Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và tăng trưởng,phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.83 KB, 73 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1.Bối cảnh và tính cấp thiết của đề tài.
Trong bối cảnh nền kinh tế Viêt Nam như hiện nay, việc phát triển các
dịch vụ nhanh đến mức chóng mặt, đất nước đang trong thời kỳ phát triển
nhanh chóng đòi hỏi các ngành dịch vụ phải theo kịp tiến độ của đất nước.
Ngành tư vấn đối với Việt Nam là một ngành mới, mang nặng tính trí tuệ, mang
lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Chính vì vậy, việc phát triển tư vấn là một việc hết
sức cần thiết, nó đưa ra những giải pháp, những sáng kiến trên cơ sở phân tích
các vấn đề hiện nay, tư vấn hướng dẫn chuyên môn cho các doanh nghiệp
những vấn đề họ yêu cầu.
Công ty Thiết kế và tư vấn xây dựng công trình hàng không ADCC là một
Công ty tư vấn hàng đầu Việt Nam. Công ty đã gặt hái được một số thành công
nhất định. Mặc dù vậy, năng lực và tính chuyên nghiệp vẫn chưa cao, cần phải
từng bước cải thiện nâng cao.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào :
- Phạm vi nghiên cứu trong giới hạn của Công ty ADCC.
- Chuyên đề sẽ tập trung nghiên cứu năng lực cung cấp dịch vụ tư vấn của
ADCC về sản phẩm, dịch vu, nhân sự, phương pháp tiếp cận,…
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Chuyên đề được viết nhằm tìm hiểu và đánh giá thực trạng và năng lực
cung cấp dịch vụ của Công ty ADCC. Từ việc nghiên cứu chi tiết về Công ty từ
đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị giúp Công ty ADCC phát triển về
cung cấp dịch vụ tư vấn.
4. Phương pháp thực hiện
- Phương pháp duy vất biện chứng.
- Phương pháp thống kê.
1
- Phương pháp phân tích, so sánh kết hợp với hệ thông lý thuyết và phân
tích định tính định lượng.
5. Đóng góp của đề tài


- Giới thiệu tổng quan về dịch vụ tư vấn và năng lực cung cấp dịch vụ tư
vấn hiện nay ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá được thực trạng cung cấp dịch của Công ty ADCC.
- Đưa ra một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cung cấp dịch
vụ tư vấn cho Công ty ADCC.
6. Bố cục luận văn
Ngoài lời nói đầu, Kết luận, và Phục lục, Nội dung chính của Chuyên đề
gồm 3 chương sau :
Chương I : Lý thuyết về Dự án phát triển dịch vụ tư vấn và năng lực cung
cấp dịch vụ tư vấn.
Chương 2 : Thực trạng năng lực cung cấp dịch vụ tư vấn cho các Dự án
phát triển
Chương III : Một số giải pháp nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ của
Công ty ADCC

2
CHƯƠNG I
Lý thuyết về phát triển dịch vụ tư vấn và năng lực cung cấp dịch
vụ tư vấn.
I. Khái niệm và phân loại dịch vụ tư vấn
1. Các khái niệm cơ bản
1.1 Khái niệm :
Từ trước đến nay, để xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi các nhà
lãnh đạo, những người đứng đầu, nhưng vị Vua phải có những chính sách và
hướng đi đúng đắn cho đất nước. Khi đó, việc tiếp thu ý kiến từ các quan lại,
những nhà tham mưu là hết sức cần thiết. Đây chính là dạng tiền thân của hoạt
động tư vấn. Nó được chú trọng trong tất cả các giai đoạn phát triển của xã hội.
Hoạt động tư vấn xuất hiện từ khi nền văn minh của nhân loại xuất
hiện. Tư vấn ra đời giúp cho người ra quyết định nắm được đầy đủ thông tin và
nhiều cách giải quyết các vấn đề hơn, từ đó đưa ra cách tốt nhất, hiệu quả nhất

cho hoạt động Kinh tế - xã hội cần giải quyết. Như vậy, cơ sở khách quan của
việc hình thành và phát triển tư vấn chính là quá trình phân công lao động xã
hội ngày càng sâu sắc cùng với tính chất phức tạp và cạnh tranh cao của hoạt
động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh nền Kinh tế thị trường đang diễn ra xu
thế xã hội hoá, Quốc tế hoá gay gắt.
Trong định nghĩa của từ điển Oxford, tư vấn có nghĩa là “trao lời
khuyên”. Theo định nghĩa này ta có thể hiểu rằng tư vấn ở đây không mang tính
chất mệnh lệnh hay chỉ thị cho một tổ chức, cá nhân nào đó mà nó chỉ mang
tính chất góp ý, dù cả trong hoạt động quản lý - tức là hoạt động trao lời khuyên
cho các nhà quản lý.
3
1.2 Bản chất :
Bản chất của dịch vụ tư vấn là quá trình “cung cấp lời khuyên”. Tất
nhiên, giá trị của lời khuyên còn tuỳ thuộc nhiều vào năng lực và khả năng tiếp
nhận của người sử dụng dịch vụ tư vấn. Ngày nay, tư vấn đang được đánh giá là
một nghề có tiềm năng rất lớn vì nghề tư vấn là lĩnh vực của những người cung
cấp lời khuyên hữu ích cho khách hàng trên cơ sở các quy tắc, chuẩn mực và
phương thức hành nghề, sản phẩm của nghề tư vấn là “lời khuyên”, giá trị nó
mang lại là rất lớn. Lời khuyên này được tạo từ các tổ chức và cá nhân độc lập
về hoạt động với tổ chức, cá nhân tiếp nhận nó. Họ dựa trên cơ sở phân tích các
vấn đề, sự kiện, tổ chức và cá nhân làm công tác tư vấn tạo ra những sản phẩm
thoả mãn yêu cầu của khách hàng.
Tại Việt Nam hiện nay, khái niệm tư vấn được hiểu một cách đầy đủ về
bản chất và nội dung vẫn còn là vấn đề khá mới mẻ, thậm chí ngay cả với đội
ngũ nòng cốt của các tổ chức tư vấn. Tư vấn thường được hiểu một cách phổ
biến như là việc bán những lời khuyên hoặc chuyển giao năng lực giải quyết
vấn đề. Hơn nữa còn cả sự lẫn lộn giữa tư vấn và môi giới, giữa hoạt động tư
vấn và việc đưa ra những lời khuyên đơn giản.
Trong đề tài này, khái niệm tư vấn được tiếp cận với tư cách là một dịch
vụ chuyên môn, trước hết là một loại hình dịch vụ. Tư vấn là một dịch vụ trí

tuệ, một hoạt động “chất xám” mà các chuyên gia cung cấp cho khách hàng
theo thoả thuận việc cập nhật thông tin, kiến thức, phát hiện các vấn đề, lựa
chọn các giải pháp thích hợp về chiến lược, sách lược, biện pháp hành động cho
các trường hợp cụ thể và chuyển giao nó đến khách hàng đúng lúc, theo cách
cần thiết, đồng thời, khi được yêu cầu hỗ trợ, hướng dẫn khách hàng thực hiện
các giải pháp đó nhằm đạt hiệu quả đề ra. Cách hiểu này phản ánh bản chất của
hoạt động tư vấn với tư cách là một hoạt động không chỉ liên quan đến hiểu biết
và kỹ năng về một lĩnh vực chuyên môn nào đó, mà phụ thuộc và những hiểu
biết và kỹ năng khác, bao gồm kỹ năng cập nhật, phát hiện, lựa chọn, chuyển
4
giao. Trong hoạt động tư vấn, người ta cung cấp thong tin, kiến thức va giải
pháp có chất lượng cao một cách độc lập, khách quan và chúng là những điều
không thể có của quản lý, nhân viên hay giám đốc.
1.3 Đặc điểm của tư vấn :
Dịch vụ tư vấn cũng như những dịch vụ khác, nó có một số đặc điểm
đặc trưng riêng của mình, đó là :
- Nó là quá trình liên tục chia sẻ thông tin giữa nhà tư vấn và khách
hàng.
- Đối tượng của dịch vụ tư vấn luôn cụ thể và xác định, “sản phẩm” của
tư vấn có tính khả thi và hiệu quả cao.
- Yếu tố cơ bản được cung cấp trong quá trình tư vấn là thông tin, tri
thức, giải pháp để giải quyết các vấn đề.
- Dịch vụ tư vấn luôn để lại một kết quả kép đối với người sử dụng,
ngoài kết quả trực tiếp giúp giải quyết vấn đề đặt ra, người sử dụng tư vấn còn
có cơ hội được nâng cao năng lực do được tiếp cận với các thông tin, kiến thức
từ nhà tư vấn.
Đặc điểm này khiến cho hoạt động tư vấn đặc biệt hữu ích đối với phát
triển nguồn nhân lực, cũng như nâng cao trình độ, chất lượng trong hoạt động
sản xuất kinh doanh.
2. Phân loại các hoạt động tư vấn.

Đối tượng của hoạt động tư vấn rất đa dạng, tuy nhiên để thuận lợi cho
việc nghiên cứu ta chia làm 3 đối tượng cụ thể :
2.1 Phân loại hoạt động tư vấn theo khách hàng.
Tư vấn cho tổ chức (có thể là một quốc gia, một cơ quan Nhà nước, một
doanh nghiệp, một tổ chức quần chúng…) : đại đa số các Doanh nghiệp, tổ
5
chức sản xuất, kinh doanh tầm cỡ trên thế giới đều có các nhà tư vấn riêng.
Phần lớn các dự án, các chương trình đổi mới, cải cách đều có ý kiến của các
chuyên gia. Một số Chính phủ phải thuê chuyên gia tư vấn nước ngoài để giải
quyết các vấn đề Kinh tế - xã hội. Nhiều chương trình cải cách dưới sự tài trợ
của các tổ chức Chính phủ hoặc phi Chính phủ cũng yêu cầu sử dụng dịch vụ tư
vấn nhu là điều kiện bắt buộc.
Tư vấn cho cá nhân : đây là một loại hình rất phổ biến trong nền kinh tế
thị trường và ở mọi Quốc gia. Không co cá nhân nắm bắt được mọi vấn đề đã,
đang và sẽ xảy ra trong xã hội. Các doanh nhân, không phụ thuộc vào quy mô,
lĩnh vực hoạt động đều có nhu cầu sư dụng dịch vụ tư vấn. Trong nhiều hoạt
động, cá nhân cần cho những lời khuyên của không phải một chuyên gia mà
một tập thể chuyên gia tư vấn để đưa ra quyết định đúng. Nhiều nguyên thủ
Quốc gia sử dụng cả một bộ máy cố vấn gồm các chuyên gia giỏi, có kiến thức
rộng, am hiểu sâu và kỹ năng tổng hợp nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác
nhau.
Việc phân chia tư vấn theo đối tượng khách hang là cá nhân hay tổ chức
cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối vì mỗi tổ chức được điều hành, quản lý bởi
những cá nhân. Trong nhiều trường hợp, tư vấn cho một tổ chức chính là tư vấn
cho một cá nhân (nhà quản lý, người điều hành hay người phụ trách tổ chức) và
ngược lại cho một tổ chức cá nhân cũng là tư vấn cho tổ chức mà cá nhân đóng
góp vai trò quản lý, lãnh đạo.
2.2 Phân loại theo chuyên môn tư vấn.
Tư vấn chính trị : đây là hoạt động tư vấn về các nguyên tắc, phương
thức, quyết sách trong lĩnh vực chính trị. Có thể nói, nhờ tư vấn, trong những

hoàn cảnh nhất định có khả năng thay đổi một thể chế chính trị; tạo nên một
cuộc cách mạng, một cuộc đảo chính hoặc về những vụ việc, sự kiện trong quan
hệ chính trị giữa các Quốc gia, giữa một Quốc gia với tổ chức Quốc tế…
6
Tư vấn pháp luật : đây là một trong những hoạt động tư vấn được hình
thành trong các nhà tư sản pháp quyền, khi mà nhận thức và điều kiện tiếp xúc
của người dân đối với pháp luật chưa trở thành phổ biến. Hoạt động tư vấn
được thưc hiện bởi đội ngũ luật sư, các tổ chức tư vấn nhằm giúp đỡ người dân
hiểu biết và tuân thủ luật pháp.
Tư vấn kinh tế : đây là một loại hình tư vấn phát triển sớm nhất và ngày
càng chiếm vị trí quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường. Loại hình này nhằm cung cấp cho các nhà sản xuất kinh
doanh những ý kiến, quan điểm thị trường và cách thức tiếp cận, chiếm lĩnh và
chia sẻ thị trường. Hình thức tư vấn phát triển, nhiều loại hình tư vấn mang tính
chất dự báo ra đời. Tư vấn kinh tế là lĩnh vực rộng và có thể chia sẻ nhỏ thành
tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư và tư vấn kỹ thuật…
Tư vấn những vấn đề xã hội : nhu cầu tư vấn những vấn đề xã hội ngày
càng cao do các mối quan hệ gia đình xã hội ngày càng phức tạp. Những lời
khuyên trong lĩnh vực này có thể mang tính chất riêng rẽ theo yêu cầu của các
cá nhân, cũng có thể mang tính xã hội trên các phương diên thông tin đại chúng.
2.3 Phân loại theo quan hệ tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn.
Tư vấn nội bộ : giữa nhà tư vấn và người sử dụng tư vấn có sự phụ
thuộc hoặc liên quan về hành chính và tài chính. Các bộ phận tư vấn nội bộ
được xây dựng trong một khu vực, một ngành hoặc một tổ chức. Hoạt động của
loại hình tư vấn này chủ yếu nhằm vào phục vụ quyết sách cho lãnh đạo khu
vực, ngành đó, đơn vị đó. Lợi thế của tư vấn nội bộ là có thể căn cứ vào nhu
cầu công việc, yêu cầu của lãnh đạo, kịp thời đưa ra các ý kiến tư vấn phù hợp
do có những thông tin cần thiết một cách kịp thời, chính xác và sự hiểu biết sẵn
có về tổ chức. Tuy nhiên, tư vấn nội bộ có một nhược điểm khó khắc phục, đó
là thường chịu sự ảnh hưởng, can thiệp của lãnh đạo trong quá trình nghiên cứu

vấn đề và đưa ra lời khuyên. Vì vậy, tính khách quan, khoa học của quá trình
7
cung cấp dịch vụ tư vấn bị ảnh hưởng dẫn đến tính khả thi của lời khuyên và
hiệu quả của tư vấn nội bộ thường không cao.
Tư vấn bên ngoài hay tư vấn độc lập : giữa nhà tư vấn và người sử dụng
tư vấn không có sự phụ thuộc liên hệ về tổ chức hành chính. Trên lý thuyêt, do
không có mối quan hệ hành chính với nhà đầu tư nên nhà tư vấn ít chịu sự chi
phối của khách hang và dễ dàng tiếp thu ý kiến của các chuyên gia có liên quan,
vì thế có thể đưa ra những ý kiến tư vấn có tính khách quan, độc lập. Tính khả
thi, khoa học của tư vấn độc lập cũng thường cao hơn so với tư vấn nội bộ.
3. Đối tượng, phạm vi hoạt động của tư vấn.
Hiện nay, tư vấn đã tham gia vào hầu hết các hoạt động kinh tế, chính
trị, văn hóa xã hội. Hầu hết các tổ chức kinh tế - xã hội trên thế giới, các cơ
quan quản lý Nhà nước, các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ đều sử dụng
dịch vụ tư vấn trong quá trình thực hiện hoạt động. Vai trò của các nhà tổ chức
tư vấn trong sự phát triể Kinh tế - xã hội ngày càng tăng, mặc dù nó không thể
hiện bằng những con số, chỉ tiêu cụ thể.
Việc sử dụng tư vấn đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với
các tổ chức, cá nhân trong việc ổn định và phát triển. Quan niệm về sử dụng tư
vấn đã thay đổi, người ta sử dụng tư vấn không phải khi không giải quyết được
vấn đề, khi công việc gặp trở ngại, mà là sử dụng tư vấn như là một thông lệ,
biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy
việc sử dụng dịch vụ tư vấn đã góp phần đưa ra nhiều ý tưởng hành động và
nắm bắt được những cơ hội kinh doanh mới. Như vậy, dịch vụ tư vấn có thể
giúp khách hàng khắc phục khó khăn, cải thiện tình hình hiện tại hoặc để tạo ra
hướng phát triển mới.
Đối tượng phục vụ của tư vấn rất đa dạng. Tuy nhiên, để thuận tiện
trong việc nghiên cứu các nội dung về hiện trạng phát triển của các loại hình tư
8
vấn và đề ra các biện pháp phát triển phù hợp, đối tượng của phục vụ tư vấn

được chia thành các loại sau :
3.1 Chính phủ, các cơ quan Nhà nước
Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tư vấn của các khu vực Nhà
nước cũng tăng theo. Mặc dù Chính phủ và các cơ quan Nhà nước thường có
một cơ quan chuyên môn để tham mưu và tư vấn nội bộ nhưng nhu cầu sử dụng
các dịch vụ tư vấn bên ngoài của Chính phủ và cơ quan thuộc Chính phủ rất
lớn, đặc biệt là Chính phủ và cơ quan Nhà nước các nước tiên tiến như Mỹ,
Anh. Chính phủ và các cơ quan Nhà nước thường cơ nhu cầu tư vấn trong lĩnh
vực xây dựng chính sách - chiến lược, xây dựng luật pháp, quy hoạch tổng thể,
thiết kế và thực hiện dự án…
Mọi cá nhân, tổ chức đều có thể trở thành chuyên gia tư vấn, cung cấp
dịch vụ tư vấn cho Chính phủ và các cơ quan Nhà nước thông qua các hợp đồng
tư vấn. Đối với Viêt Nam, các cơ quan Nhà nước thường mời các Công ty tư
vấn trong nước, các công ty tư vấn nước ngoài và các cá nhân tư vấn nước
ngoài tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn.
3.2 Các Doanh nghiệp
Đối với các nước phát triển, các doanh nghiệp thường xuyên sử dụng
dịch vụ tư vấn xuyên suốt quá trình kinh doanh. Dịch vụ tư vấn của doanh
nghiệp rất đa dạng gồm nghiên cưu thị trường, tư vấn pháp lý, quản lý, tài
chính, tư vấn thuế… Ngày nay, các tập đoàn đa Quốc gia thường lựa chọn cho
mình một số hang tư vấn nhất định để cung cấp dịch vụ tư vấn cho các hoạt
động kinh doanh, chẳng hạn tập đoàn Unilever trên toàn cầu chỉ sử dụng dịch
vụ kiểm toán và tư vấn tài chính của Công ty PriceWaterhouse Cooper, sử dụng
dịch vụ tư vấn pháp lý của Baker & McKenzie và sử dụng dịch vụ nghiên cứu
thị trường của AC Niensel.
9
3.3 Các tổ chức Quốc tế
Các tổ chức Quốc tế cũng có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn rất lớn. Do
tính chất của các hoạt động, do thể chế, hành lang pháp lý, các thủ tục khác
nhau giữa các Quốc gia, do sự khách quan trong công việc mà các tổ chức Quốc

tế cần phải sử dụng các hãng tư vấn và các chuyên gia tư vấn độc lập trong quá
trình thực hiện chương trình và dự án của họ. Dịch vụ tư vấn chủ yếu cho các tổ
chức này thiết kế chuẩn bị các chương trình và dự án, dịch vụ tư vấn giám sát,
dịch vụ tư vấn đánh giá hiệu qủ việc thực hiện. Một số tổ chức Quốc tế có nhu
cầu sử dụng dịch vụ tư vấn lớn trên thế giới được kể như Ngân hàng thế giới,
Ngân hàng Phát triển châu Á, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Liên hiệp quốc…
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cung cấp dịch vụ của các hãng
tư vấn hiện nay.
1. Khả năng và kinh nghiệm chung của các Công ty tư vấn.
Đây là những thông tin cơ bản ban đầu để giới thiệu khả năng và kinh
nghiệm của một hãng tư vấn với khách hàng. Trong bộ tiêu chí đánh giá và lựa
chọn nhà thầu tư vấn, năng lực và kinh nghiệm của Công ty tư vấn đựoc xem
xét đầu tiên mặc dù tỷ trọng điểm của tiêu chí này thường không cao. Tuỳ theo
từng gói thầu tư vấn cụ thể, tỷ trọng của từng tiêu chí này có thể sẽ được điều
chỉnh cho phù hợp. Tuy nhiên, tỷ trọng của tiêu chí này thường chỉ chiếm từ 0.1
đến 0.2. Tức là chỉ chiếm tối đa từ 10 đến 20 điểm trong thang điểm 100 của bộ
tiêu chí đánh giá. Năng lực và kinh nghiệm của Công ty tư vấn được nghiên cứu
chi tiết theo từng khía cạnh sau :
1.1 Khả năng chung
Thời gian tồn tại và phát triển : khả năng chung của Công ty tư vấn
được đề cập đến thời gian tồn tại và phát triển càng dài thì sẽ có năng lực thực
hiện và cung cấp dịch vụ tư vấn tốt hơn những Công ty mới thành lập.
10
Dịch vụ chủ yếu : một Công ty tư vấn chỉ có một hoặc một số dịch vụ
chủ yếu cung cấp cho thị trường. Chẳng hạn, dịch vụ nghiên cứu thị trường,
dịch vụ tư vấn tài chính và thuế các doanh nghiệp… Những dịch vụ chủ yếu
hay lĩnh vực chuyên môn chính này có ý nghĩa quyết định đến năng lực thực
hiên công việc tư vấn. Có nghĩa là một công ty tư vấn dịch vụ chủ yếu là nghiên
cứu thị trưòng cho các doanh nghiệp như AC Nielsen (Hoa Kỳ) sẽ không có
năng lực để thực hiện công việc tư vấn phát triển cộng đồng. Hoặc ngược lại,

một Công ty chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn kỹ thuật và công nghệ như COWI
(Đan Mạch) sẽ không có năng lực cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và thuế cho
doanh nghiệp như Ensrt & Young hay KPMG.
1.2 Kinh nghiệm của tư vấn
Ngoài việc Công ty cung cấp các dịch vụ chủ yếu liên quan đến chuyên
môn của gói thầu thì những thông tin về kinh nghiệm thưc hiện các dịch vụ tư
vấn có tính chất tương tự là hết sức có ý nghĩa để xác định năng lực của Công
ty. Những thông tin về kinh nghiệm thực hiện công việc tương tự để chứng tỏ
năng lực thực hiện và cung cấp dịch vụ tư vấn gồm :
- Tên dịch vụ, nội dung chính của dịch vụ.
- Địa điểm và thời gian thực hiện.
- Tên và địa chỉ của khách hàng và nhà tài trợ.
- Tên và địa chỉ của đối tác kinh doanh.
- Các đầu vào do Công ty cung cấp.
- Giá trị hợp đồng thực hiện.
- Những công việc và dịch vụ cụ thể đã thực hiện và cung cấp.
Tất cả các thông tin trên sẽ được trình bày và giới thiệu trong khung
mẫu và được gói trọn trong một trang.
11
1.3 Kinh nghiệm làm việc tại Quốc gia có điều kiện Kinh tế - Xã hội tương
tự.
Năng lực cung cấp dịch vụ tư vấn còn được thể hiện ở các kinh nghiệm
thực hiện các công việc có điều kiện Kinh tế - xã hộ tương tự. Các nhà tài trợ
thường áp dụng các tiêu chí đánh giá này cho các Công ty tư vấn Quốc tế khi
tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ cho một nước khác không phải là Quốc gia
của họ. Chẳng hạn, các nhà thầu Quốc tế đã từng cung cấp dịch vụ tư vấn cho
các dự án ODA tại Trung Quốc sẽ có lợi thế khi tham gia đấu thầu cung cấp
dịch vụ tư vấn cho Việt Nam. Công ty tư vấn đã thực hiện nhiều công việc tư
vấn tại các Quốc gia có điều kiện Kinh tế - xã hội tương tự thì năng lực cung
cấp dịch vụ sẽ được đánh giá cao hơn.

1.4 Xác nhận của khách hàng
Kinh nghiệm thực hiện và cung cấp các công việc tương tự và kinh
nghiệm làm việc tại các Quốc gia co điều kiện kinh tế xã hội tương tự là yếu tố
thể hiện năng lực cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, xác nhận của khách hàng là một
yếu tố hết sức cần thiết để kiểm chứng năng lực thực sự của công ty tư vấn.
Thông thường, sau mỗi hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, đại diệnc của khách
hàng sẽ có một bản xác nhận cho công ty tư vấn, trong đó các nội dung công
việc và các dịch vụ cung cấp được khách hàng nêu rõ. Đồng thời, điều quan
trọng là khách hàng đưa ra ý kiến đánh giá chất lượng dịch vụ do tư vấn cung
cấp. Khách hàng đánh giá chất lượng dịch vụ càng cao thì năng lực cung cấp
dịch vụ tư vấn càng được khẳng định.
2. Phương pháp tiếp cận và kế hoạch thực hiện tư vấn.
Nếu như “khả năng và kinh nghiệm chung” là một yếu tố thể hiện năng
lực cung cấp dịch vụ của công ty có “tính tĩnh”, tức là trong một hoàn cảnh nhất
định, công ty tư vấn không thể sửa đổi hoặc điều chỉnh được yêu tố này để nâng
12
cao năng lực cung cấp dịch vụ tư vấn, thì “phương pháp tiếp cận và kế hoạch
thực hiện” mà Công ty đề xuất để cung cấp dịch vụ là một yếu tố có “tính
động”, có nghĩa là công ty có thể nghiên cứu để đề xuất một phương pháp tiếp
cận và kế hoạch thực hiện tốt nhất để thể hiện năng lực thực hiện công việc cao
nhất. Trong bộ tiêu chí đánh giá năng lực của Công ty tư vấn, tuỳ theo từng gói
thầu dịch vụ cụ thể, tỷ trọng của tiêu chí này thường chiếm từ 0.35 đến 0.45
trong bộ tiêu chí đánh giá, tức là chiếm từ 35 đến tối đa là 45 điểm trong thang
điểm 100 của bộ tiêu chí. Theo tiêu chí này, năng lực cung cấp dịch vụ của tư
vấn được thể hiện ở các khía cạnh sau đây :
2.1 Hiểu biết về nội dung công việc yêu cầu và sản phẩm tư vấn cần đạt
Để thực hiện và cung cấp được dịch vụ tư vấn theo đúng yêu cầu, việc
Công ty tư vấn phải hiểu biết rõ được các nội dung công việc và kết quả tư vấn
cần đạt là điều kiện hết sức cần thiết. Năng lực cung cấp dịch vụ thể hiện ở chỗ
Công ty tư vấn hiểu biết về nội dung công việc và kết quả ở mức độ như thế

nào. Cụ thể sự hiểu biết của Công ty tư vấn phải bao quát được các nội dung
sau :
- Bối cảnh của công việc.
- Mối liên hệ giữa công việc với những công việc khác liên quan.
- Nội dung chính cần thực hiện công việc.
- Kết quả đầu ra của dịch vụ mà khách hàng cần.
Trong sơ đồ mời thầu, những thông tin cơ bản nhất về công việc và sản
phẩm thường được khách hàng cung cấp cho các Công ty tham gia đấu thầu.
Tuy nhiên, Công ty tư vấn phải tìm hiểu them từ những kênh thông tin khác
nhau để có được những hiểu biết đầy đủ về công việc yêu cầu trong một tổng
thể chung và xác định được kết quả cuối cùng mà khách hàng yêu cầu. Những
hiểu biết về Công ty tư vấn về công việc và sản phẩm dịch vụ càng đầy đủ và
chính xác thì năng lực cung cấp dịch vụ của Công ty cang cao.
13
2.2 Những nhận xét và gơi ý cải thiện nội dung yêu cầu
Hiểu rõ các nội dung công việc cần thưc hiện và sản phẩm yêu cầu của
khách hàng gọi là “điều khoản tham chiếu” là một yếu tố cần thiết. Trong nhiều
trường hợp, điều khoản tham chiếu của khách hàng có thể sẽ có những hạn chế
hoặc có những nội dung chưa hợp lý do trong quá trình xây dựng chưa lường
hết các vấn đề thực tế. Khách hàng thường yêu cầu các Công ty tư vấn nghiên
cứu đầy đủ điều khoản tham chiếu, phát hiện ra những hạn chế và đưa ra một số
gợi ý cải thiện. Năng lực cung cấp dịch vụ của Công ty tư vấn được đánh giá
cao khi Công ty phát hiện được những hạn chế của điều khoản tham chiếu và đề
xuất những gợi ý xác đáng và được khách hàng chấp thuận điều chỉnh.
Trong một số trường hợp, trong quá trình xây dựng điều khoản tham
chiếu, khách hang cố tình đưa ra những hạn chế, chẳng hạn như thời điểm giao
nộp sản phẩm tư vấn cuối cùng của tư vấn vào đúng dịp nghỉ Tết cổ truyền của
Việt Nam, như là một “phép thử” giành cho các Công ty tư vấn. Nhiệm vụ của
các Công ty tư vấn khi tham gia đấu thầu là phải nghiên cứu đầy đủ điều khoản
tham chiếu, phát hiện ra tất cả những hạn chế và đưa ra gợi ý thiết thực cho

khách hàng nhằm thể hiện năng lực cung cấp dịch vụ của mình.
2.3 Phương pháp luận và phương pháp tiếp cận
Phương pháp luận và phương pháp tiếp cận là yếu tố đầu tiên quyết
định sự thành công hay thất bại của Công ty tư vấn đối với công việc. Tuỳ vào
từng công việc nhất định, Công ty tư vấn sẽ đưa ra một phương pháp luận và
phương pháp tiếp cận cụ thể để đảm bảo tính hiệu quả và tính toàn diện của
phương pháp. Khách hàng luôn yêu cầu Công ty tư vấn đưa ra được phương
pháp luận và phương pháp tiếp cận thực hiện các nội dung công việc trong điều
kiện tham chiếu đảm bảo thực hiện hiệu quả và đủ linh hoạt để áp dụng đối với
những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện công việc. Những vấn đề
trong điều khoản tham chiếu cần được Công ty tư vấn đề xuất giải quyết một
14
cách sáng tạo và hiệu quả. Trong quá trình đánh giá và lựa chọn, phương pháp
tiếp cận của Công ty tư vấn nào được đánh giá tốt thì Công ty đó được đánh giá
có năng lực thực hiện và cung cấp dịch vụ. Số điểm đánh giá phương pháp tiếp
cận càng cao thì năng lực cung cấp dịch vụ càng cao và ngược lại.
Trên thực tế, với từng lĩnh vực chuyên môn nhất định, mỗi Công ty tư
vấn thường có một cách tiếp cận khung đã được mô hình hoá thành một phương
pháp tiếp cận đặc trưng của Công ty đó. Chẳng hạn tập đoàn tư vấn Grant
Thornton mô hình hoá phương pháp tiếp cận thành sơ đồ các vòng tròn khép
kin, mỗi một vòng tròn mô tả một bước thực hiện công việc thể hiện các vấn đề
cần giải quyết và kết quả đạt được từ việc giải quyết các vấn đề đó. Công ty tư
vấn và kiểm toán KPMG lại mô hình hoá phương pháp tiếp cận bằng một sơ đồ
chuỗi từ trái qua phải, mỗi một mắt xích mô tả một bước thực hiện công việc
thể hiện các vấn đề cần giải quyết và kết qủ đạt được từ việc giải quyết các vấn
đề đó. Như vậy, có thể thấy rằng phương pháp tiếp cận của từng công việc khác
nhau là không giống nhau nhưng các Công ty tư vấn thường cố gắng thể hiện
phương pháp tiếp cận dưới dạng một mô hính đặc trưng riêng mang màu sắc
Marketing của Công ty.
2.4 Kế hoạch thực hiện công việc

Viêc đưa ra được một kế hoạch thực hiện phù hợp với yêu cầu trong
điều khoản tham chiếu là rất cần thiết cho Công ty tư vấn. Đây cũng là một yếu
tố thể hiện năng lực cung cấp dịch vụ của Công ty tư vấn. Khách hàng luôn yêu
cầu các Công ty tư vấn đề xuất được một kế hoạch thực hiện khớp với những
yêu cầu trong điều khoản tham chiếu và hài hoà với tiến trình chung của tổng
thể. Tất cả các hoạt động chính được nêu trong điều khoản tham chiếu cần phải
được thể hiện trong kế hoạch công việc và lịch biểu thực hiện (thời gian bắt đầu
và thời gian kết thúc) phải phù hợp với đầu r among muốn của khách hàng và
sử dụng tối ưu nguồn lực đầu vào. Kế hoạch công việc cần thể hiện được mối
15
liên hệ với phương pháp tiếp cận có tính thực tiễn cao và được thực hiện một
cách hiệu quả. Ngoài ra, một kế hoạch thực hiện tốt là kế hoạch đó phải có sư
linh hoạt, đáp ứng được những thay đổi bất thường trong quá trình triển khai và
có giải pháp dự phòng. Công ty tư vấn được đánh giá có năng lực thực hiện và
cung cấp dịch vụ cao là Công ty đề xuất được kế hoạch thực hiên công việc tốt.
Trên thực tế, các Công ty tư vấn thường thể hiện kế hoạch công việc
dưới dạng biểu đồ Gannt thông qua việc sử dụng phần mềm ứng dụng
Microsoft Office Project. Ngoài biểu thị bằng sơ đồ, các Công ty tư vấn thường
có thêm phần thuyêt minh chi tiết trong bản đề xuất. Sự kết hợp giữa sơ đồ và
phần thuyêt minh mô tả bằng ngôn ngữ viết sẽ phần nào thuận lợi cho khách
hàng hiểu rõ hơn kế hoạch thực hiện công việc được Công ty đề xuất.
2.5 Tổ chức thực hiện
Tổ chức thực hiện là việc bố trí nguồn nhân lực để thực hiện kế hoạch
công việc được Công ty tư vấn đề xuất trong sơ đồ dự thầu. Cùng với phương
pháp tiếp cận và kế hoạch công việc phù hợp với điều khoản tham chiếu, khách
hang luôn yêu cầu các Công ty tư vấn đưa ra kế hoạch tổ chức thực hiện rõ
rang, chi tiết phù hợp với công việc đã đề xuất, trong đó các vị trí trong việc tổ
chức thực hiện và quản lý công việc phải được xác định. Tổ chức và bố trí nhân
sự phải đưa ra được vị trí trưởng nhóm tư vấn, các chuyên gia chủ chốt cho các
vị trí công việc. Tất cả các chuyên gia được đề xuất tham gia thực hiện phải có

trình độ chuyên môn và kinh nghiệm phù hợp với yêu cầu trong điều khoản
tham chiếu cho từng vị trí. Tổ chức thực hiện và bố trí nhân sự hợp lý, đảm bảo
đạt được sản phẩm đầu ra theo yêu cầu của khách hàng thì năng lực cung cấp
dịch vụ của Công ty mới được đánh giá cao.
Trên thực tế, các Công ty tư vấn thường sơ đồ hoá kế hoạch tổ chức
thực hiện đề xuất trong hồ sơ dự thầu. Thêm vào đó, các Công ty tư vấn sẽ bổ
sung phần thuyết minh cho cơ cấu tổ chức quản lý và thực hiện bằng cách nêu
16
rõ mối quan hệ giữa cán bộ chủ chốt và các chuyên gia, mối liên hệ giữa các
chuyên gia và mối liên hệ của nhóm chuyên gia với khách hàng và các đối
tượng thực hiện. Ngoài ra, một kế hoạch tổ chức thực hiện và bố trí nhân sự tốt
phải trình bày rõ chức năng của từng vị trí, từng chuyên gia và các công việc
mà các chuyên gia được đề xuất sẽ thực hiện trong suốt quá trình thực hiện
công việc.
3. Nguồn nhân lực tham gia thực hiện công việc
Sản phẩm của tư vấn là sản phẩm trí tuệ mà các chuyên gia đề xuất thực
hiện là yếu tố quyết định chất lượng của dịch vụ tư vấn. Do đó, năng lực cung
cấp dịch vụ của Công ty tư vấn phụ thuộc gần như hoàn toàn vào trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm của các chuyên gia. Do đặc điểm này, các nhà tài
trợ cũng dựa vào yếu tố này để đánh giá và xác định năng lực của nhà thầu tư
vấn. Điểm đánh giá đội ngũ nhân sự do nhà thầu tư vấn đề xuất càng cao thì nhà
thầu càng có năng lực cung cấp dịch vụ tư vấn. Trong bộ tiêu chí đánh giá năng
lực của Công ty tư vấn, tuỳ theo từng gói thầu dịch vụ cụ thể, tỷ trọng của tiêu
chí đánh giá trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của các đội ngũ nhân sự đề
xuất thường chiếm tỷ trọng từ 0.4 đến 0.5 trong bộ tiêu chí đánh giá, tức là
chiếm 40 đến 50 điểm trong thang điểm 100 của bộ tiêu chí.
Lý lịch khoa học, được gọi tắt là “CV”, của chuyên gia hầu như là cơ sở
duy nhất để đánh giá sự phù hợp của chuyên gia được đề xuất với yêu cầu về
chuyên môn và kinh nghiệm cho từng vị trí công việc được mô tả trong điều
khoản tham chiếu. Trong những trường hợp cần thiết, khách hàng có thể sử

dụng them phương pháp phỏng vấn để đánh giá chính xác hơn sự phù hợp của
chuyên gia đối với công việc yêu cầu.
17
3.1 Trưởng nhóm tư vấn
Trưởng nhóm tư vấn có vai trò quan trọng nhất trong cơ cấu tổ chức
quản lý và thực hiện của nhà thầu tư vấn và có ý nghĩa quyết định đối với sản
phẩm tư vấn giao nộp khách hàng. Do đó, năng lực của trưởng nhóm tư vấn là
yếu tố quan trọng và trưởng nhóm tư vấn thường được đánh giá riêng trong
nhóm chuyên gia được đề xuất. Năng lực của trưởng nhóm tư vấn thường được
xem xét và đánh giá theo các nội dung sau :
(1) Trình độ chuyên môn : trình đô chuyên môn thể hiện ở bằng cấp học
vị mà chuyên gia đó có được phải phù hợp với lĩnh vực chuyên môn của công
việc tư vấn. Chẳng hạn, công việc tư vấn thuộc lĩnh vực tài chính công thì cần
thiết trình độ chuyên môn của trưởng nhóm tư vấn yêu cầu phải có bằng cấp về
quản lý tài chính.
(2) Kinh nghiệm liên quan : trưởng nhóm tư vấn được yêu cầu phải có
kinh nghiệm làm việc với một thời gian nhất định. Thông thường, khách hàng
yêu cầu trưởng nhóm tư vấn phải có kinh nghiệm làm việc tư vấn trên 15 năm
và đã tham gia thực hiện tối thiểu 5 công việc thuộc lĩnh vực tương tự. Ngoài
ra, để được đánh giá cao, trưởng nhóm tư vấn phải có kinh nghiệm làm trưởng
nhóm tư vấn ít nhất 3 công việc.
(3) Kinh nghiệm trong khu vực và ngôn ngữ : nội dung này chỉ được
khách hàng áp dụng để đánh giá cho chuyên gia tư vấn Quốc tế. Ngoài trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm liên quan, trưởng nhóm tư vấn còn được yêu cầu
phải có kinh nghiệm làm việc trong khu vực hoặc kinh nghiệm làm việc tại
Quốc gia của khách hàng, chẳng hạn là Việt Nam. Mặt khác, trưởng nhóm tư
vấn sẽ được đánh giá cao hơn nếu biết ngôn ngữ chính thống của khách hàng,
chẳng hạn tiếng Việt.
18
3.2 Các chuyên gia khác

Các chuyên gia được đề xuất các công việc có tính chuyên môn riêng
được khách hàng đánh giá riêng với các nội dung đánh giá sau :
(1) Trình độ chuyên môn : trình độ chuyên môn thể hiện ở bằng cấp học
vị mà chuyên gia đó có được phải phù hợp với lĩnh vực chuyên môn của công
việc tư vấn. Chẳng hạn, công việc tư vấn thuộc lĩnh vực phát triển cộng đồng
thì chuyên gia tư vấn được yêu cầu phải có trình độ chuyên môn về xã hội học.
Trình độ chuyên môn của chuyên gia càng sát với lĩnh vực yêu cầu thì chuyên
gia đó được đề xuất đánh giá có năng lực thực hiện công việc.
(2) Kinh nghiệm liên quan : giống như trưởng nhóm tư vấn, các chuyên
gia khác cũng được yêu cầu phải có kinh nghiệm làm việc với một thời gian
nhất định. Thông thường, khách hàng yêu cầu các chuyên gia tư vấn phải có
kinh nghiệm làm việc tư vấn trên 10 năm, và đã tham gia thực hiện tối thiểu là 4
công việc thuộc lĩnh vực tương tự. Tuy nhiên, khách hàng không yêu cầu
chuyên gia phải có kinh nghiệm làm trưởng nhóm tư vấn trước đó cho các công
việc thuộc lĩnh vực tương tự.
(3) Kinh nghiệm trong khu vực và ngôn ngữ : nội dung này chỉ được
khách hàng áp dụng để đánh giá cho chuyên gia tư vấn Quốc tế. Giống như
trưởng nhóm tư vấn, các chuyên gia khách cũng được yêu cầu phải có kinh
nghiệm làm việc trong khu vực hoặc kinh nghiệm làm việc tại Quốc gia của
khách hàng, chẳng hạn Việt Nam. Mặt khác, chuyên gia tư vấn sẽ được đánh
giá cao hơn nếu biết ngôn ngữ chính thống của khách hàng, chẳng hạn là tiếng
Việt.
Qua việc tìm hiểu và phân tích năng lực cung cấp dịch vụ ở phần trên,
có thể kết luận rằng năng lực cung cấp dịch vụ của hang tư vấn là một pham trù
có “tính động” rất cao. Năng lực cung cấp dịch vụ không chỉ chịu ảnh hưởng
bởi các yếu tố nội tại của hãng tư vấn mà còn chịu ảnh hưởng hởi yếu tố bên
ngoài hang, đó là lĩnh vực chuyên môn của công việc thực hiện. Chẳng hạn,
19
một Công ty có nhiều kinh nghiệm thực hiện và có đội ngũ chuyên gia rất giỏi
về lĩnh vực tài chính công sẽ được đánh giá là không có năng lực cung cấp dịch

vụ tư vấn cho một hoạt động thuộc lĩnh vực phát triển nông thôn.
Hơn thế nữa, sự chuẩn bị của Công ty cho từng công việc cũng là một
yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cung cấp dịch vụ của Công ty cho hoạt động đó.
Ví dụ, trường hợp Công ty tư vấn đầu tư nhiều thời gian tìm hiểu và chuẩn bị hồ
sơ dự thầu đầy đủ với việc đề xuất một phương pháp tiếp cận, một bản kế hoạch
công việc và một mô hình tổ chức thực hiện hợp lý, cùng với việc đề xuất một
đội ngũ chuyên gia giỏi thì năng lực cung cấp dịch vụ của Công ty sẽ cao hơn
trường hợp Công ty đầu tư ít thời gian tìm hiểu và chuẩn bị không chu đáo.
III. Nhu cầu phát triển dịch vụ tư vấn.
1. Thực trạng dịch vụ tư vấn hiện nay ở Việt Nam.
1.1 Quá trình hình thành và phát triển.
Tư vấn đã tồn tại và phát triển ở Việt Nam từ lâu, chủ yếu dưới hình
thức tư vấn nội bộ, tư vấn phụ thuộc của các Viện nghiên cứu, Viện thiết kế của
Nhà nước và hoạt động Kinh tế phụ của từng chuyên gia đơn lẻ. Kể từ khi có
chính sách đổi mới, các tổ chức tư vấn độc lập mới có điều kiện hình thành và
hoạt động. Từ đầu những năm 90 đến nay, số lượng các tổ chức tư vấn thuộc cả
khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Quốc doanh đã tăng khá mạnh. Đã hình
thành một sự phân công lao động mới trong một bộ phận trí thức hoạt động
trong ngành tư vấn. Sự phát triển của hoạt động tư vấn đang diễn ra sôi nổi
trong thực tiễn.
Nhu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp Việt Nam, các nhà đầu tư
nước ngoài và tổ chức tài trợ Quốc tế hoạt động tại Việt Nam, các cơ quan quản
lý Nhà nước đối với các dịch vụ tư vấn đang đặt ra yêu cầu cấp bách đối với sự
phát triển của ngành tư vấn Việt Nam nhằm phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ to
lớn của đội ngũ trí thức phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước.
20
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm khuyến khích sự phát triển của tư vấn
Việt Nam. Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá VIII (tháng 12/1996) đã đề ra định hướng phát triển khoa học và công
nghệ của Việt Nam đến năm 2020, trong đó khẳng định chủ trương “mở rộng

mạng lưới dịch vụ tư vấn khoa học và công nghệ”, yêu cầu thực hiện các việc
“miễn hoặc giảm thuế doanh thu cho các hoạt động tư vấn khoa học và công
nghệ” cũng như đề ra nhiều chủ trương khác có ảnh hưởng tích cực đến ngành
tư vấn. Phát triển ngành tư vấn Việt Nam cũng chính là thực hiện yêu cầu của
Nghị quyết TW2 là phải “có những hình thức tổ chức, phương pháp và cơ chế
hoạt động hợp lý để phát huy tối đa trí tuệ tập thể cũng như tài năng cá nhân
của nhà khoa học”. Do đó, Nhà nước đã nghiên cứu và xây dựng “Chiến lược
phát triển tư vấn Việt Nam đến năm 2020” (như một nội dung trong tổng thể
“Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2020”) để
nhằm cụ thể hoá chủ trương và đáp ứng yêu cầu cấp thiết về phát triển tư vấn
Việt Nam.
1.2 Trình độ phát triển của ngành tư vấn Việt Nam trong thời gian qua.
Để đánh giá trình độ phát triển của ngành tư vấn, người ta thường dung
hai tiêu chí là số lượng chuyên gia tư vấn và thị phần của các Công ty tư vấn
trong nước so với thị phần của các Công ty tư vấn nước ngoài. Số chuyên gia tư
vấn dung để đo mức tăng trưởng về quy mô và mức độ chuyên nghiệp của tư
vấn Việt Nam. Thị phần tư vấn thể hiện sự vươn lên về trình độ chuyên môn và
năng lực của Công ty tư vấn Việt Nam so với tư vấn nước ngoài trong các dự án
phát triển và thể hiện một phần sự đóng góp của tư vấn Việt Nam (tiết kiệm chi
phí thuê tư vấn nước ngoài, tăng sự tự chủ, độc lập trong việc giải quyết các bài
toán thực tiễn đặt ra).
Về số lượng chuyên gia tư vấn, số lượng chuyên gia có trình độ đại học
trở lên làm việc thường xuyên trong Công ty Việt Nam hành nghề tư vấn
21
chuyên nghiệp trong 3 lĩnh vực chủ yếu : tư vấn kỹ thuật – xây dựng, tư vấn đầu
tư - quản lý, tư vấn pháp lý đã tăng lên tương đối nhiều so với giai đoạn đầu
phát triển. Điều này cho thấy ngành tư vấn của Việt Nam có mức tăng trưởng
về quy mô và mức chuyên nghiệp đáng kể trong thời gian vừa qua. Nếu như
trước năm 1995, số lượng chuyên gia tư vấn của Việt Nam còn dưới 15.000
người nhưng đến năm 1998 đã trên 15.000 người và hiện nay con số đó ước

tính là khoảng 25.000 người.
Về thị phần, tỷ lệ giữa tổng doanh thu của các Công ty tư vấn của Việt
Nam so với tổng phí đầu tư nước ngoài từ các dự án tài trợ ODA tại Việt Nam
đã tăng lên đáng kể trong những năm vừa qua. Điều này cho thấy sự vươn lên
đánh kể về số lượng và mức độ chuyên nghiệp của ngành tư vấn Việt Nam
trong nhữn năm vừa qua. Nếu như thị phần so với tư vấn nước ngoài trong các
dự án ODA tại Việt Nam khoảng 10-15% từ giai đoạn 1995 đến 1998 thì đến
nay thị phần của các Công ty tư vấn trong nước đã chiếm trên 25% so với tư
vấn Quốc tế. Hiện nay, đối với các gói thấu tư vấn có giá trị nhỏ, thường là dưới
200.000 USD, các nhà tài trợ đã đồng ý cho phép Công ty tư vấn Việt Nam đảm
nhận thực hiện 100%. Đối với gói thầu có giá trị lớn, các nhà tài trợ thường quy
định một mức tối thiểu sự tham gia của các chuyên gia tư vấn Việt Nam vào gói
thầu (thường là 15-20%).
2. Định hướng phát triển tư vấn Việt Nam đến năm 2020
2.1 Giai đoạn 1 : Giai đoạn khởi đầu (1990 -1995)
Đặc điểm của giai đoạn này là ngành tư vấn bắt đầu làm quen với các
dịch vụ tư vấn độc lập, phát triển tự phát, tư vấn được coi là một nghề “dễ” mà
ai cũng làm được. Về cơ cấu của ngành, gần 100% là các doanh nghiệp Nhà
nước, tổ chức tập thể trực thuộc các Bộ, ngành, địa phương, còn lẫn lộn giữa
chức năng kinh doanh thuần tuý (tư vấn độc lập) và chức năng tham mưu cho
22
các cơ quan quản lý (tư vấn nội bộ). Số lượng chuyên gia tư vấn giai đoạn này
tương đối ít và doanh thu tư vấn của giai đoạn này tương đối thấp.
2.2 Giai đoạn 2 : Giai đoạn định hướng (1996 - 2000)
Mục tiêu của ngành tư vấn của giai đoạn này là làm thay đổi cơ bản
nhận thức của xã hội đối với công tác tư vấn, hình thành các yếu tố cần thiết để
tư vấn trở thành một nghề chuyên môn (phát triển tính chuyên nghiệp của tư
vấn) và chủ yếu chấp nhận làm thầu phụ cho tư vấn nước ngoài trong các dự án
phát triển.
2.3 Giai đoạn 3 : Tầm nhìn ngắn hạn – Giai đoạn lấy đà (2000 -2005)

Mục tiêu của ngành tư vấn giai đoạn này là thực sư trở thành một nghề
chuyên môn tại Việt Nam, nắm vững công nghệ tư vấn tiên tiến thông qua học
hỏi, chuyển giao công nghệ và ngành tư vấn của Việt Nam đảm nhận làm tư
vấn chính trong hầu hết các dự án phát triển không đòi hỏi công nghệ cao có
quy mô nhỏ và vẫn chịu chấp nhận làm thầu phụ cho tư vấn nước ngoài trong
các dự án phát triển có quy mô vừa và lớn.
2.4 Giai đoạn 4 : Tầm nhìn trung hạn – Giai đoạn tăng tốc (2006-2010)
Mục tiêu của ngành tư vấn giai đoạn này là trình độ chuyên môn trong
một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến như các nước trong khu vực. Tư vấn của
Việt Nam đảm nhận là tư vấn chính trong hầu hết dự án quy mô nhỏ và vừa,
chấp nhận là thầu phụ trong một số dự án phát triển quy mô lớn và trình độ ở
giai đoạn này trong một số lĩnh vực, tư vấn phải có đủ khả năng đấu thầu tư vấn
và các dự án phát triển trong khu vực.
23
2.5 Giai đoạn 5 : Tầm nhìn dài hạn _ Giai đoạn cất cánh (2011 -2020)
Mục tiêu của ngành tư vấn giai đoạn này là trình độ chuyên môn của tư
vấn Việt Nam trong hầu hết các lĩnh vực phải đạt đến trình độ tiên tiến của các
nước trong khu vực, đứng đầu khu vực trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có
thế mạnh. Ngoài ra, ngành tư vấn có thể giải quyết hầu hết các bài toán đặt ra,
có thể đảm nhiệm làm tư vấn chính trong hấu hết các dự án, đồng thời tham gia
tích cực vào các dự án phát triển trong khu vực.
24
CHƯƠNG 2
Thực trạng năng lực cung cấp dịch vụ tư vấn cho các Dự án
phát triển tại Công ty ADCC
I. Giới thiệu công ty ADCC :
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty ADCC:
- Tên Doanh nghiệp: Công ty Thiết kế và Tư vấn xây dựng công trình hàng
không Quân chủng Phòng không - Không quân;
- Tên tiếng Anh: Airport Design and Construction Consultancy Company;

- Tên viết tắt: ADCC;
- Địa chỉ giao dịch: 180 đường Trường Chinh, Phường Khương Thượng,
Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội;
- Điện thoại: 048.537988, 048.522.684, 069.562538, 069.562533;
- Fax: 048.534468.
Công ty ADCC là đơn vị được thành lập trên cơ sở Xí nghiệp khảo sát,
thiết kế và xây dựng công trình hàng không của Quân chủng - Không quân.
Ngày 6/11/1990, Thượng tướng Đào Đình Luyện, Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng ký Quyết định số 296/QĐ-QP thành lập Xí nghiệp Khảo sát, Thiết kế và
Xây dựng công trình hàng không thuộc Quân chủng Không quân.
Ra đời trong điều kiện kinh tế của đất nước đang chuyển sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN, Xí nghiệp KS, TK và XD công trình hàng
không đã tận dụng tốt các lợi thế và thế mạnh sẵn có của Quân chủng Không
quân, nhanh chóng triển khai thực hiện các Dự án, tiến hành các hoạt động
SXKD. Với số vốn ban đầu gần như không có, Xí nghiệp đã mạnh dạn vay vốn
và nhanh chóng tạo ra lợi nhuận. Từ những cơ sở vật chất sơ khai thuở ban đầu,
25

×