhân công quyền – lớn nhất, nắm
chủ quyền quốc gia. Nhà nước mang tính pháp quyền, với một bộ máy cai trị và
những công cụ chun chính, đồng thời Nhà nước có chức năng quan trọng khác là
quản lý toàn bộ xã hội. Bộ máy Nhà nước tồn tại và hoạt động dựa trên nguồn thuế
đóng góp của cơng dân theo qui định mà Nhà nước đặt ra.
Trên thế giới trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau với các kiểu Nhà nước
khác nhau, hình thức nhà nước khác nhau với các tên gọi khác nhau. Song bản chất
quyền lực Nhà nước với ba bộ phận (ba nhánh) cấu thành: Quyền lập pháp, quyền
hành pháp, quyền tự pháp vẫn không thay đổi. Từ khi nhà nước tư sản ra đời tới
nay, bộ máy nhà nước bao gồm cả ba loại tổ chức: Quốc hội (có nhiều tên gọi và
cách tổ chức khác nhau) giữ quyền lập pháp; Chính phủ giữ quyền hành pháp, Tồ
án giữ quyền tư pháp.
8


Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), Quốc hội là

cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân; là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập
pháp; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và đối nội, đối ngoại;
quyết định việc lập Chính phủ, Tồ án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân; giám
sát các hoạt động của các CQNN.
Quyền hành pháp và HCNN cao nhất được giao cho Chính phủ. Chính phủ
có quyền lập quy (ban hành các văn bản dưới luật thường gọi là văn bản pháp quy)
và quyền hành chính (là quyền tổ chức ra bộ máy quản lý công việc hàng ngày của
Nhà nước, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và công dân).
Quyền tư pháp tức là quyền bảo vệ, giám sát việc thực thi pháp luật do Toà
án và Viện kiểm sát nhân dân đảm nhiệm.
Như vậy hành chính tức là “hành pháp hành động” cho nên HCNN với
trách nhiệm QLNN chỉ bao gồm hoạt động quản lý của bộ máy hành pháp chứ
khơng phải tồn bộ BMNN.
Trên thế giới tồn tại nhiều hình thức tổ chức Chính phủ. Song dù là hình
thức tổ chức nào, thì các Chính phủ đều phải thực hiện chức năng của cơ quan hành
pháp thông qua một thể chế, tổ chức, bộ máy và đội ngũ công chức chuyên nghiệp
gọi là nền HCNN.
Sơ đồ: Nền HCNN trong hệ thống tổ chức quyền lực Nhà nước (kiểu Nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Quyền lực Nhà
nước
là thống nhất
Quyền
Lập pháp

Quyền
Hành pháp
Quyền
Lập quy


Bầu cử

Nền hành
chính Nhà
nước (hành
chính Quốc
gia)

Quyền
Tư pháp
Quyền
Hành
chính

Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân
9

Bầu cử


2.3. Khái niệm về cải cách hành chính Nhà nước
Theo nghĩa rộng: Cải cách HCNN có thể hiểu là một quá trình thay đổi cơ
bản, lâu dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành pháp và tất cả các hoạt
động có ý thức của BMNN nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ máy và các cá
nhân vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp các nguồn lực để tạo ra hiệu
lực, hiệu quả quản lý và các sản phẩm (dịch vụ hoặc hàng hố) phục vụ nhân dân
thơng qua các phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực.
Hiểu theo nghĩa này, cải cách HCNN là những thay đổi được thiết kế có chủ
định nhằm cải tiến một cách cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của BMNN:
Lập kế hoạch; định thể chế; tổ chức cơng tác cán bộ, tài chính; chỉ huy; phối hợp;

kiểm tra; thông tin và đánh giá.
Theo nghĩa hẹp: Cải cách HCNN có thể hiểu như là một quá trình thay đổi
nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương
pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong lĩnh
vực quản lý của bộ máy HCNN.
Theo tài liệu hiện có ở nước ta, căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám
của Ban chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) có
thể định nghĩa cải cách HCNN là quá trình thay đổi có chủ định nhằm hồn thiện
thể chế của nền hành chính; cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành
chính các cấp và đội ngũ cơng chức hành chính để nâng cao hiệu lực năng lực và
hiệu quả hoạt động của nền hành chính cơng phục vụ dân.
2.4. Cải cách Hành chính Nhà nước là một đòi hỏi tất yếu khách quan
Từ những thập niên 80 của thế kỷ XX các nước trên thế giới đã quan tâm
đến CCHC, cải cách HCNN là một tất yếu khách quan do một số căn cứ sau đây:
Thứ nhất, những thành tựu khoa học và công nghệ tác động mạnh mẽ đến
qui trình quản lý. Điều đó địi hỏi phải cải cách nền hành chính cũ, sắp xếp lại bộ
máy, bố trí lại nhân sự để theo kịp những tiến bộ chung của thế giới.
Thứ hai, nền kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia ln ln thay đổi và phát
triển, địi hỏi chủ thể phải thay đổi cho phù hợp. Đặc biệt ở Việt Nam khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường phải xây dựng nền hành chính năng động, phù hợp với
cơ chế kinh tế mới.
10


Nền hành chính mới phải thích ứng với các qui luật của kinh tế thị trường,
đồng thời khắc phục các khuyết tật của kinh tế thị trường. Nhà nước thông qua nền
hành chính giảm sự can thiệp của Nhà nước tới các hoạt động kinh tế; Xã hội hoá
các hoạt động xã hội để phù hợp với quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường;
phát triển thị trường các yếu tố sản xuất. Nhà nước luôn luôn chăm lo nâng cao đời
sống của nhân dân qua việc tăng cường quyền làm chủ của nhân dân, giảm tham

nhũng và tiêu cực và các khuyết tật của cơ chế thị trường.
Thứ ba, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực,
thể hiện q trình tồn cầu hố và khu vực hố. Những q trình đó gặp phải rào
cản là sự khác nhau về mơ hình hành chính, phương thức quản lý cũng như trình độ
của các nền hành chính.
Thứ tư, nền hành chính truyền thống thiên về sử dụng quyền lực để cai trị
ngày càng tỏ ra khơng thích ứng với xu thế phát triển khi trình độ dân trí ngày một
cao và những địi hỏi mở rộng dân chủ ngày càng trở nên cấp bách.
Hiện nay có hai phương thức cải cách chủ yếu là “liệu pháp sốc” và phương
thức theo từng bước vững chắc. Kinh nghiệm một số nước cho thấy phương thức
đột biến theo “liệu pháp sốc” đã đưa tới mất ổn định chính trị, rối loạn và bất mãn
trong nhân dân. Bản thân các nhà cải cách cũng bị rơi vào thế bị động, thậm chí có
thể trượt vào con đường đổ vỡ cả chế độ.
Việt Nam chủ trương cải cách mang tính chất cơ bản và hệ thống nhưng theo
phương thức từng bước, dần dần và vững chắc. Tuy có lúc có thể dùng biện pháp
cải cách mạnh trong những cục bộ và thời gian nhất định nhưng không gây ra
những xáo động dây truyền. Trong tiến trình này cần xác định trọng tâm ưu tiên,
những khâu đột phá cần làm trước theo một kế hoạch và chiến lược lâu dài.
3. Quan điểm của Đảng ta về cải cách hành chính Nhà nước từ khi đổi
mới đến nay
Ngay từ Đại hội VI Đảng ta xác định việc đổi mới BMNN là một yêu cầu
cấp bách, khách quan nhằm quản lý và điều hành nền kinh tế nhiều thành phần.
Các Nghị quyết tiếp theo của Đảng ngày càng cụ thể hoá chủ trương về CCHC
trong đó Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám khoá VII đã xác định mục
tiêu, nhiệm vụ và nội dung CCHC ở nước ta. Nghị quyết đã thể hiện rõ chủ trương
của Đảng trong việc đặt vị trí CCHC thành một bộ phận quan trọng trong đường lối
đổi mới toàn diện và coi CCHC là một trong những ưu tiên hàng đầu của chiến
11



lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới tiếp theo. Các
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần 3, 6 (lần 2) và 7 (khoá VIII) tiếp tục khẳng
định những quan điểm của Đảng về CCHC và chỉ rõ CCHC phải được tiến hành
đồng bộ với cải cách kinh tế, với việc đổi mới hệ thống chính trị.
Đại hội IX Đảng ta tiếp tục khẳng định “cải cách và kiện toàn bộ máy
HCNN, xây dựng một nền HCNN dân chủ, trong sạch, vững mạnh từng bước hiện
đại hoá”.
Với sự lãnh đạo của Đảng các bước CCHC, từ khâu đột phá đến các mô hình
cải cách thí điểm đã được tiến hành ở các cấp, ngành, địa phương. Chủ trương của
Đảng về CCHC được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đã tạo ra những chuyển biến
bước đầu về nhận thức trong xã hội và được sự đồng tình chờ đón của các tầng lớp
nhân dân. Trên thực tế chủ trương về CCHC đã được thể chế hoá bằng nhiều văn
bản của Nhà nước và đã góp phần tạo được sự chuyển động bước đầu trên nhiều
lĩnh vực kinh tế xã hội cũng như trong QLHCNN.
Tuy nhiên so với yêu cầu phát triển của đất nước và mục tiêu đã đề ra thì
việc triển khai CCHC cịn những hạn chế bất cập Báo cáo chính trị tại Đại hội IX
của Đảng nhận định: CCHC tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp là
một trong những nguyên nhân dẫn đến chậm khắc phục khuyết điểm và hạn chế
thành tựu.
II. THỰC TRẠNG, MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

1. Thực trạng nền HCNN cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Nghị quyết Trung ương VIII (khoá VII),
Nghị quyết Đại hội VIII các Nghị quyết Trung ương III, Trung ương VI (lần 2) và
Trung ương VII (khố VIII) cơng cuộc CCHC gần 15 năm qua (1991 - 2005) đã
góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước. Những kết quả rõ nét có ý nghĩa CCHC thời gian qua.
1.1. Ưu điểm
Chức năng và hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính từ

Chính phủ, các bộ, các ngành Trung ương đến Uỷ ban nhân dân các cấp đã có
nhiều thay đổi tiến bộ, tập trung nhiều hơn về QLNN.

12


Từng bước đổi mới thể chế hành chính trên các lĩnh vực, trước hết là hình
thành thể chế kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp được
sắp xếp, điều chỉnh tinh gọn hơn trước; bộ máy hành chính từ Trung ương đến cơ
sở vận hành phát huy tác dụng hiệu quả tốt.
Việc quản lý, sử dụng cán bộ, công chức được đổi mới một bước theo qui
định của pháp lệnh cán bộ, công chức: Từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi nâng
ngạch khen thưởng, kỷ luật đến đào tạo, bồi dưỡng. Chế độ chính sách tiền lương
bước đầu được cải cách theo hướng tiến bộ hố.
Tuy nhiên cải cách hành chính Nhà nước (CCHCNN) cho đến nay vẫn còn
nhiều khuyết điểm, tồn tại hạn chế.
1.2. Khuyết điểm, tồn tại, hạn chế
Nền HCNN còn mang nặng dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu
bao cấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế mới cũng như yêu cầu phục vụ
nhân dân trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Chức năng, nhiệm vụ QLNN của bộ máy hành chính trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN chưa được xác định thật rõ ràng và phù hợp: sự phân
công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật sự rành mạch;
Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng bộ còn chồng chéo và thiếu thống
nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực cịn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ
cương chưa nghiêm;
Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh nhiều tầng nấc; phương thức quản lý hành
chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán, chưa thơng suốt; chưa có những cơ

chế, chính sách tài chính thích hợp với hoạt động của các cơ quan hành chính đơn
vị sự nghiệp, tổ chức làm dịch vụ cơng;
Đội ngũ cán bộ cơng chức (CBCC) cịn nhiều yếu điểm về phẩm chất tinh
thần trách nhiệm, năng lực chuyên mơn, kỹ năng hành chính, phong cách làm việc
chậm đổi mới; tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra
nghiêm trọng trong một bộ phận CBCC;
Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với nhân
dân, khơng nắm chắc được những vấn đề nổi cộm trên địa bàn lúng túng, bị động
khi xử lý các tình huống phức tạp.
13


Tình hình trên đây do nhiều nguyên nhân gây ra:
Trước hết; nhận thức của CBCC về vai trò chức năng quản lý của Nhà nước,
về xây dựng bộ máy Nhà nước trong tình hình mới, điều kiện mới chưa thật rõ ràng
và chưa thống nhất, còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa được làm sáng
tỏ, còn nhiều chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật ra đời trong cơ chế tập
trung, quan liêu bao cấp chưa được kịp thời sửa đổi, thay thế.
Thứ hai, việc triển khai các nhiệm vụ về CCHC chưa được tiến hành đồng
bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo,
CCHC chưa gắn bó chặt chẽ với đổi mới hoạt động lập pháp và cải cách tư pháp.
Thứ ba, CCHC gặp trở ngại lớn do đụng chạm đến lợi ích cục bộ của nhiều
cơ quan hành chính, nhiều CBCC trong BMNN ở Trung ương và địa phương; ảnh
hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn đè nặng lên nếp nghĩ, cách làm
của khơng ít CBCC; cuộc cải cách chưa được chuẩn bị tốt về mặt tư tưởng.
Thứ tư, các chế độ chính sách về chế độ tổ chức và cán bộ, về tiền lương còn
nhiều điều chưa phù hợp, chưa tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc cải cách.
Thứ năm, là những thiếu sót trong cơng tác chỉ đạo của Chính phủ, các bộ
ngành Trung ương và Uỷ ban nhân dân các địa phương trong việc tiến hành
CCHC; sự chỉ đạo thực hiện các chủ trương thiếu kiên quyết và chưa thống nhất.

1.3. Bài học về cải cách hành chính
Từ thực tiễn CCHC gần 15 năm qua trên cơ sở những kết quả đạt được và
những khuyết điểm có thể rút ra mấy bài học chung sau đây:
CCHC là nhiệm vụ rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực phải được tiến
hành đồng bộ trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, gắn xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, gắn cải cách BMNN nói chung;
Kết hợp chặt chẽ CCHC với cải cách kinh tế trong từng bước đi và trong
từng lĩnh vực, trên từng địa bàn, tạo ra sự ăn khớp và thúc đẩy lẫn nhau giữa
CCHC và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
CCHC là công việc nhạy cảm, khó khăn, địi hỏi các cơ quan chỉ đạo có
quan điểm, nguyên tắc nhất quán, có chương trình hành động thiết thực trong từng
thời gian; sự lãnh đạo, chỉ đạo cuộc cải cách phải tập trung thống nhất với quyết
tâm và ý chí cải cách mạnh mẽ;
CCHC phải được triển khai đồng bộ từ trên xuống, từ dưới lên, coi trọng
khuyến khích những sáng kiến, thử nghiệm của địa phương và cơ sở xác định được
14


khâu đột phá trong từng giai đoạn, tìm ra được động lực cụ thể thúc đẩy các hoạt
động cải cách;
CCHC phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam với đặc điểm, truyền thống bản
sắc Việt Nam; đồng thời tham khảo học hỏi ý kiến, kinh nghiệm của các nước về tổ
chức và hoạt động quản lý để vận dụng thích hợp.
1.4. Thuận lợi và khó khăn đối với CCHC ở Việt Nam trong thời gian tới
Mười lăm năm mở đầu của thế kỷ XXI sẽ là giai đoạn có nhiều cơ hội và
thuận lợi để đẩy mạnh hơn nữa tiến trình CCHC.
Những bài học thực tiễn về CCHC 15 năm qua là cơ sở tốt cho những quyết
định mới về CCHC trong thời gian tới;
Yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
tạo ra sự thúc đẩy mạnh mẽ đối với cải cách nền hành chính gắn bó với q trình

cải cách kinh tế. Quá trình hội nhập khu vực và quốc tế tiếp tục mở rộng cơ hội cho
sự hợp tác trao đổi và học tập kinh nghiệm về CCHC giữa Việt Nam với các nước.
Tuy nhiên cuộc CCHC cũng đứng trước nhiều khó khăn thách thức:
Thách thức lớn nhất đối với yêu cầu xây dựng hệ thống HCNN trong sạch,
vững mạnh, quản lý có hiệu lực hiệu quả là những yếu kém kéo dài của bộ máy
HCNN, tệ quan liêu nạn tham nhũng, sự thoái hoá về phẩm chất, đạo đức của một
bộ phận CBCC;
Phạm vi và vi mô rộng lớn của CCHC đòi hỏi phải tiến hành một cách liên
tục, với quyết tâm cao, vừa làm vừa nghiên cứu, tổng kết thử nghiệm những mơ
hình tổ chức và quản lý mới. Các cơ quan HCNN phải phấn đấu tự đổi mới, tự cải
cách mình để thực hiện cho được mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ
và từng bước hiện đại hoá, thực hiện được đầy đủ quyền làm chủ nhân dân, tăng
cường được pháp chế kỷ cương Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
CCHC được đặt trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị và cải cách
BMNN nói chung. Trên thực tế cịn nhiều vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định
đối với việc xác định nội dung và phương thức tiến hành cải cách BMNN, CCHC,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Cần phải tiếp tục nghiên cứu để
có kết luận rõ;
Sức ỳ của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, tham nhũng còn ảnh hưởng
khá nặng đến nếp nghĩ, phong cách làm việc của một bộ phận CBCC, trong khi đó
15


cuộc cải cách lại được tiến hành trong điều kiện còn thiếu kiến thức kinh nghiệm
QLNN trong cơ chế kinh tế mới, trước yêu cầu xây dựng hệ thống HCNN dân chủ
hiện đại.
2. Mục tiêu cải cách hành chính Nhà nước ở Việt Nam
2.1. Mục tiêu chung
Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên

nghiệp, hiện đại hố, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà
nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ CBCC có
phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công việc xây dựng, phát triển đất
nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với
yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế chính sách phù hợp với
thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt
động của hệ thống hành chính.
Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật (QPPL) khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản; đề
cao trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế; phát huy dân
chủ, huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản QPPL.
- Xoá bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà gây
phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hồn thiện các thủ tục hành chính mới
theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.
- Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng; chuyển được một số công việc và dịch vụ
không cần thiết phải do cơ quan Nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức phi Chính phủ đảm nhận.
- Cơ cấu tổ chức của Chính phủ phải gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc bộ
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mơ tồn
xã hội bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện.
Bộ máy của các bộ được điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức
năng, phương thức hoạt động của các bộ tham mưu, thực thi chính sách, cung cấp
dịch vụ công.
16


- Tiếp tục rà soát về việc thực hiện phân cấp quản lý HCNN giữa Trung

ương và địa phương; giữa các cấp chính quyền địa phương; định rõ chức năng
nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn.
Các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, cấp huyện được tổ
chức lại gọn nhẹ, thực hiện đúng chức năng QLNN theo nhiệm vụ và thẩm quyền
được xác định trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (sửa
đổi). Xác định rõ tính chất, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của chính quyền cấp xã.
- Đến năm 2010 đội ngũ CBCC có số lượng cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp
hiện đại. Tuyệt đại bộ phận CBCC có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công
vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.
- Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương cơ bản cho CBCC, trở thành động lực
của nền công vụ, bảo đảm cuộc sống của CBCC và gia đình.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính thích hợp với tính chất của cơ quan hành
chính và tổ chức sự nghiệp, dịch vụ cơng.
- Nền HCNN được hiện đại hoá một bước rõ rệt. Các cơ quan hành chính có
trang thiết bị tương đối hiện đại phục vụ yêu cầu QLNN kịp thời và thông suốt hệ
thống thơng tin của chính phủ được đưa vào hoạt động.
3. Cuộc cải cách hành chính đặt trong khn khổ các quan điểm và chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới hệ thống chính trị và cải cách
bộ máy Nhà nước
Cải cách và hoàn thiện nền HCNN gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung
và nền hành chính nói riêng, nhằm giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công
nhân, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Nền hành chính phải được tổ chức thành một hệ thống, thống nhất ổn định,
hoạt động thông suốt, trên cơ sở phân công, phân cấp và chế độ trách nhiệm rành
mạch, có kỷ cương nghiêm ngặt, cơ quan hành chính và CBCC nhà nước chịu sự
giám sát chặt chẽ của nhân dân. Áp dụng cơ chế biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa
những hành vi mất dân chủ, tự do, tuỳ tiện, quan liêu, tham nhũng sách nhiễu, gây
phiền hà cho dân.

Các chủ trương giải pháp CCHC phải gắn liền chặt chẽ với bước đi của đổi
mới kinh tế, với yêu cầu phát triển đất nước trong quá trình CNH, HĐH và hội
17


nhập kinh tế quốc tế, hình thành và hồn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, giữ vững trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.
CCHC là nhiệm vụ rộng lớn, phức tạp địi hỏi phải có tầm nhìn bao qt với
những giải pháp đồng bộ, kết hợp chặt chẽ CCHC với đổi mới hoạt động lập pháp,
cải cách tư pháp.
CCHC phải được tiến hành từng bước vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm,
lựa chọn khâu đột phá trong từng giai đoạn cụ thể.
4. Nội dung cải cách hành chính Nhà nước XHCN trong thời gian tới
Nội dung CCHCNN từ nay đến năm 2010 sẽ hướng vào những điểm sau
đây:
4.1. Cải cách thể chế hành chính Nhà nước
- Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, thể chế tổ chức và hoạt động của bộ máy HCNN.
Đẩy mạnh cải cách thể chế về thị trường vốn và tiền tệ, thị trường chứng
khoán và bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường lao động, thị
trường dịch vụ.
Thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính, trước hết là tổ
chức và hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp.
Thể chế về quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân như: thu thập ý kiến của
nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng, trưng cầu ý
dân, xử lý các hành vi trái pháp luật của cơ quan và CBCC Nhà nước trong khi thi
hành công vụ; thẩm quyền trách nhiệm của cơ quan hành chính và của tồ án trong
việc giải quyết khiếu kiện của nhân dân.

Thể chế thẩm quyền QLNN đối với doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp Nhà nước nói riêng, phân biệt rõ quyền của chủ sở hữu, quyền QLHCNN
và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật.
Rà soát và hệ thống hoá các văn bản QPPL theo từng lĩnh vực, loại bỏ
những quy định pháp luật theo từng lĩnh vực, loại bỏ những quy định pháp luật
khơng cịn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lặp. Phát huy hiệu quả của cơ sở dữ liệu
quốc gia về văn bản QPPL.
18


Tăng cường năng lực của các CQHC ở Trung ương và địa phương trong xây
dựng và ban hành văn bản QPPL, khắc phục tình trạng Luật, pháp lệnh chờ Nghị
định và Thông tư hướng dẫn thi hành.
Để nâng cao chất lượng và tránh tình trạng thiếu khách quan, cục bộ trong
việc xây dựng văn bản QPPL, cần thiết phải nghiên cứu đổi mới phương thức, quy
trình xây dựng pháp luật từ khâu đầu cho đến khâu Chính phủ xem xét, quyết định
hoặc thơng qua để trình Quốc hội.
Ban hành các quy định bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào
quá trình xây dựng pháp luật, tổ chức tốt việc lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp
nhân dân, của những người là đối tượng điều chỉnh của văn bản trước khi ban hành.
Các văn bản QPPL phải được đăng công báo hoặc yết thị, đưa tin các
phương tiện thông tin đại chúng ngay sau khi ban hành để cơng dân và các tổ chức
có điều kiện tìm hiểu và thực hiện.
- Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của các cơ quan Nhà
nước của CBCC.
Cung cấp cho CBCC đầy đủ thông tin về chính sách, pháp luật của Nhà
nước để vận dụng giải quyết công việc theo chức trách và thẩm quyền.
Thực hiện qui chế dân chủ (QCDC) ở cơ sở chế độ thông tin công khai cho
dân về chủ trương, chính sách của Nhà nước, của chính quyền địa phương; chế độ

cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các ngành ở Trung ương và địa phương định kỳ trực
tiếp gặp gỡ đối thoại giải quyết các vấn đề do doanh nghiệp cá nhân đặt ra.
Phát huy hiệu lực của các thiết chế thanh ra, kiểm sát và tài phán để bảo đảm
hiệu lực QLNN, giữ gìn kỷ cương xã hội. Phân định rõ trách nhiệm của các cơ
quan thanh tra và Tồ hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện của dân đối
với các cơ quan và CBCC.
Mở rộng dịch vụ tư vấn pháp luật cho nhân dân cho người nghèo, người
thuộc diện chính sách và đồng bào dân tộc ít người vùng sâu, vùng xa. Tạo điều
kiện cho các luật sư hoạt động tư vấn có hiệu quả theo pháp luật.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính (TTHC) nhằm bảo đảm tính pháp lý,
hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính.
Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng
gây khó khăn cho dân. Mở rộng cải cách TTHC trong tất cả các lĩnh vực, xoá bỏ
19


kịp thời những qui định không cần thiết về cấp phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm
soát, kiểm dịch, giám định.
Mẫu hoá thống nhất trong cả nước các loại giấy tờ mà công dân và doanh
nghiệp cần phải làm khi có u cầu giải quyết các cơng việc về sản xuất, kinh
doanh và đời sống.
Mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết công việc của cá
nhân và tổ chức ở các CQHCNN các cấp. CQHC các cấp có trách nhiệm giải quyết
cơng việc của cá nhân và tổ chức phải niêm yết công khai, đầy đủ mọi thủ tục, trình
tự lệ phí, lịch cơng tác tại trụ sở làm việc.
Quy định cụ thể rõ ràng trách nhiệm cá nhân trong thi hành công vụ. Việc
xác định quyền hạn và trách nhiệm của CBCC trong khi thi hành công vụ phải đi
liền với việc đánh giá, khen thưởng, kỷ luật CBCC.
4.2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ cơ quan ngang bộ,

cơ quan trực thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với
u cầu QLNN trong tình hình mới.
Chính phủ, các bộ cơ quan ngang bộ tập trung thực hiện chức năng xây
dựng, ban hành, thể chế, kế hoạch chính sách,quản lý vĩ mô đối với sự phát triển
kinh tế xã hội, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện.
Phân rõ thẩm quyền và trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và
các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trách
nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân trong CQHC các cấp.
Định rõ vai trị, chức năng và trách nhiệm của chính quyền địa phương các
cấp phù hợp với yêu cầu đổi mới sự phân cấp QLHC giữa Trung ương và địa
phương, gắn với các bước phát triển của cải cách kinh tế.
- Từng bước điều chỉnh mà cơng việc của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang
bộ cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhiệm để khắc phục
những chồng chéo trùng lặp về chức năng nhiệm vụ, chuyển cho các tổ chức xã
hội, tổ chức phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những công việc về dịch vụ
không cần thiết phải do CQHCNN trực tiếp thực hiện.
- Tiếp tục ban hành và áp dụng các qui định mới về phân cấp trung ương địa
phương, phân cấp giữa các chính quyền địa phương theo hướng nâng cao trách
nhiệm, tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân địa
20



×