Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận cao học, tác phẩm lút vích phoi ơ bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển đức của ph ăngghen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.06 KB, 14 trang )

LÚT - VÍCH PHOI-Ơ-BẮC VÀ SỰ CÁO CHUNG CỦA TRIẾT HỌC
CỔ ĐIỂN ĐỨC CỦA PH. ĂNGGHEN
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM

Từ năm 1845, ở Bruy-xen Bỉ, Mác và Ăngghen cùng nhau viết các tác
phẩm, đề xuất nhiều quan điểm triết học đối lập với các quan điểm tư tưởng của
triết học Đức lúc đó, đặc biệt là quan điểm đối lập của 2 ông về chủ nghĩa duy vật
lịch sử với quan điểm triết học cổ điển Đức. Đồng thời Mác và Ăngghen cũng
muốn thanh toán nhận thức triết học trước đây của mình.
Hơn 40 năm sau (từ năm 1845), kể cả khi Mác chưa qua đời, đã nhiều lần
phê phán triết học của Hêghen và Phoi-ơ-bắc, nhưng chưa có lần nào có hệ thống
và đầy đủ. Trong suốt thời gian đó, thế giới quan của Mác được hình thành có hệ
thống và ngày càng phát triển, có ảnh hưởng lớn đối với nhiều Đảng Cộng sản và
công nhân của nhiều nước trên thế giới. Nhưng ở một số nước, đặc biệt là ở Anh
và ở các nước Xcăng-đi-na-vơ, triết học cổ điển Đức đang sống lại. Ngay ở Đức,
quan điểm tư tưởng triết học này vẫn được đem giảng dạy ở các trường đại học đã ảnh hưởng nhất định đến giai cấp cơng nhân Đức.
Trong hồn cảnh đó và sau khi Mác đã qua đời, Ăngghen muốn trình bày
một cách có hệ thống quan điểm của Mác và Ăngghen đối với triết học của Hêghen
và Phoi-ơ-bắc. Ăngghen thấy cần phải đánh giá một cách khách quan, công bằng
cả thành tựu và hạn chế trong triết học của Hêghen và Phoi-ơ-bắc. Mác và
Ăngghen đã kế thừa và phát triển nền triết học đó, làm cho triết học trở thành khoa
học và cách mạng, thành thế giới quan chân chính của giai cấp vơ sản, đồng thời
phê phán một số luận điệu xuyên tạc quan điểm, tư tưởng triết học của Mác và
Ăngghen.


Tác phẩm này được đăng trên tạp chí "Neue Zeit" trong số 4 và số 5, năm
1886, và đến năm 1888 xuất bản thành sách, nguyên tác là tiếng Đức, về sau được
dịch ra nhiều thứ tiếng Nga, Bungari, Pháp và nhiều tiếng nước khác. Tác phẩm
được nhiều lần dịch ra tiếng Việt, hiện nay bản dịch mới nhất được in trong C.Mác
và Ph.Ăngghen, toµn tËp, Nxb CTQG – Sù thËt, H.1995, tËp 21.


Tóm lại, Ăngghen viết tác phẩm "Lút-Vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung
của triết học cổ điển Đức" một mặt, do yêu cầu đấu tranh chống lại sự xuyên tạc
bảo vệ sự trong sáng của triết học mácxít. Thông qua phê phán những nhà triết học
cụ thể là Hờghen v Lút vích Phoiơbắc trỡnh by nhng quan điểm cơ bản
của triết học Mác, vạch rõ sự khác nhau cơ bản giữa triết học Mác và các thứ triết
học khác. Mặt khác, do nhu cầu đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân
thúc giục Ăngghen viết tác phẩm này để cung cấp cho phong trào thực tiễn một thế
giới quan khoa học và cách mạng, hoàn bị và triệt để, là vũ khí tư tưởng, lý luận
sắc bén để đấu tranh cách mạng.
II KẾT CẤU VÀ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM

1. Kết cấu của tác phẩm
Tác phẩm được kết cấu gồm 4 chương* và phần kết luận
Chương I Ph. ¡ng ghen đánh giá triết học của Hêghen*
Chương II và III Ăngghen đánh giá triết học của Phoi-ơ-bắc*
Chương IV Ăngghen phân tích sự khác biệt giữa triết học Mác và triết học
Phoi-ơ-bắc*
Phần kết luận Ăngghen kết luận về triết học Mác, triết học cổ điển Đức và
thế giới quan của giai cấp công nhân.
2. Tư tng c bn ca tỏc phm

*
**

Chơng: Là do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đánh dấu ở lề trên của tác phẩm
Tiêu đề các chơng là của ngời biên so¹n


Thông qua phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen, chủ nghĩa duy
vật siêu hình của Phoi-ơ-bắc, trình bày một cách cơ bản, có hệ thống chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, làm cơ sở lý luận cho chiến lược, sách
lược đấu tranh của giai cấp công nhân và các Đảng Cộng sản.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM

Chương I Ph. Ăngghen đánh giá triết học của Hêghen
Nội dung cơ bản của phần này là tập trung phê phán triết học của Hêghen,
vạch rõ mâu thuẫn bên trong giữa hệ thống và phương pháp của triết học Hêghen.
1. Ăngghen nêu lên mối liên hệ giữa triết học với những điều kiện xã
hội lịch sử, kinh tế, giai cấp của thời kỳ lịch sử đó - thời kỳ chuẩn bị cách mạng
1848 và sau cách mạng 1848.
Nước Đức là nước tư sản trẻ, ra đời sau Anh và Pháp. Giai cấp tư sản Đức
vừa có mặt cách mạng, vừa có mặt bảo thủ nên cuộc cách mạng tư sản Đức không
triệt để. Giai cấp tư sản Đức hèn kém về kinh tế và chính trị nên một mặt, muốn
cách mạng nhưng lại muốn thoả hiệp, mặt khác lại sợ phong trào quần chúng nên
có xu hướng cải lương. Do đó, giai cấp tư sản Đức khơng đóng nổi vai trị cách
mạng của nó.
Trong cách mạng xã hội thì cách mạng trong triết học diễn ra trước cuộc
cách mạng chính trị, sau đó mới đến cách mạng kinh tế. Nhưng triết học chỉ là sự
phản ánh, triết học phản ánh một tiến trình lịch sử, phản ánh nguyện vọng và lợi
ích giai cấp nhất định. "Và cách mạng lại phải núp sau những giáo sư ấy (giáo sư
do Nhà nước Phổ bổ nhiệm (tác giả), sau những lời thông thái rởm và tối nghĩa của
họ, trong những câu văn nặng nề và buồn tẻ của họ" [1]. Triết học Hêghen là triết
học chính thống, triết học nhà nước của Vương quốc Phổ, phản ánh tính hai mặt
của giai cấp tư sản do đó đã trở nên bảo thủ, khơng thể hiện vai trị cách mạng,


không trở thành lý luận thúc đẩy cách mạng. Tuy nhiên, triết học Hêghen vẫn có
những yếu tố cách mạng nhưng bị mặt bảo thủ che lấp.
2. Ăngghen phân tích luận điểm nổi tiếng của Hêghen: "Tất cả cái gì là
hiện thực, đều là hợp lý và tất cả cái gì là hợp lý, đều là hiện thực" (luận điểm

này Ăngghen nói phỏng theo một đoạn trong tác phẩm của Hêghen: "Những
nguyên lý của triết học pháp quyền").
Đây là luận điểm có tính chất giảng hồ: Người cách mạng cũng hiểu được
và bọn phản động cũng dễ thừa nhận. Với luận điểm này của Hêghen, thực chất đã
bênh vực tính hợp lý của Nhà nước Phổ, xác nhận về mặt triết học cho sự tồn tại
của chế độ chuyên chế, của nhà nước cảnh sát, chế độ kiểm duyệt khắt khe của
Nhà nước Phổ. Tuy vậy, ngay ở đây Hêghen cũng đã thừa nhận cái hiện thực đang
tồn tại phải là cái có tính tất yếu. Ăngghen nhận xét: "Nhưng theo Hêghen thì tuyệt
nhiên khơng phải tất cả những gì hiện đang tồn tại cũng đều là hiện thực. Theo
ông, thuộc tính hiện thực chỉ thuộc về những gì đồng thời là tất yếu" [2].
Ăngghen phân tích: Cái lạc hậu, cái lỗi thời phải diệt vong, nhường chỗ
cho cái tiến bộ, cái hợp lý. Như vậy, theo Hêghen sẽ không có cái gì tồn tại vĩnh
viễn, chỉ có những cái hợp lý, hợp qui luật mới là hiện thực, còn tất cả những cái
khơng hợp lý, trái qui luật thì đều mất tính hiện thực của nó, mặc dù nó vẫn cịn
đang tồn tại, nhưng nó đã mất tính tất yếu, mất quyền tồn tại và nhất định sẽ bị tiêu
diệt. Ăngghen so sánh Cộng hoà La Mã với Đế quốc La Mã, nền quân chủ Pháp
với đại cách mạng Pháp năm 1789. Ăngghen nói: "Và cũng như vậy, trong quá
trình phát triển, tất cả những gì trước đây là hiện thực thì hiện nay trở thành khơng
hiện thực, mất tính tất yếu, mất quyền tồn tại, mất tính hợp lý của chúng; và hiện
thực mới, đầy sinh lực, thay thế cho hiện thực đang tiêu vong..." [3].


Như vậy, theo Ăngghen thì luận điểm trên của Hêghen đã dẫn đến một luận
điểm khác: Mọi cái đang tồn tại đều đáng tiêu vong. Luận điểm này rất phù hợp
với qui tắc của phương pháp tư duy của Hêghen.
3. Ăngghen vạch rõ ý nghĩa thực sự và tính chất cách mạng của triết
học Hêghen.
Trước hết, Ăngghen đánh giá cao tư tưởng biện chứng của Hêghen về chân lý:
Khơng có chân lý cuối cùng, tuyệt đích, chân lý nằm trong q trình nhận thức phản
ánh hiện thực khách quan thơng qua hoạt động thực tiễn. "... Chân lý nằm trong chính

ngay q trình nhận thức" [4], "Cũng khơng khác gì nhận thức, lịch sử khơng bao giờ
có thể đạt tới một sự hoàn tất tột cùng trong một trạng thái lý tưởng hoàn thiện của loài
người; một xã hội hoàn thiện, một "nhà nước" hồn thiện, đó là những cái chỉ có thể
tồn tại trong trí tưởng tượng thơi" [5].
Thứ hai, Ăngghen muốn đánh giá công lao to lớn của Hêghen về tư tưởng
biện chứng - mà ta gọi là hạt nhân hợp lý trong triết học Hêghen. Tức là Hêghen đã
dự đoán một cách thiên tài về sự phát triển biện chứng. Sự phát triển biện chứng bao
quát cả tự nhiên, cả xã hội, cả nhận thức. "Trái lại, tất cả những chế độ lịch sử nối tiếp
nhau chỉ là những giai đoạn q độ trong tiến trình vơ cùng tận của xã hội loài người
từ thấp đến cao" [6]. Đối với mọi sự vật "khơng có gì tồn tại ngồi q trình khơng
ngừng của sự hình thành và sự tiêu vong, của sự tiến triển vô cùng tận từ thấp lên cao.
Bản thân nó cũng chỉ là sự phản ánh đơn thuần của q trình đó vào trong bộ óc biết
tư duy" [7].
Tuy nhiên, Hêghen từ biện chứng của "ý niệm" mà đoán ra biện chứng của
sự vật; những kết luận trên là hệ quả tất yếu của phương pháp của Hêghen phải đạt
tới. Tư tưởng biện chứng của Hêghen bị che lấp bởi vỏ bọc duy tâm, thần bí.
Nhưng dù sao về phép biện chứng, Hêghen cũng có cơng lao lớn trong lịch sử triết
học.


4. Ăngghen vạch rõ mặt bảo thủ trong triết học Hêghen, vạch ra mâu
thuẫn giữa hệ thống triết học duy tâm, bảo thủ và phương pháp biện chứng
cách mạng của Hêghen.
Trước hết, Ăngghen phê phán Hêghen về "ý niệm tuyệt đối". "ý niệm tuyệt
đối" theo Ăngghen: "ý niệm đó sở dĩ là tuyệt đối, chỉ là vì ơng tuyệt đối khơng biết
nói gì về nó cả" [8]. ý niệm tuyệt đối chuyển hoá thành tự nhiên, thành xã hội và
cuối cũng lại trở về bản thân nó (trở về tinh thần). Như vậy theo Hêghen, ý niệm
tuyệt đối (tức là tinh thần) là cái có trước tự nhiên và xã hội. Đây là quan điểm duy
tâm, bảo thủ của Hêghen.
Thứ hai, về mặt triết học, Hêghen cho rằng triết học của ông là chân lý

tuyệt đối, điều này lại trái ngược với phép biện chứng. Đây là một mâu thuẫn, "như
thế nghĩa là mặt cách mạng của học thuyết Hêghen đã bị đè bẹp bởi sự trưởng
thành quá khổ của mặt bảo thủ của nó" [9].
Thứ ba, do nhu cầu bên trong của hệ thống bảo thủ nên phương pháp biện
chứng cách mạng lại đưa đến một kết luận chính trị rất ơn hồ, thoả hiệp và bảo vệ
chính thể quân chủ Phổ, thừa nhận những cải cách của chính phủ chứ khơng phải là
cách mạng.
Vì sao lại như vậy ? Ăngghen phân tích:
- Do tính hai mặt của giai cấp tư sản Đức ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng
của Hêghen.
- Bản chất phương pháp biện chứng của Hêghen khơng triệt để, biện chứng
chỉ hướng về q khứ, cịn điều hoà với hiện tại và tương lai.
- Về nguyên tắc: Phương pháp biện chứng chỉ quan niệm về sự phát triển
trong lĩnh vực tinh thần mà không mở rộng ra giới tự nhiên và xã hội.
5. Ăngghen đánh giá rất cao triết học Hêghen.


Muốn đánh giá đúng giá trị triết học Hêghen phải có quan điểm thực tiễn,
phải có tính đảng và tính giai cấp sâu sắc, mới có thể tìm thấy những cái q giá,
những nhân tố hợp lý và do đó mới có thể kế thừa và phát triển [10]. Trong đó
phép biện chứng là cái q giá nhất trong triết học Hêghen. Ngay bản thân phép
biện chứng của Hêghen, mặc dù q giá, nhưng khơng phải dùng được tất cả, nó
chỉ là bàn đạp, là ngịi nổ cho phép biện chứng duy vật.
6. Ăngghen trình bày sự tan dã của học phái Hêghen và sự ra đời của
chủ nghĩa duy vật Phoi-ơ-bắc.
Ăngghen cho rằng thế giới quan và phương pháp triết học trong xem xét,
đánh giá tơn giáo và chính trị là cơ sở phân hoá của học phái Hêghen. Những
người bám vào hệ thống triết học Hêghen thì thuộc phái bảo thủ, thừa nhận tơn
giáo và chính trị hiện tại. Những người cho phương pháp biện chứng là chủ yếu thì
thuộc phái tích cực, cách mạng, được gọi là "phái Hêghen trẻ". Tuy vậy "phái

Hêghen trẻ" vẫn lúng túng khi giải quyết mối quan hệ giữa "ý niệm tuyệt đối" và tự
nhiên, giữa ý thức và vật chất.
Chủ nghĩa duy vật Phoi-ơ-bắc ra đời là một tất yếu lịch sử, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn, đưa chủ nghĩa duy vật trở lại địa vị thống trị, chống lại chủ nghĩa
duy tâm và tôn giáo. Ăngghen đánh giá cao công lao của Phoi-ơ-bắc: Kiên quyết
đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm, Phoi-ơ-bắc đã phá vỡ hệ thống triết học duy tâm
của Hêghen và tuyên bố sự toàn thắng của chủ nghĩa duy vật. Về mặt chính trị - xã
hội, Phoi-ơ-bắc đã bàn đến cuộc sống, bàn đến thực tiễn, bàn đến con người [11].
Tuy vậy, Phoi-ơ-bắc lại mắc phải sai lầm: phủ định sạch trơn cả hệ thống
triết học, cả phép biện chứng của Hêghen. Hơn nữa, chủ nghĩa duy vật Phoi-ơ-bắc
hướng đến con người, nhưng lại thần thánh hoá tình u, kêu gọi giải phóng con
người bằng tình u. Đây là những điểm hạn chế lớn nhất của Phoi-ơ-bắc.
Ăngghen nói: "Phoi-ơ-bắc đã đập tan hệ thống Hêghen và đơn giản đã gạt bỏ nó ra


một bên. Song chỉ tuyên bố một triết học nào đó là sai lầm thì chưa có nghĩa là
thắng được nó" [12]. Ăngghen cho rằng cần phải "xố bỏ" một quan điểm tư tưởng
nào đó bằng cách xố bỏ hình thức, nhưng kế thừa nội dung mới.
Chương II và III: Ph. Ăngghen đánh giá triết học Phoi-ơ-bắc
1. Ăngghen phê phán Hêghen và Phoi-ơ-bắc xung quanh vấn đề cơ bản
của triết học: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại" [13].
Trước hết, khi nghiên cứu thực chất của cách giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học, phải nhấn mạnh tính lịch sử của việc người ta giải quyết vấn đề ấy. Nghĩa
là phải nhận thức được vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư
duy nảy sinh ra trong thời đại nào của lịch sử.
Thứ hai, Ăngghen phân tích nội dung vấn đề cơ bản của triết học trên
hai mặt:
- Mặt thứ nhất, giữa tự nhiên và tinh thần, vật chất và ý thức, cái nào có
trước, cái nào có sau. "Cách giải đáp vấn đề ấy đã chia các nhà triết học thành hai

phe lớn" [14]. Những ai cho rằng tinh thần có trước tự nhiên, tinh thần sáng tạo ra
thế giới thì họ thuộc phái duy tâm; còn những ai cho rằng tự nhiên là cái có trước
thì họ thuộc phái duy vật.
- Mặt thứ hai, suy nghĩ của con người quan hệ với thế giới như thế nào ?
Con người có thể nhận thức được thế giới khơng ? Có phản ánh đúng đắn sự vật
không ? "Theo ngôn ngữ triết học, vấn đề đó được gọi là vấn đề tính đồng nhất
giữa tư duy và tồn tại" [15]. Tuyệt đại đa số các nhà triết học đều khẳng định có
thể nhận thức được thế giới.
Ăngghen tập trung phân tích quan điểm của Hêghen về sự đồng nhất giữa
tư duy và tồn tại, nhưng sự đồng nhất theo quan điểm duy tâm không giống với
quan điểm duy vật. Đặc biệt Ăngghen phê phán các quan điểm không thừa nhận là


con người có thể nhận thức được thế giới, thuyết "bất khả tri" của Hi um và Can-tơ
[16].
Thứ ba, Ăngghen phân tích đánh giá triết học Phoi-ơ-bắc đi từ vấn đề cơ
bản của triết học, vừa khẳng định mặt duy vật, vừa chỉ ra mặt siêu hình, tức là quan
điểm duy vật thiếu triệt để, khơng tồn diện, khơng biện chứng. Đó là chủ nghĩa
duy vật siêu hình. "Vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần, mà chỉ có bản
thân tinh thần mới là sản phẩm tối cao của vật chất. Đó dĩ nhiên là chủ nghĩa duy
vật thuần t. Nhưng đạt tới điểm đó rồi thì đột nhiên Phoi-ơ-bắc dừng lại" [17].
Chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc có hai hạn chế chủ yếu:
- Chủ nghĩa duy vật có tính chất máy móc.
- Chủ nghĩa duy vật khơng hiểu thế giới là một quá trình biện chứng, các
dạng vật chất nằm trong quá trình vận động phát triển [18], chủ nghĩa duy vật
khơng biện chứng.
Ăngghen phân tích ngun nhân của những hạn chế của chủ nghĩa duy
vật Phoi-ơ-bắc: Thứ nhất, thời Phoi-ơ-bắc khoa học tự nhiên đã đạt nhiều
thành tựu, nhưng vì ơng số cơ quạnh, ẩn dật ở thôn quê, nên không tiếp thu
được những thành tựu khoa học này. Thứ hai, một phần bị ảnh hưởng của chủ

nghĩa duy tâm, một phần vì sống cơ đơn, tách khỏi các quan hệ xã hội đô thị,
nên ông khơng hiểu được q trình lịch sử xã hội trên cơ sở duy vật [19].
2. Ăngghen cho rằng Phoi-ơ-bắc thực sự là một nhà triết học duy tâm
trong giải thích những vấn đề lịch sử xã hội.
Trước hết, Phoi-ơ-bắc thể hiện quan điểm duy tâm trong nghiên cứu tơn
giáo. Ơng cho rằng triết học phải hồ vào tơn giáo. Tơn giáo cũng là động lực phát
triển xã hội. Ông muốn xây dựng một tơn giáo tình u thay thế các tơn giáo khác,
trong đó tình u nam nữ là một trong những hình thức cao nhất [20]. Phoi-ơ-bắc
cho rằng các thời đại thay đổi chỉ là thay đổi về phương diện tôn giáo. Ăngghen


nói: "Lời khẳng định của Phoi-ơ-bắc cho rằng: các thời đại của loại người chỉ khác
nhau bởi những thay đổi về phương diện tơn giáo" là hồn tồn sai" [21]. Ăngghen
phân tích sự hình thành và phát triển của các tôn giáo.
Thứ hai, Phoi-ơ-bắc cho rằng quan hệ giữa người và người chỉ là quan hệ
tình cảm, quan hệ đạo đức. Ăngghen viết: "Trong những quan hệ ấy, Phoi-ơ-bắc
chỉ thấy có một mặt đạo đức. Và ở đây, chúng ta lại một lần nữa ngạc nhiên về sự
nghèo nàn quá đỗi của Phoi-ơ-bắc so với Hêghen" [22]. Mặc dù Phoi-ơ-bắc có nói:
"Trong một cung điện, người ta suy nghĩ khác trong một túp lều tranh", nhưng
Ăngghen cho rằng đó chỉ là những câu nói sng. Ngay quan điểm về đạo đức của
Phoi-ơ-bắc cũng rất nghèo nàn [23].
Thứ ba, Phoi-ơ-bắc đòi hỏi quyền bình đẳng về hạnh phúc của tất cả mọi
người, của tất cả mọi thời đại và trong mọi hồn cảnh. Ăngghen phân tích phê phán
sâu sắc [24] quan điểm duy tâm của Phoi-ơ-bắc về đạo đức, bình đẳng, hạnh phúc.
Trong xã hội có giai cấp, đẳng quyền thì khơng thể có bình đẳng về hạnh phúc.
Ăngghen nói: Học thuyết của Phoi-ơ-bắc "nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi
thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà khơng bao giờ nó có thể
đem áp dụng được ở đâu cả" và mỗi giai cấp "đều có đạo đức riêng của mình" [25]
"và thứ tình u phải đồn kết tất cả mọi người, thì lại biểu hiện bằng chiến tranh,
xung đột, kiện tụng, bất đồng trong gia đình, ly dị và tình trạng người ra sức bóc

lột người" [26].
3. Ăngghen phân tích vì sao Phoi-ơ-bắc khơng triệt để trong triết học
của mình:
Vì Phoi-ơ-bắc khơng thốt khỏi sự trừu tượng thuần tuý, không gắn tư
tưởng triết học, đạo đức với hiện thực sinh động. Mặt khác, mặc dù Phoi-ơ-bắc rất
hiểu tự nhiên và con người, nhưng Phoi-ơ-bắc chỉ nhìn thấy con người trừu tượng,


không xem xét con người trong hành động lịch sử của họ. Phoi-ơ-bắc phản đối
hành động, phản đối hoạt động thực tiễn.
Chương IV Ph.Ăngghen phân tích sự khác biệt giữa triết học Mác và triết
học Phoi-ơ-bắc
1. Khẳng định chủ nghĩa duy vật Mác xít là kết quả của sự kế thừa và
phát triển của triết học cổ điển Đức, mà đại biểu tiêu biểu là Hêghen và Phoi-ơbắc.
Hêghen là một nhà triết học lớn, có kiến thức bách khoa, nhưng Phoi-ơ-bắc
đã phủ định sạch trơn, "Ơng khơng biết bác bỏ Hêghen bằng vũ khí phê phán, mà
chỉ đơn thuần vứt bỏ Hêghen, coi là vô dụng..." [27].
Nhưng sự tan rã của học phái Hêghen và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức xuất hiện khuynh hướng chủ nghĩa duy vật biện chứng, "khuynh hướng duy
nhất thực sự đem lại kết quả, - khuynh hướng này chủ yếu gắn liền với tên tuổi của
Mác" [28].
Ăngghen nói: Chủ nghĩa duy vật thực chất là xem xét sự vật, hiện tượng (cả tự
nhiên và xã hội) như nó vốn có, khơng thêm bớt một yếu tố chủ quan nào [29].
2. Ăngghen trình bày những vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy
vật khác hoàn toàn với phép biện chứng của Hêghen.
Phép biện chứng duy vật có nghĩa là trình bày phép biện chứng trên cơ
sở duy vật. Vấn đề cơ bản nhất là cần phân biệt phép biện chứng duy vật với
phép biện chứng duy tâm. Ăngghen nói: "Do đó, phép biện chứng được qui
thành khoa học về các qui luật chung của sự vận động của thế giới bên ngoài
cũng như của tư duy bên ngoài" [30].

Tư tưởng vĩ đại nhất của triết học Hêghen là tư tưởng phát triển. Nhưng tư
tưởng phát triển của Hêghen chỉ là sự phát triển của ý niệm. Sự phát triển của tự
nhiên và xã hội chỉ là phản ánh sự phát triển của ý niệm [31].
Ăngghen phân tích sự phát triển của sự vật, hiện tượng là khách quan, còn
biện chứng của tư duy (của ý niệm) chỉ là sự phản ánh biện chứng của thế giới hiện
thực. Do đó, phải từ sự vận động của biện chứng khách quan mà áp dụng vào nhận
thức, chứ không phải ngược lại, và "phép biện chứng của Hêghen đã được đặt
ngược lại, hay nói đúng hơn, từ chỗ trước kia nó đứng bằng đầu, bây giờ người ta
đặt nó đứng bằng chân" [32]. Ăngghen nêu ra tư tưởng về sự thống nhất của phép
biện chứng và lý luận nhận thức, phải coi chân lý là một quá trình phát triển biện
chứng.


Phương pháp siêu hình "siêu hình" có ưu điểm nhất định, nhưng vận dụng
vào triết học sẽ có hạn chế lớn [33]. Ăngghen phân tích ba phát hiện vĩ đại làm
thay đổi phương pháp xem xét không phải chỉ đối với triết học mà cả đối với khoa
học tự nhiên [34]. Do đó, phương pháp siêu hình phải nhường chỗ cho phương
pháp biện chứng, phép biện chứng duy tâm nhường chỗ cho phép biện chứng duy
vật [35].
3. Từ quan điểm duy vật về tự nhiên, cần phải vận dụng vào xem
xét xã hội, lịch sử. Ăngghen dựa vào chủ nghĩa duy vật lịch sử để phê phán
Phoi-ơ-bắc.
Trước hết, Ăngghen khẳng định tự nhiên và xã hội là thống nhất. Nhiệm vụ
của triết học là phải tìm ra những qui luật vận động chi phối cả tự nhiên và lịch sử
xã hội loài người. Đồng thời cũng phải nhận thức khác nhau căn bản giữa hai loại
qui luật đó. Ăngghen nói: "Song lịch sử phát triển của xã hội, về căn bản, khác
với lịch sử phát triển của tự nhiên ở một điểm" [36]. Ăngghen phân tích sự khác nhau
đó chính là ở chỗ hoạt động của con người có ý thức. Nhưng dù thế nào thì quá trình
lịch sử xã hội vẫn tuân theo qui luật. Những cái đã đúng với tự nhiên, sẽ đúng với xã
hội. Vấn đề là phải tìm ra qui luật vận động phát triển của xã hội. "Con người làm ra

lịch sử của mình..." [37], nhưng lịch sử lại trở thành nhân tố thúc đẩy mục đích cá
nhân [38].
Thứ hai, Ăngghen phân tích động lực thật sự của lịch sử là gì ? Khơng phải
nghiên cứu động cơ của từng cá nhân, là cần nghiên cứu động lực quần chúng,
động lực đấu tranh giai cấp [39]. Ăngghen cho rằng cần nghiên cứu động lực thông
qua giải quyết mối quan hệ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, đấu tranh giai cấp
[40].
Thứ ba, Ăngghen đề cập mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Tựu chung
lại: Kinh tế quyết định chính trị. Nhà nước chỉ là sản phẩm của quan hệ kinh tế và
quan hệ giai cấp. Ăngghen bác bỏ quan điểm duy tâm về nhà nước và chỉ ra phải
có quan điểm duy vật trong xem xét nhà nước và thể chế chính trị [4100. Người
vạch rõ mối quan hệ giữa nhà nước, công pháp, hệ tư tưởng với kinh tế [42].
Thứ tư, Ăngghen phân tích vấn đề tơn giáo. Ăngghen cho rằng tôn giáo
cũng gắn liền sản xuất vật chất, gắn liền áp bức giai cấp. áp bức giai cấp, bất công
trong xã hội là một trong những nguồn gốc tồn tại tôn giáo [43]. Ăngghen kết luận:
Tôn giáo "... nảy sinh ra từ những quan hệ giai cấp, do đó từ những quan hệ kinh tế
giữa những người gây ra những sự biến đổi ấy" [44].
Phần kết luận Ăngghen khái quát 2 vấn đề:
Thứ nhất, cách mạng tư sản Đức không triệt để, do đó giai cấp tư sản Đức
khơng thể tiếp tục thành tựu khoa học, không thể phát triển triết học, triết học cổ
điển Đức đã cáo chung [45].


Thứ hai, coi giai cấp công nhân Đức mới là động lực của lịch sử và khoa
học. Chỉ có "Phong trào công nhân Đức là người kế thừa nền triết học cổ điển
Đức" [46].
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM

1. Ý nghĩa lịch sử
- Đây là tác phẩm Ăngghen trực tiếp phê phán, đánh giá những tư tưởng

triết học của Hêghen, Phoi-ơ-bắc và tuyên bố về sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức, rằng triết học này phải được thay thế bằng hệ thống triết học khoa học và
cách mạng.
- Thức tỉnh các nhà khoa học, những trí thức đương thời nhận thức sâu sắc
những mặt hạn chế trong triết học của Hêghen và Phoi-ơ-bắc, giúp họ phân biệt sự
khác nhau căn bản giữa triết học Mác với triết học của Hêghen và Phoi-ơ-bắc.
- Khẳng định chỉ có giai cấp công nhân Đức và giai cấp vô sản thế giới mới là
lực lượng tiếp thu tri thức triết học Mác xít, là động lực phát triển xã hội.
2. Ý nghĩa hiện thực
- Tác phẩm đã hệ thống nội dung đánh giá của Ăngghen đối với triết học
của Hêghen và Phoi-ơ-bắc cả cơng lao và hạn chế. Thơng qua đó giúp ta nhận thức
sâu sắc những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
- Nhận thức sâu sắc tiền đề lý luận trực tiếp của sự ra đời của triết học Mác,
sự khác nhau căn bản giữa triết học Mác với triết học Hêghen và Phoi-ơ-bắc.
- Qua tác phẩm, chúng ta học được thái độ phê phán có tính ngun tắc của
Ăngghen. Đó là sự kết hợp tính đảng với thái độ khách quan, khoa học khi nghiên
cứu di sản của lịch sử.
(1), (2), C.Mác và Ph.Ăngghen, Toµn tËp, tËp 21, Nxb CTQG-ST, Hµ Néi, 1995,
tr.392.
(3) Sđd, tr.393
(4), (5), (6) Sđd, tr.394
(7) Sđd, tr.395
(8), (9) Sđd, tr.396
(10) Sđd, tr.398, 399
(11) Sđd, tr.401
(12) Sđd, tr.402
(13) Sđd, tr.403
(14) Sđd, tr.404
(15) Sđd, tr.405

(16) Sđd, tr.406, 407
(17) Sđd, tr.408


(18) Sđd, tr.410
(19) Sđd, tr.412, 413
(20) Sđd, tr.416
(21) Sđd, tr.418
(22) Sđd, tr.420
(23) Sđd, tr.422
(24), (25), (26) Sđd, tr.423, 424, 425
(27) Sđd, tr.427
(28), (29) Sđd, tr.428
(30), (31) Sđd, tr.429
(32), (33) Sđd, tr.430
(34), (35) Sđd, tr.432, 433, 434
(36) Sđd, tr.435
(37) Sđd, tr.436
(38) Sđd, tr.437
(39) Sđd, tr.438
(40) Sđd, tr.439, 440
(41) Sđd, tr.441
(42) Sđd, tr.443, 444
(43) Sđd, tr.445, 446, 447, 448
(44) Sđd, tr.449
(45) Sđd, tr.450
(46) Sđd, tr.451




×