Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Pháp Luật Về Quỹ Trợ Giúp Pháp Lý Ở Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.88 KB, 57 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MẬN

PHÁP LUẬT
VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội - 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ MẬN

PHÁP LUẬT
VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn


HÀ NỘI - 2013

2


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP

8

LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

1.1.

Khái quát về trợ giúp pháp lý và Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

8

1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý


8

1.1.2. Khái niệm Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

19

1.2.

Khái quát pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

22

1.2.1. Khái niệm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

22

1.2.2. Đặc điểm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

24

1.3.

25

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý của một số nước trên thế giới

1.3.1. Quỹ trợ giúp pháp lý Trung Quốc

25


1.3.2. Quỹ trợ giúp pháp lý Mỹ

27

1.3.3. Quỹ trợ giúp pháp lý Đài Loan

31

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP

36

LÝ VIỆT NAM

2.1.

Thực trạng vị trí pháp lý của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

36

2.2.

Thực trạng pháp luật về tổ chức của Quỹ trợ giúp pháp lý
Việt Nam

40

2.2.1. Tổ chức bộ máy của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam


3

40


2.2.2. Mối quan hệ công tác, phối hợp của Quỹ trợ giúp pháp lý
Việt Nam

44

2.3.

45

Thực trạng pháp luật về hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý
Việt Nam

2.3.1. Hoạt động thu, chi của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

45

2.3.2. Hoạt động quản lý tài chính của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam

56

2.3.4. Hoạt động vận động tài trợ cho Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam

60

2.4.


Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của
Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

61

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

64

VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM

3.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam

64

3.1.1. Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam

64

3.1.2. Quan điểm về cải cách hành chính và cải cách tư pháp

66

3.1.3. Quan điểm về phát triển trợ giúp pháp lý bền vững


67

3.1.4. Quan điểm xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý

68

3.1.5. Quan điểm hội nhập tương thích với các nước trong khu vực
và trên thế giới

71

3.2.

72

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

72

3.2.2. Hoàn thiện về tổ chức, bộ máy của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

77

3.2.3. Hoàn thiện về các hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam

80


KẾT LUẬN

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88

PHỤ LỤC

93

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TGPL

: Trợ giúp pháp lý

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

5


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL) ở Việt Nam ra đời từ năm 1997

được xác định là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý khơng thu phí cho người
được TGPL (là những người có hồn cảnh đặc biệt như: người nghèo, người
có cơng với cách mạng, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số...) nhằm giúp
họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý
thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, đồng thời, góp phần phổ biến, giáo dục
pháp luật, bảo đảm cơng bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi
phạm pháp luật. Hoạt động TGPL được xác định là trách nhiệm trước hết
thuộc về Nhà nước, khuyến khích, thu hút sự tham gia đóng góp của xã hội và
một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động TGPL là khơng thu phí, lệ
phí hay bất cứ một khoản thù lao nào từ người được TGPL. Vì vậy, ngay từ
khi mới thành lập, ngoài ngân sách nhà nước cấp, hệ thống TGPL đã nhận
được sự quan tâm, tài trợ, viện trợ, đóng góp đáng kể của các tổ chức quốc tế.
Để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí cho hoạt động TGPL cần phải
có một tổ chức chịu trách nhiệm trong việc tiếp nhận, phân phối, điều tiết
nguồn kinh phí hỗ trợ đó cho các hoạt động TGPL trong toàn quốc nhằm bảo
đảm đúng đối tượng, đúng mục đích và được sử dụng hiệu quả, thúc đẩy hoạt
động TGPL phát triển. Chẳng hạn, những địa phương khó khăn về kinh tế
(thu khơng đủ chi hoặc gặp thiên tai đột xuất), không thể bảo đảm đủ kinh phí
cấp cho hoạt động TGPL, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động này thì các
địa phương này có thể nhận được sự hỗ trợ về tài chính từ tổ chức này.
Thực tế cho thấy, TGPL chính là một loại hình dịch vụ pháp lý cơng
nhằm đáp ứng nhu cầu TGPL của những người yếu thế, hạn chế về điều kiện
tiếp cận, khả năng nhận thức và sử dụng pháp luật. Việc đáp ứng nhu cầu
TGPL của mọi đối tượng ở các địa phương phải bình đẳng, cơng bằng và

6


khách quan, tổ chức thực hiện TGPL không được phép từ chối trợ giúp cho
các đối tượng có nhu cầu nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, khơng

kể đó là tổ chức ở địa phương "giàu" hay "nghèo". Nhóm người được TGPL
thường tập trung nhiều ở vùng nơng thơn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn, miền núi. Tuy nhiên, ngân sách các vùng này lại hết sức hạn hẹp,
rất cần sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, trong khi ngân sách nhà nước nói
chung (trong đó có ngân sách Trung ương) cịn hạn chế, không thể đáp ứng
kịp thời và đầy đủ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy, ngân sách
dành cho hoạt động TGPL lại càng ít hơn. Để đáp ứng được những yêu cầu
này, tổ chức tài chính trong lĩnh vực TGPL nêu trên cịn có vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm việc phát triển đồng bộ của hệ thống TGPL trên toàn
quốc, cân bằng giữa các vùng, miền trong việc thực hiện chính sách về TGPL
của Đảng, Nhà nước, bảo đảm cho mọi người dân thuộc diện được TGPL có
thể tiếp cận và thụ hưởng bình đẳng loại hình dịch vụ cơng này.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, Quỹ TGPL Việt Nam đã được nghiên
cứu, thành lập theo Quyết định số 258/2002/QĐ-BTP ngày 10/7/2002 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp nhằm hỗ trợ tài chính cho hoạt động TGPL miễn phí cho một
số đối tượng theo quy định của pháp luật trong phạm vi cả nước. Thực hiện
Luật và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam, ngày 08/12/2008, Bộ trưởng Bộ
Tư pháp ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam.
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thành lập và đi vào hoạt động, Quỹ TGPL
Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc cần phải nghiên cứu một cách
toàn diện và đầy đủ về địa vị pháp lý, về tổ chức, bộ máy và pháp luật về
Quỹ... Trong bối cảnh Việt Nam tuyên bố thoát khỏi danh sách các nước
nghèo, các nguồn tài trợ, viện trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế cho hoạt
động TGPL Việt Nam đã bị cắt giảm đáng kể, gây ra sự "hẫng hụt" rõ nét về
kinh phí triển khai các hoạt động TGPL, rất cần thiết Quỹ TGPL Việt Nam

7



phải huy động được các nguồn hỗ trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước cho hoạt động TGPL thì vai trị này thực hiện chưa hiệu
quả. Vì vậy, mục đích của Quỹ chưa đạt được, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động TGPL. Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là
do pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam chưa hoàn thiện, quy định chưa đầy đủ,
cịn chồng chéo, mẫu thuẫn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về Quỹ
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam" là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phương
diện lý luận và thực tiễn nhằm xác định rõ, đúng mức vị trí, vai trị của Quỹ
và nâng cao hiệu quả, phát triển hoạt động Quỹ TGPL Việt Nam, góp phần
bảo đảm cho hoạt động TGPL phát triển bền vững theo định hướng của chiến
lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020 định hướng đến năm 2030.
2. Tình hình nghiên cứu
Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ quan trọng hệ thống chính trị trong đó
ngành Tư pháp giữ vai trị trung tâm. Việc ban hành chính sách TGPL và triển
khai chính sách này trên thực tế đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và
Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên phương diện
pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đánh dấu bước phát triển vượt
bậc của cơng cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về
cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho người chịu thiệt thịi trong xã hội
được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, cơng bằng trước pháp luật.
Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ
và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực TGPL, cụ thể như sau:
Luận án Tiến sĩ "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
trong điều kiện đổi mới", của Tạ Thị Minh Lý. Luận án đã tập trung nghiên
cứu cơ sở lý luận, pháp lý của điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về
TGPL; thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGPL và phương hướng hoàn thiện
việc điều chỉnh pháp luật về TGPL trong điều kiện đổi mới.


8


Luận văn Thạc sĩ: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp
pháp lý ở Việt Nam", của Vũ Hồng Tuyến. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ
sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về người thực hiện TGPL, từ đó có các giải
pháp xây dựng và hồn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL.
Luận văn Thạc sĩ "Hồn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của
người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", của Đỗ Xuân Lân. Luận
văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng các hình thức tiếp cận pháp
luật của người nghèo ở Việt Nam, các giải pháp nhằm bảo đảm cho người
nghèo ở Việt Nam luôn được tiếp cận pháp luật.
Luận văn Thạc sĩ "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý", của Phan
Thị Thu Hà. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về
quyền được TGPL và các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được TGPL của
người dân.
Luận văn Thạc sĩ "Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở", của Đặng Thị
Loan. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về các mơ hình
TGPL ở cơ sở và đưa ra các giải pháp để phát triển mơ hình TGPL ở cơ sở.
Luận văn Thạc sĩ "Chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt
Nam", của Phạm Quang Đại. Luận văn đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn
đề chất lượng hoạt động TGPL cũng như làm rõ thực trạng chất lượng TGPL
hiện nay và quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng TGPL
Các công trình trên đã nghiên cứu các mặt, khía cạnh khác nhau của
hoạt động TGPL. Tuy nhiên, vấn đề pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam đến
nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu, tồn diện và tổng thể về lý
luận và thực tiễn. Vì vậy, với đề tài "Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam", tác giả luận văn đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực tiễn, thực trạng pháp luật điều chỉnh về Quỹ TGPL Việt Nam và tìm ra
giải pháp, định hướng hồn thiện pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam trong


9


thời gian tới là hết sức cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để kiện tồn, nâng cao vị
trí, vai trò và năng lực của Quỹ, đáp ứng sự phát triển của hệ thống TGPL.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp,
định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm xác định rõ vị trí pháp lý, vai trị và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung sau đây:
- Các khái niệm, đặc điểm của TGPL, Quỹ TGPL Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về
Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn,
vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.
- Trên cơ sở các yêu cầu khách quan, những quan điểm, đề xuất các
giải pháp cụ thể có tính khả thi trên thực tế nhằm hồn thiện pháp luật về Quỹ
TGPL để nâng cao vị trí, vai trò của Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian tới.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về
pháp luật điều chỉnh tồn diện về vị trí pháp lý tổ chức và hoạt động của Quỹ
TGPL Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu chung về mơ hình Quỹ, nghiên cứu
đặc thù về mơ hình Quỹ TGPL ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện
hành, xác định các quan điểm, yêu cầu phát triển Quỹ TGPL Việt Nam làm
căn cứ đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ để đáp ứng các yêu cầu về
mặt lý luận và thực tiễn của Quỹ.
Phạm vi nghiên cứu toàn bộ những vấn đề về Quỹ TGPL Việt Nam
thuộc Cục TGPL, Bộ Tư pháp.


10


6. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm của
Đảng, quan điểm khoa học về hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động
TGPL nói riêng.
- Trong q trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của
triết học Mác - Lê nin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng
thời sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống
kê. Ngồi ra, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư
liệu thực tiễn để hồn chỉnh luận văn.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý luận cũng như
phương diện thực tiễn. Luận văn nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống
về cơ sở lý luận, pháp lý về TGPL và tổ chức, hoạt động của Quỹ TGPL Việt
Nam nhằm xác định rõ vị trí, vai trị, ý nghĩa của Quỹ đối với hệ thống TGPL;
đánh giá được mức độ điều chỉnh của pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những khó khăn, hạn chế,
tồn tại làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Quỹ mà gián tiếp là mức
độ đáp ứng về tài chính của Quỹ đối với tồn bộ hệ thống TGPL của Việt
Nam; từ đó cho thấy sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật làm "động lực" tạo
sự thay đổi, biến chuyển rõ nét về tổ chức của Quỹ cũng như chức năng,
nhiệm vụ và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ TGPL. Luận
văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế huy động các
nguồn lực cho hoạt động TGPL ở Việt Nam và là tài liệu tham khảo cho việc
xây dựng chính sách phát triển bền vững hoạt động TGPL trong thời gian tới.
Luận văn phải mang tính thực tiễn và có tính khả thi nhằm giải quyết được

những tồn tại cũng như kiến nghị những vấn đề cần khắc phục.

11


8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trợ giúp pháp lý và pháp luật về Quỹ trợ
giúp pháp lý Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý" được sử dụng phổ biến trên thế giới từ
giữa thế kỷ XIX và xuất phát từ tiếng Anh là: Legal aid. Theo Từ điển Anh Việt "Legal aid" được dịch là "Trợ cấp pháp lý" [32]. Ngoài ra, trong một số
tài liệu khác dịch "Legal aid" là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ
trợ tư pháp"..., như vậy, bản chất là một nhưng hiện đang có rất nhiều sách,
báo… có cách dịch khác nhau, sử dụng thuật ngữ khác nhau về vấn đề này. Ở

Việt Nam thuật ngữ"Trợ giúp pháp lý" đang được sử dụng chính thức trong
các văn bản pháp luật và sách báo, nó thể hiện rõ bản chất, nội dung và hình
thức hoạt động của loại dịch vụ pháp lý miễn phí ở Việt Nam.
Ở các nước trên thế giới, hoạt động TGPL cho người nghèo, người
yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
Nhà nước tư sản và được coi là chức năng xã hội của nhà nước, là một trong
những tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp quyền. Mơ hình tổ
chức và hoạt động TGPL trên thế giới đang rất phong phú và đa dạng, có
nhiều đặc thù do phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia. Nhiều quốc gia đã có Chiến lược phát triển TGPL như Canada, Mỹ,
Úc… nhưng chưa có một văn bản nào mang tầm quốc tế về TGPL nên chưa
có quan niệm chung, thống nhất về TGPL trên thế giới.
Do có nhiều mơ hình TGPL, với những quan niệm khác nhau về đối
tượng, phạm vi, phương thức và chi phí TGPL trên thế giới, nên ở mỗi nước

13


đều có quan niệm riêng của mình và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác
nhau, nhưng nói chung các khái niệm của các nước đều thể hiện tính chính trịpháp lý, nghề nghiệp, nhân đạo và tính kinh tế của hoạt động TGPL. Chẳng
hạn, dưới góc độ kinh tế mang tính nhân đạo, ở một số nước (như Đức) quan
niệm TGPL là giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người
khơng có khả năng thanh tốn cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện
hoặc bào chữa trước tịa án. Dưới góc độ pháp lý, theo pháp luật của Anh và xứ
Wales thì TGPL là giúp đỡ pháp lý cho những người khơng có khả năng chi
trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý. Điều 2 Đạo luật về đại diện và
tư vấn pháp lý 1995 của Singapore và Đạo luật số 26 của Malaysia về bảo trợ
tư pháp năm 1971 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1992) cũng giải thích TGPL
theo nội hàm này. Nhìn dưới góc độ mục đích của hoạt động TGPL, người Úc
cho rằng TGPL là sự giúp đỡ cho một người có được hồn cảnh và điều kiện

tương tự như người khác trong việc tiếp cận với pháp luật, tức là tạo ra sự
công bằng khi tiếp cận với pháp luật [42]. Dưới góc độ chính trị, Mỹ, Trung
Quốc, Nga… cho TGPL là giải pháp n lịng nhóm yếu thế, bần cùng, sử
dụng pháp luật làm công cụ để bảo vệ, nâng đỡ để tự tin, tự bảo vệ và vỗ về…
Nói chung, tính chính trị của TGPL thể hiện ở góc độ bảo đảm gỡ rối
và giải tỏa điểm nóng khiếu kiện; tính kinh tế thể hiện ở chỗ giúp đỡ cho đối
tượng khơng có khả năng thanh tốn cho các chi phí khi tiếp cận với dịch vụ
pháp lý; tính pháp lý của TGPL thể hiện ở chỗ giúp đỡ đối tượng giải quyết
các vụ, việc có liên quan đến pháp luật (luật nội dung và luật hình thức...);
tính nhân đạo thể hiện ở góc độ đối tượng yếu thế trong xã hội được giúp đỡ
theo cơ chế khơng phải hồn trả lệ phí.
Như vậy, khái niệm TGPL được quy định trong văn bản pháp luật của
các nước nêu trên về cơ bản đều tương đối đồng nhất khi cho rằng TGPL là
hoạt động giúp đỡ pháp luật cho người nghèo, người khơng có điều kiện về
kinh tế để chi trả cho các dịch vụ pháp lý.

14


Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm xây dựng tổ chức và hoạt
động TGPL của các nước trên thế giới đã có từ hàng trăm năm nay và thực
tiễn hoạt động TGPL ở Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta có thể đưa ra
quan niệm chung về TGPL một cách đầy đủ, thể hiện những đặc trưng cơ
bản của nó. Theo quan niệm chung hiện nay thì TGPL hiểu là sự giúp đỡ
pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người có cơng
với đất nước và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật tiếp cận với
các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, hòa giải...), nhằm
bảo đảm cho mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công
bằng xã hội.
Việc thành lập tổ chức TGPL ở Việt Nam năm 1997 là xuất phát từ

chính những nguyên tắc Hiến định chủ quyền thuộc về nhân dân, mọi cơng
dân đều bình đẳng trước pháp luật và bản chất của Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân. Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các
sách, báo từ năm 1995, khi bắt đầu có nghiên cứu xây dựng Đề án hình thành
hệ thống TGPL ở Việt Nam và đã được sử dụng chính thức trong Quyết định
số 734/QĐ-TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập
tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đến nay, hệ thống
văn bản pháp luật đề cập khá nhiều đến thuật ngữ "trợ giúp pháp lý".
Theo quy định tại Điều 3 Luật TGPL năm 2006 thì khái niệm TGPL
được định nghĩa như sau:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người được trợ giúp pháp lý giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tơn trọng và
chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ cơng lý, bảo đảm cơng bằng
xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [40].
Có thể khẳng định rằng, khái niệm về TGPL ở Việt Nam theo quy định
của Luật TGPL năm 2006 đã bao quát đầy đủ nội hàm của TGPL.

15


Đặc điểm trợ giúp pháp lý
Đặc điểm của hoạt động TGPL bao gồm: chủ thể thực hiện, đối tượng
phục vụ, nguyên tắc hoạt động, hình thức thực hiện TGPL, phương thức TGPL,
lĩnh vực TGPL, cụ thể như sau:
- Chủ thể thực hiện: Theo nghĩa rộng, chủ thể thực hiện TGPL gồm
Nhà nước và xã hội; theo nghĩa hẹp thì chủ thể thực hiện TGPL là các tổ chức
của Nhà nước (được giao nhiệm vụ thực hiện TGPL mà cụ thể là người thực
hiện TGPL của Nhà nước) và các tổ chức xã hội hoặc cá nhân tự nguyện tham
gia TGPL. Hiện nay, ở Việt Nam, theo quy định pháp luật hiện hành chủ thể

thực hiện TGPL bao gồm: Trung tâm TGPL nhà nước thông qua người thực
hiện TGPL là trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên TGPL (cộng tác viên là
luật sư và cộng tác viên không phải là luật sư); các tổ chức đăng ký tham gia
TGPL (Văn phịng luật sư, Cơng ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các
tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã hội - nghề nghiệp, xã hội - nghề nghiệp)
thông qua các luật sư, tư vấn viên pháp luật thuộc các tổ chức này. Các chủ
thể trên trực tiếp tham gia vào việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí thơng
qua các vụ việc TGPL cụ thể.
Ngồi ra, cịn có chủ thể khác tham gia vào một hoặc một số hoạt
động TGPL mà không phải trực tiếp cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí như:
Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã, Phòng Tư pháp, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch, cơ
quan báo, đài phát thanh, truyền hình tham gia TGPL lưu động; thành viên
Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ TGPL; cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng phối hợp trong việc giải thích quyền được TGPL và cung cấp các
thơng tin TGPL cho các đương sự…
- Đối tượng phục vụ của hoạt động TGPL là người được hưởng các
dịch vụ TGPL miễn phí. Xuất phát từ mục đích, ý nghĩa và tính chất của hoạt
động TGPL, khơng phải tất cả mọi người dân đều được hưởng dịch vụ TGPL
mà chỉ nhóm yếu thế mới được hưởng dịch vụ này. Người được TGPL theo
quy định tại Điều 10 của Luật TGPL bao gồm:

16


Người nghèo là người thuộc hộ nghèo được xác định theo chuẩn nghèo
do Thủ tướng Chính phủ ban hành trong từng giai đoạn. Hiện nay, hộ nghèo
đang áp dụng theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 20112015 thì hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình qn đầu người dưới
400.000 đ/người/tháng ở nơng thôn và 500.000 đồng trở xuống ở thành thị.
Hộ nghèo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hộ nghèo

(sổ hộ nghèo) để họ được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước [21].
Người có công với cách mạng theo Pháp lệnh ưu đãi người có cơng
với cách mạng năm 2005 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012 bao gồm những
người sau:
+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945;
+ Liệt sĩ;
+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;
+ Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh;
+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
+ Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
+ Người có cơng giúp đỡ cách mạng bao gồm: Người được tặng Kỷ
niệm chương "Tổ quốc ghi cơng" hoặc Bằng "Có cơng với nước"; người trong
gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi cơng" hoặc Bằng "Có cơng
với nước" trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng Huân
chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến và người trong gia đình
được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến [45].

17


Người già cô đơn không nơi nương tựa là những người từ 60 tuổi trở
lên, sống một mình và khơng có người chăm sóc, phụng dưỡng.
Người tàn tật khơng nơi nương tựa là người bị khiếm khuyết một hay
nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác
nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học
tập gặp nhiều khó khăn, người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV

hoặc các bệnh khác làm mất khả năng dân sự mà khơng có ai ni dưỡng,
chăm sóc.
Trẻ em khơng nơi nương tựa là người dưới mười sáu tuổi, khơng có
gia đình hoặc bị gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc có hồn cảnh khơng bình
thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện các quyền
cơ bản và hịa nhập với gia đình, cộng đồng.
Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ trong từng giai đoạn.
Nạn nhân bị buôn bán là người bị xâm hại bởi hành vi mua, bán người
theo quy định tại Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011.
Các đối tượng khác được TGPL theo các quy định tại Công ước quốc
tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là thành viên.
- Nguyên tắc hoạt động TGPL: Đây là những quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt hoạt động TGPL, là kim chỉ nam cho hoạt động TGPL buộc
các chủ thể thực hiện TGPL phải tuân thủ trong quá trình TGPL. Các nguyên
tắc hoạt động TGPL bao gồm:
+ Không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được TGPL: Theo nguyên
tắc này, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL khơng được thu phí,
lệ phí và nhận thù lao từ người được TGPL dưới bất kỳ hình thức nào, vật chất
(tiền, tài sản, quà,…) hay tinh thần, tình cảm. Người được TGPL không phải
trả bất cứ một khoản lệ phí nào, kể cả phí in ấn tài liệu hay làm thủ tục TGPL.

18


+ Trung thực, tôn trọng sự thật khách quan: Khi thực hiện TGPL bằng
các hình thức khác nhau, người thực hiện TGPL phải trung thực, chí cơng, vơ
tư, tơn trọng sự thật khách quan; không bị tác động bởi bất cứ sức ép nào và
khơng vì mục đích cá nhân ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người được TGPL.

+ Sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo
vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL: Khi thực hiện
TGPL, người thực hiện TGPL phải tận tâm, tận lực, có tinh thần trách nhiệm,
coi việc TGPL cho người được TGPL như việc của mình. Người thực hiện
TGPL phải thực hiện tất cả quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy
định, bằng tất cả kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn, đầu tư cơng sức, trí tuệ,
khơng bỏ một công đoạn nào để tiến hành các hoạt động TGPL cho người
được TGPL. Chẳng hạn: Khi tham gia tố tụng, trợ giúp viên pháp lý phải thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của pháp luật tố
tụng như gặp gỡ người làm chứng, xem xét hiện trường, thu thập chứng cứ để
có đầy đủ cơ sở, căn cứ bảo vệ tốt nhất cho người được TGPL. Tuy nhiên,
mặc dù lợi ích hợp pháp của người được TGPL là trên hết nhưng việc TGPL
của người thực hiện phải phù hợp với pháp luật và quy tắc nghề nghiệp,
không xúi giục người được TGPL làm trái quy định của pháp luật.
+ Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL: Trong quá trình
thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL phải độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật, quy tắc nghề nghiệp TGPL (là các chuẩn mực
về hành vi, ứng xử, cách thức tổ chức công việc, các yêu cầu nghiệp vụ và
trách nhiệm cụ thể của tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL khi
thực hiện TGPL). Người thực hiện TGPL phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục
theo quy định của pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.
Nội dung TGPL phải phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
+ Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung TGPL: Việc thực hiện
TGPL do người thực hiện TGPL chịu trách nhiệm cá nhân (Phiếu tư vấn do

19


mình tự ký, khi tham gia tố tụng chịu trách nhiệm về tư cách tham gia của
mình). Do đó, nếu TGPL sai thì tùy theo mức độ vi phạm mà người thực hiện

TGPL bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp TGPL sai, gây
thiệt hại cho người được TGPL thì người thực hiện TGPL phải bồi thường
hoặc chịu trách nhiệm kỷ luật theo quy định của pháp luật.
- Các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí bao gồm: Tư vấn
pháp luật (hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật,
giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc TGPL); tham gia tố tụng (tham
gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được TGPL là người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được TGPL là người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hình sự; tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong vụ việc dân sự, vụ án hành
chính); đại diện ngoài tố tụng (được thực hiện cho người được TGPL khi họ
khơng thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình; việc đại diện
ngồi tố tụng được thực hiện trong phạm vi yêu cầu của người được TGPL);
các hình thức TGPL khác như: hịa giải, thực hiện những cơng việc liên quan
đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của
pháp luật. Đây cũng là những nội dung thuộc dịch vụ pháp lý nói chung của
luật sư. Ngồi ra, cịn có hoạt động kiến nghị thi hành pháp luật của Trung
tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm nhằm bảo đảm thực hiện
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Các tổ chức TGPL chỉ thực hiện các
vụ việc TGPL có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
- Lĩnh vực pháp luật được TGPL bao gồm: Pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự và thi hành án hình sự; pháp luật dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án
dân sự; pháp luật hơn nhân gia đình và pháp luật về trẻ em; pháp luật hành
chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; pháp luật đất đai, nhà ở, mơi
trường và bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm;
pháp luật ưu đãi người có cơng với cách mạng và pháp luật về chính sách ưu

20




×