Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Câu hỏi và trả lời môn khoa hoc lanh dạo quản lý 15 câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.67 KB, 70 trang )

Câu 1:
Phân tích khái niệm lãnh đạo và phân biệt lãnh đạo với quản lý.
Trả lời:
Trong xã hội loài người, hiện tượng lãnh đạo mang tính phổ biến. Các tổ chức
chính trị - xã hội ở mọi thời đại, mọi ngành, mọi cấp nếu muốn hoạt động đi vào
khuôn khổ và có hiệu quả thì đều cần đến cơng tác lãnh đạo. Hoạt động lãnh đạo
được xem là nhu cầu cấp thiết của thời đại đặc biệt là trong quá trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phát triển đất nước mạnh
mẻ, bền vững đúng quy luật khách quan. Như vậy, lãnh đạo là gì mà có vai trị quan
trọng đến như vậy? trước tiên chúng ta cần làm rõ khái niệm lãnh đạo.
Về lãnh đạo thì có nhiều tài liệu khái qt về khái niệm lãnh đạo khác nhau như:
+ Theo từ điển tiếng việt: lãnh đạo là dẫn dắt một tổ chức, phong trào theo
đường lối cụ thể.
+ Theo giáo trình (HV – CTQG HCM) thì lãnh đạo là đề ra và dẫn dắt, thực
hiện chủ trương, đường lối chiến lược và sách lược để phát triển một tổ chức.
+ Theo Hồ Chí Minh thì LĐ là giải quyết mọi vấn đề một cách cho đúng, phải
tổ chức sự thi hành cho đúng và phải tổ chức sự kiểm sốt.
=> Tóm lại, LĐ là quá trình gây ảnh hưởng tới con người và tổ chức là đưa ra
những chủ trương, phương hướng nhằm phát triển và thực hiện mục tiêu tổ chức.
Song song với cơng tác lãnh đạo thì cơng tác quản lý cũng đóng vai trị rất quan
trọng, quyết định trong việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
cũng có nhiều quan niệm khác nhau của các nhà kinh tế học về quản lý được ra đời
như: F.Taylo (Mỹ), M.Pholet(Mỹ),…
+ Theo F.Taylo (Mỹ) quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm,
và sau đó hiểu được rằng họ đã hồn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
+ Theo M.Pholet (Mỹ) quản lý là một nghệ thuật khiến cho cơng việc của bạn
được hồn thành bởi người khác.

1



=> Tóm lại, QL là q trình tác động có tổ chức, có ý thức và bằng quyền lực
của chủ thể QL tới đối tượng, nhằm đạt mục tiêu trong điều kiện biến đổi của mơi
trường.
Như vậy, có thể nhận định chung về lãnh đạo, quản lý là quá trình dẫn dắt của
chủ thể đối với đối tượng nhằm thực hiện mục tiêu. Là quá trình tác động của chủ thể
đối với đối tượng nhằm thực hiện mục tiêu. Là việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa
chủ thể và đối tượng nhằm thực hiện mục tiêu. Về thực chất lãnh đạo, quản lý là q
trình vận động của thơng tin.
Giữa lãnh đạo, quản lý có sự khác nhau về cách biểu hiện, mức độ và tính chất. Nếu như
lãnh đạo bằng quyết sách thì Quản lý bằng quyết định, cụ thể sự khác nhau thể hiện qua bảng biểu
sau đây:

Lãnh đạo

Quản lý

- Đề ra và dẫn dắt đối tượng thực hiện chủ - Bằng quyền lực tác động tới đối
trương, chính sách, đường lối phát triển tổ tượng nhằm đạt mục tiêu tổ chức.
chức.
- QL tầm vĩ mô và trung mô

- QL vi mô

- Vạch ra định hướng lớn có tính chiến lược.

- Xây dựng chương trình, kế hoạch,
dự án.

- Thực hiện mục tiêu chung


- Giải quyết mục tiêu cụ thể

- Dựa vào uy tín, động viên thực hiện nhiệm - Quyền lực bắt buộc thực hiện
vụ

nhiệm vụ.

- Đối tượng trực tiếp là CBLĐ, QL cấp dưới.

- Đối tượng là CBQL cấp dưới,

- Ban hành quyết sách

nhân viên.
- Chấp hành quyết sách

- Nguyên tắc: bao quát việc lớn, định hướng

- Nắm việc cụ thể, tính tốn chi tiết.

- Người LĐ:

- Người QL:

+ Quan điểm dài hạn đưa ra ý tưởng, định + Quan điểm ngắn hạn.

2


hướng.


+ Đưa ra kế hoạch và điều khiển

+ Xây dựng tổ chức, bố trí sắp xếp cán bộ, thực hiện.
nhân viên, động viên, khích lệ cán bộ nhân + Sử dụng cán bộ nhân viên thực
viên.

hiện nhiệm vụ.

+ Tập trung vào tương lai phát triển tổ chức + Kiểm soát công việc CN, NV.
và những vấn đề lớn.

+ Tập trung vào hiện tại phát triển

+ Tạo quyền cho người khác (tướng – tổ chức và những vấn đề cụ thể.
tướng).

+ Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân
lực. (tướng – binh).

Ví dụ: Lãnh đạo tỉnh ủy ban hành quyết sách tăng cường cơng tác phịng chống
thiên tai, lũ lụt trong địa bàn tỉnh. Còn quản lý trên cơ sở quyết sách được ban hành
đưa ra kế hoạch và tổ chức thực hiện quyết sách của lãnh đạo làm sao để đạt được
mục tiêu, kế hoạch đề ra bằng việc làm cụ thể của bộ phận cán bộ liên quan. Còn đối
với người lãnh đạo thì thơng qua người quản lý để biết được hiệu quả thực hiện như
thế nào?
Bên cạnh những sự khác biệt nêu trên thì LĐ và QL cũng có những điểm giống
nhau nhất định đó điều là một q trình hoạt động có mục đích, có sự giống nhau căn
bản, đó là:
- Là hoạt động trí tuệ nhằm tạo ra sản phẩm.

- Thống nhất ý chí và hành động của cá nhân trong tổ chức.
- Cùng phối hợp, điều khiển con người.
- Cùng phải ban hành và thực hiện các quyết định (quyết sách).
Khoa học lãnh đạo, quản lý là khoa học nghiên cứu tìm ra quy luật và tính quy
luật của hoạt động lãnh đạo, quản lý để xác định các ngun tắc, chính sách, cơng cụ,
phương pháp và các hình thức nâng cao chất lượng hiệu quả lãnh đạo, quản lý.
Như vậy, trong hoạt động của cơ quan, tổ chức thì việc lãnh đạo, quản lý là một
phần khơng thể thiếu nếu như khơng nói đây là công đoạn quan trọng nhất, đây là quá

3


trình mà chủ thể lãnh đạo, quản lý tác động đến đối tượng nhằm thực hiện mục tiêu
đã đề ra bằng nhiều hình thức sao cho phù hợp, khéo léo, mang tính nghệ thuật dẫn
dụ, thương thuyết để đạt được mục tiêu và hiệu quả cao nhất có thể .

Câu 2:
Phân tích mối quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.
Trả lời:
Để thực hiện tốt mục tiêu của cơ quan, tổ chức mà người lãnh đạo, quản lý đề
ra thì giữa lãnh đạo, quản lý và đối tượng lãnh đạo quản lý cần thực hiện tốt mối quan
hệ tương tác với nhau, giải quyết tốt mối quan hệ này làm cho mục tiêu đạt được cao
hơn.
Thực chất và những biểu hiện chung của quan hệ gỉữa người lãnh đạo, quản lý
và người bị lãnh đạo, quản lý: là mối quan hệ mang tích tất yếu khách quan, trong lao
động và sinh hoạt cộng đồng của xã hội cần phải có sự tổ chức chỉ huy để điều chỉnh,
cần có một bộ phận người này dẫn đầu, tổ chức chỉ huy một bộ phận người khác, từ
đó xuất hiện người lãnh đạo và người bị lãnh đạo và các mối quan hệ tương ứng.
Trước tiên chúng ta cần hiểu rõ và phân biệt giữa hai khái niệm người lãnh đạo
và người bị lãnh đạo. Người lãnh đạo là chỉ cá nhân hoặc tập thể có quyền lực nhất

định trong hoạt động lãnh đạo, gánh vác trách nhiệm lãnh đạo nhất định, cầm đầu chỉ
huy, tổ chức một quần thể xã hội nhất định để thực hiện mục tiêu lãnh đạo. Người bị
lãnh đạo có thể hiểu là những cá nhân hay tổ chức tiến hành những hoạt động xã hội
dưới sự chỉ huy, quản lý của người lãnh đạo.

4


Ví dụ: Sở cơng an thì giám đốc cơng an tỉnh là người đứng đầu và lãnh đạo
còn lại các phòng, ban,…và các cá nhân liên quan thực hiện nhiệm vụ chung là
người bị lãnh đạo.
Quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo khi đã hình thành, khơng
những mang “thuộc tính tự nhiên”, mà cịn có thuộc tính chính trị xã hội, thuộc tính
chính trị xã hội này biểu hiện rõ nét quan hệ sản xuất xã hội, quyết định tính chất
quan hệ giữa người lãnh đạo với người bị lãnh đạo, đây cũng chính là thực chất của
mối quan hệ trên.
Trong xã hội chưa xuất hiện giai cấp bóc lột, do địa vị và quan hệ phân phối
của mọi người trong chiếm hữu tư liệu sản xuất và quá trình sản xuất là quan hệ bình
đẳng nguyên thuỷ, nên nó quyết định quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh
đạo là quan hệ bình đẳng với nhau. Trong xã hội tư hữu, thông thường là người đại
diện cho họ điều hành, quản lý, giám sát và phân phối sản phẩm của quá trình sản
xuất ở vào địa vị áp bức và thống trị, còn những người lao động bị mất tư liệu sản
xuất ở vào địa vị bị nô dịch, bị áp bức, thực chất quan hệ giữa người lãnh đạo và
người bị lãnh đạo là quan hệ đối lập giai cấp, là quan hệ áp bức, bóc lột và bị áp bức,
bị bóc lột.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mặc dù xã hội phân cơng có người lãnh đạo và
người bị lãnh đạo, nhưng cả hai đều là chủ sở hữu tư liệu sản xuất, địa vị của họ trong
quá trình sản xuất xã hội là bình đẳng, quan hệ của họ là mối quan hệ dân chủ bình
đẳng, hợp tác tương trợ trên cơ sở thống nhất về lợi ích căn bản. Tại Việt Nam, kiểu
quan hệ bình đẳng tương hỗ này được hình thành trong quá trình Đảng Cộng sản Việt

Nam lãnh đạo toàn thể quần chúng nhân dân lao động, đấu tranh vì sự nghiệp đánh
giặc giữ nước, xây dựng xã hội mới, kiểu quan hệ lãnh đạo mang đầy đủ ý nghĩa này
đã thẩm thấu rộng rãi đến các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, vãn hố, xã hội
và nó biểu hiện dưới các hình thức quan hệ cụ thể sau:
Một là, công bộc và chủ nhân.
Đây là sự phân tích từ góc độ tổng thể xã hội. Trong hoạt động lãnh đạo hiện
nay, quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo đầu tiên được biểu hiện là

5


quan hệ giữa người lãnh đạo và quần chúng nhân dân, mà thực chất là quan hệ giữa
công bộc là chủ nhân.
Quần chúng nhân dân là chủ nhân của đất nước, điều đó khơng chỉ biểu hiện ở
việc chiếm hữu và chi phối tất cả tài sản của xã hội, mà còn biểu hiện ở việc quần
chúng nhân dân trong một phạm vi nhất định, tham gia quản lý, giám sát công việc
của Nhà nước và thực hiện quyền lực của mình thơng qua hình thức tổ chức và
phương thức hoạt động phù hợp, thơng qua người mà mình tín nhiệm.
Ví dụ: Quần chúng nhân dân là người chọn ra những người đủ đức, đủ tài để
tham gia lãnh đạo và quản lý đất nước thông qua việc bầu cử.
Người lãnh đạo trong xã hội chúng ta không phải là giai tầng đặc quyền đứng
trên người bị lãnh đạo, là cơng bộc của quần chúng bản thân xã hội. Nói đến cơng
bộc của xã hội là muốn nói người lãnh đạo phải thể hiện tập trung ý chí của quần
chúng, phải là người thực hiện một cách tự giác ý chí và u cầu của tồn thể quần
chúng nhân dân; người lãnh đạo khi thực hiện một quyền lực nhất định thì phải
hướng lợi ích đến quần chúng nhân dân, có nghĩa là phải thể hiện tính nhất qn là
đảm bảo lợi ích đối với tồn Đảng và quần chúng nhân dân như lời Bác Hồ có dạy
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức
tránh”.
Như vậy, tiêu chí để đánh giá một người lãnh đạo có phải là “cơng bộc của xã

hội” hay khơng là người đó có thực hiện được chính xác quyền lực trong tay mình
một cách hiệu lực, hiệu quả, trách nhiệm, đúng pháp luật.
Hai là, chủ thể và khách thể.
Trong hoạt động lãnh đạo, các yếu tố ngưòi lãnh đạo, người bị lãnh đạo và môi
trường lãnh đạo cấu thành một hệ thống quan hệ. Trong hệ thống quan hệ này, quan
hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo là quan hệ thứ nhất, người lãnh đạo là
chủ thể, người bị lãnh đạo là khách thể. Sở dĩ gọi là người lãnh đạo là chủ thể của
hoạt động lãnh đạo cụ thể là bởi vì người lãnh đạo trong quá trình thực hiện chức
năng là người phát động, người thực thi và người chịu trách nhiệm, là người khống
chế tự giác đối với tồn bộ hoạt động lãnh đạo. Nói người bị lãnh đạo là khách thể

6


khơng có nghĩa là người bị lãnh đạo là cơng cụ bị động, tiêu cực, mà người khác tự
do thao túng, càng khơng thể vì vậy mà đưa ra kết luận phủ nhận quần chúng nhân
dân là chủ thể của xã hội, bởi vì xét từ tổng thể, quần chúng nhân dân chính là chủ
thể của xã hội.
Trên cơ sở của mối quan hệ thứ nhất do người lãnh đạo và người bị lãnh đạo tạo
thành là sinh ra một loại quan hệ thứ hai, đó là mối quan hệ do hệ thống chủ thể được
tạo thành bởi người lãnh đạo và người bị lãnh đạo trong hoạt động thực tiễn cùng với
môi trường lãnh đạo sinh ra. Trong mối quan hệ này, người lãnh đạo cũng có tác
dụng năng động của chủ thể. Nhưng mối quan hệ thứ hai được sinh ra trên cơ sở của
mối quan hệ thứ nhất, cho nên mối quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quy định bản chất đối
với quan hệ thứ hai. Nói đến mối quan hệ thứ nhất được tạo thành bởi người lãnh đạo
và người bị lãnh đạo, quy định về chủ thể và khách thể này có tính ổn định tương đối
cả hai có tính ổn định tương đối, cả hai đều có giới hạn hành vi và địa vị xã hội xác
định, đảm nhiệm một vai trò xã hội khác nhau, đồng thời có chức năng, quyền lợi và
nghĩa vụ khác nhau.
Ba là, chủ đạo và phục tùng.

Trong hoạt động lãnh đạo, nhiệm vụ công việc và mục tiêu công việc là điều kiện
cơ bản cấu thành mối quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo. Trong q
trình hồn thành nhiệm vụ lãnh đạo, thực hiện mục tiêu lãnh đạo, người lãnh đạo phải
hướng dẫn, chỉ đạo, chỉ huy công việc của người bị lãnh đạo, bất luận và vạch ra và
thực hiện quyết sách hay tuyển chọn và sử dụng nhân tài những chức năng này chủ
yếu là do người lãnh đạo đảm nhiệm.
Người lãnh đạo trong hoạt động lãnh đạo có vị trí chỉ huy và chi phối, có vai trị
chủ đạo, tiêu chí thơng thường của vai trị chủ đạo này là quyền lực nhất định được
vận dụng để thống nhất ý chí và quán triệt thực hiện để đảm bảo thống nhất ý chí.
Người bị lãnh đạo trong hoạt động lãnh đạo lại ở vị trí bị chỉ huy và phục tùng.
Người bị lãnh đạo dưới sự tổ chức và chỉ huy của người lãnh đạo tiến hành các hoạt
động xã hội. Người bị lãnh đạo phải phục tùng người lãnh đạo, đó là ngun tắc
thơng thường của mọi tổ chức từ xưa đến nay. Nhưng trong mỗi xã hội khác nhau sự

7


phục tùng của người bị lãnh đạo lại có bản chất khác nhau. Trong xã hội có đối
kháng, sự phục tùng này là sự cưỡng chế, ép buộc được hình thành trên cơ sở áp bức
và bóc lột giai cấp. Đối với người lãnh đạo, người bị lãnh đạo trong nhà nước cũng có
đặc trưng phục tùng. Nhưng sự phục tùng này do sự phân công xã hội tạo thành, là sự
phục tùng tự giác trên cơ sở thống nhất về lợi ích căn bản. Đồng thời, với việc phục
tùng người lãnh đạo, người bị lãnh đạo có thể căn cứ nguyên tắc của hiến pháp để
thực hiện quyền tuyển chọn, giám sát và bãi miễn đối với người lãnh đạo.
Tính biện chứng trong quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.
Trong hoạt động lãnh đạo, về các mặt địa vị và vai trị thì người lãnh đạo và
người bị lãnh đạo tồn tại những sự khác biệt rõ rệt, quan hệ giữa họ trong một phạm
vi và điều kiện nhất định có một giới hạn xác định. Nhưng hai yếu tố bản chất trong
quan hệ lãnh đạo lại khơng độc lập tách rời mà lại có sự liên hệ biện chứng với nhau,
mối liên hệ biện chứng này biểu hiện rõ nét ở một số đặc điểm sau:

Dựa vào nhau và tác động qua lại lẫn nhau.
Là hai yếu tố cơ bản trong hoạt động lãnh đạo, cái này lấy cái kia làm điều kiện
tồn tại của mình, khơng thể tách rời một trong hai được. Chỉ có trong hoạt động lãnh
đạo mọi người mới có thể từ sự khác biệt về địa vị, chức năng và vai trò mà phân biệt
ra người lãnh đạo và người bị lãnh đạo. Đồng thời, trong hoạt động lãnh đạo người
lãnh đạo và người bị lãnh đạo lại có sự tác động thúc đẩy lẫn nhau. Thông qua các
yếu tố quyền lực, chức trách, uy tín của người lãnh đạo mà vạch ra kế hoạch, tổ chức,
điều chỉnh một cách chính xác để tác động vào đối tượng (người bị lãnh đạo), thúc
đẩy ý chí thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động… đạt mục tiêu lãnh đạo. Người
bị lãnh đạo bằng những phương pháp tín nhiệm, phục tùng và việc làm của mình có
được sự gợi mở nhất định, thúc đẩy, nâng cao tình khoa học và dân chủ của quyết
sách, nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh đạo.
Thuộc tính chuyển đổi lẫn nhau.
Trong hoạt động lãnh đạo, do cùng một cá nhân hay tập thể luôn tồn tại hai thuộc
tính chủ thể hoặc khách thể, tùy theo sự thay đổi của điều kiện mà quan hệ giữa
người lđ và người bị lđ cũng biểu hiện những đặc điểm của thuộc tính chuyển đổi lẫn

8


nhau. Trong một trường hợp, trong một tổ chức nhất định là người lđ, nhưng trong
trường hợp khác, một tổ chức khác lại là người bị lãnh đạo. Cũng có thể nói, vị trí và
vai trị của người lđ và người bị lđ trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau có
thể có sự thay đổi. Thuộc tính chuyển đổi này phân làm ba trường hợp cơ bản sau:
Thứ nhất, thay đổi vai đóng của bản thân người LĐ. Vd: trong cơ quan, công
ty, giám đốc trở thành người lãnh đạo đối với công việc, nhân viên của công ty, anh
ta có quyền đưa ra quyết sách nhất định. Nhưng giám đốc là một đảng viên bình
thường ơng ta trở thành người bị lãnh đạo và chịu sự LĐ.
Thứ hai, Người bị lãnh đạo chuyển thành người lãnh đạo. Trong điều kiện xã
hội ngày phát triển thì thơng qua q trình cơng tác, bồi dưỡng, năng lực mà người bị

lãnh đạo được bố trí vào vị trí phù hợp với năng lực của mình, điều đó mở ra nhiều
khả năng, cơ hội cho người bị lãnh đạo chuyển vị trí thành người lãnh đạo. Ở đây,
căn cứ vào thực tế, các cơ quan lãnh đạo cần phải kịp thời phát hiện và bồi dưỡng
những nhân tài có năng lực quản lý xã hội nhất định, đồng thời căn cứ theo nguyên
tắc tuyển chọn để mạnh dạng đề bạt, sử dụng cán bộ.
Ví dụ: trong q trình cơng tác một cán bộ bị lãnh có năng lực đạo làm việc
và có trình độ phù hợp sẽ được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
Thứ ba, sự chuyển đổi vị trí cấp trên, cấp dưới. Theo hình tháp từ trên xuống
dưới hoặc từ dưới lên trên, mỗi cấp đều có quan hệ lãnh đạo với cấp trên, ngoài cấp
cơ sở thấp nhất. Mỗi một cấp đều đưa ra chỉ lệnh quyết sách đối với cấp thấp hơn và
yêu cầu cấp thấp hơn thực thi, đồng thời tiếp nhận thông tin về chỉ lệnh của cấp cao
hơn một bật và đương nhiên trở thành người bị lãnh đạo. Vì vậy, muốn lãnh đạo tốt
cấp dưới người lãnh đạo trước tiên phải phục tùng hiệu quả lãnh đạo cao hơn một
cấp, tiếp thu những chỉ lệnh phát ra từ cấp cao hơn một bậc..
Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa người lđ và người bị lđ.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường xhcn hiện nay cùng với sự
điều chỉnh liên tục quan hệ lợi ích giữa người lđ và người bị lđ không thể tránh khỏi
những nảy xinh mâu thuẫn, có mâu thuẫn thậm chí bao gồm những yếu tố mang tính
độc lập. Vì thế, xử lý tốt quan hệ giữa người lđ và người bị lđ càng có ý nghĩa thiết

9


thực, thời sự và quan trọng.
Thứ nhất, tăng cường ý thức cơng bộc, bồi dưỡng tác phong dân chủ.
Vai trị công bộc cùng với những ý thức công bộc phù hợp với nó, phải là
những quy định nội tại trong tố chất người lãnh đạo, là yêu cầu tối thiểu đối với người
lãnh đạo. Tuy nhiên có một số ít cán bộ lđ khơng thể hiện được vai trị là công bộc
của nhân dân, phát sinh sự “đảo lộn” về vai trị, mất dần ý thức cơng bộc, đã gây ra
ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội không thể dự đốn hết được. Chính vì thế, tăng

cường ý thức công bộc của dân, bồi dưỡng tác phong dân chủ cho người lđ là việc
làm cần thiết.
Một là, phải tin tưởng dựa vào quần chúng, tôn trọng những yêu cầu về ý chí,
nguyện vọng, tơn trọng vai trị làm chủ của nhân dân, quần chúng nhân dân chính là
người sáng tạo ra lịch sử, bao gồm sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần vơ cùng
lớn, do đó người lđ phải tin tưởng, tôn trọng, dựa vào quần chúng.
Hai là, phải thâm nhập cơ sở, đi sâu vào quần chúng, bồi dưỡng tác phong dân
chủ đây là nguyên tắc căn bản trong xử lý quan hệ giữa người lđ và người bị lđ.
Thứ hai, nâng cao ý thức phục vụ, thực hiện quyền lực đúng đắn.
Tồn tâm tồn ý vì nhân dân phục vụ và tôn chỉ căn bản của người lđ cách
mạng chân chính, là điểm xuất phát từ điểm quy tụ công tác lãnh đạo xã hội mới.
“lãnh đạo là phục vụ”, đây là sự khái quát cao độ về quan điểm phục vụ của người lđ
trong tình hình mới, là yêu cầu về phẩm chất, năng lực, đạo đức đối với người lđ. Đó
cũng là nguyên tác cơ bản về nền tảng tư tưởng cho việc xử lý quan hệ của người lđ
đối với người bị lđ. Một tiêu chí quan trọng của sự cao thấp về ý thức phục vụ đó là
người lđ. Một tiêu chí quan trọng quan trọng cuả sự cao thấp về ý thức phục vụ đó là
người lđ sử dụng như thế nào quyền lực trong tay mình.
Quyền lực là sức mạnh trung gian được thể hiện trong quan hệ của người lđ và
người bị lđ. Trong xã hội, thông thường quá trình người lđ vận dụng quyền lực và quá
trình được xây dựng trên cơ sở người bị lđ tự giác phục tùng, nhưng nếu như người lđ
khơng có quan điểm quyền lực chính xác tất nhiên có ảnh hưởng tới quan hệ của cả

10


hai bên, đặc biệt là trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xhcn.
Ở đây cần phải thấy được rằng, đề cao ý thức công bộc và quan niệm của người
phục vụ lđ, chỉ mới nêu ra và giải quyết vấn đề từ góc độ bản thân người lđ, và
phương tiện nguyên tắc tu tưởng. Chỉ có như vậy cũng chưa đủ, cịn địi hỏi tăng
cường xây dựng chế độ, xây dựng và kiện toàn hệ thống luật pháp. Trong đời sống

hiện thực vẫn còn hiện tượng nhầm lẫn vị trí “chủ” và “tớ” của một số ít cán bộ lãnh
đạo, ngun nhân của tình trạng đó là chế độ pháp quy về vấn đề cán bộ vẫn chưa
được hoàn thiện, thiếu cơ chế khống chế quyền lực của người lđ, khuyến khích họ
làm việc có hiệu quả.
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xhcn, phải ngăn chặn hiện tượng
hủ bại của người lđ như tù “công bộc xã hội” biến chất thành “ông chủ làm dụng
quyền của xã hội”, cũng như từ đó mà nảy sinh ra hiện tượng dựa vào chức quyền để
mưu cầu lợi ích cho riêng mình, phải xây dựng và kiện toàn chế độ quản lý cán bộ và
cơ chế khống chế quyền lực lãnh đạo chặt chẽ, từ biện pháp kiểm tra cán bộ đến đề
bạt, thưởng phạt, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý, đều phải có văn bản cụ thể, rõ
ràng. Đồng thời phải thơng qua xây dựng hoàn chỉnh hệ thống giám sát lãnh đạo, đảm
bảo việc vận hành có hiệu quả cơ chế khống chế quyền lực lãnh đạo.
Người bị lãnh đạo làm thế nào để xử lý tốt quan hệ với người lđ?
Người bị lđ là một phương diện khác của mâu thuẫn, tồn tại vấn đề là làm thế
nào để ủng hộ, phối hợp với người lđ đạt được mục tiêu tổ chức.
Thứ nhất, thực hiện tốt quyền dân chủ.
Quần chúng nhân dân làm chủ, hoàn toàn được hưởng các quyền dân chủ, cũng
như các quyền quản lý đất nước, đây chính là bản chất và hạt nhân của hệ thống chính
trị chúng ta. Trong hoạt động lđ, có thể thực hiện đúng đắn các quyền dân chủ hay
khơng chính là phương diện quan trọng để người lãnh đạo xử lý tốt quan hệ đối với
người lđ hay không. Do công cuộc cnh, hđh và xây dựng cnxh ở Việt Nam vẫn còn
đang ở giai đoạn đầu, nghĩa là vấn đề đang còn trong giai đoạn đang vừa thực hiện
vừa rút kinh nghiệm, bổ sung, sửa chữa, khơng ngừng hồn thiện, thêm vào đó là
những ảnh hưởng của một số tư tưởng lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến trước

11


đây, chủ nghĩa cá nhân cực đoan và mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm cho
một số người (cả vị trí lđ và bị lđ) khơng thể hiện và nhìn nhận đúng về quyền dân

chủ của mình.
Thứ hai, xây dựng ý thức tự giác tham dự và ý thức tự giác giám sát.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xhcn, sự tham dự
giám sát của người bị lđ là con đường cơ bản để bảo đảm và thực hiện vai trò làm chủ
của họ, cũng là điều kiện tất yếu cho việc tiến hành thuận lợi hđlđ. Chính vì thế, xây
dựng ý thức tự giác tham dự giám sát là yêu cầu cơ bản đối với người bọ lđ. Người bị
lđ phải dựa vào trách nhiệm cao cả của người làm chủ, dựa vào sự tận tụy trong cơng
việc, nhiệt tình trong lao động, tồn tâm tồn ý góp sức mình vào sự nghiệp đẩy mạnh
cnh, hđh. Phải tin tưởng, tôn trọng và thông cảm cho lao động của người lđ, đối với
những thiếu sót thậm chí sai, làm xuất hiện trong công tác người lđ; phải dựa trên tư
cách người làm chủ tăng cường giám sát, kịp thời phản ứng. Đương nhiên, việc xây
dựng ý thức tự giác tham dự và giám sát cho người bị lđ phải dựa vào việc kiện toàn
và hoàn thiện chế độ tham dự và giám sát, dựa vào sự phát triển, kiện toàn, đổi mới
của hệ thống chính trị.
Tóm lại, chúng ta thấy quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo mang
thuộc tính tự nhiên tương tác và hỗ trợ lẫn nhau khơng thể tách rời nhau, cũng như
mang thuộc tính chính trị xã hội sâu đậm đây thực chất là mối quan hệ thể hiện tính
biện chứng sâu sắc, mối quan hệ đòi hỏi cả người lãnh đạo và người bị lãnh đạo phải
làm tốt nhất phần việc của mình để đạt được mục tiêu thúc đẩy mối quan hệ sản xuất
nhằm thực hiện nhiệm vụ xuyên suốt và cơ bản là phục vụ con người và đem lại hiệu
quả cao nhất có thể trong hoạt động của mình.

12


Câu 5:
* Phân tích một số chức năng cơ bản của lãnh đạo. Liên hệ thực hiện những
chức năng đó trong lãnh đạo ở địa phương, đất nước hiện nay.
Trả lời:
Hoạt động lãnh đạo là một khoa học nghệ thuật, đó là một lĩnh vực địi hỏi người

lãnh đạo phải thể hiện được vai trị và chức năng của mình. Chức năng là tên gọi của
chức vụ và công năng, tức là vai trị xã hội và cơng năng xã hội của một người giữ
chức vụ nào đó ở một chực vị nào đó. Chức năng xã hội là vai trị xã hội và cơng
năng xã hội mà người lãnh đạo cần có. Vậy chức năng cơ bản của người lãnh đạo
được hiểu như thế nào?
Trong xã hội hiện đại chức năng cơ bản của người lãnh đạo là định quyết sách và
thúc đẩy người khác quán triệt, thực hiện quyết sách. Có nghĩa là định ra chủ trương,
kế hoạch, đưa ra quyết nghị mà nghị quyết, kế hoạch phải thực hiện, đồng thời phải là
hạt nhân đoàn kết nội bộ, khuyến khích, thúc đẩy họ tiến hành dẫn dắt đến mục tiêu
đã định. Một mặt là định ra quyết sách, mặt khác phải thúc đẩy người khác thực hiện
quyết sách. Đó chính là chức năng cơ bản của lãnh đạo.
Chức năng lãnh đạo không phải là cố định, bất biến, nó thay đổi cùng với sự bất
biến của lịch sử, thay đổi cùng với sự thay đổi của phân công xã hội, phương thức sản
xuất, chế độ xã hội, đặt biệt là thể chế lãnh đạo.
Trong chế độ gia trưởng thời kỳ sản xuất nhỏ, thực thi thể chế lãnh đạo tập quyền
cao, thì mọi quyền lực như quyền quyết sách, thực hiện, phê bình, giám sát đều tập
trung vào một người, người chiếm hữu tư liệu sản xuất là người đưa ra quyết sách sản
xuất, người thi hành và người giám sát. Khi đó chức năng chỉ huy là chức năng “kiểu
tồn năng” thâu tóm tất cả mà khơng có sự phân cơng giữa quyết sách và thực thi

13


quyết sách. Do đó, khi ấy cũng khơng có vấn đề phân định giữa chức năng lãnh đạo
và chức năng quản lý, quyết sách và thực thi là thể nhất, lãnh đạo và quản lý cũng
nhất thể.
Chức năng là sự thống nhất chức quyền và chức trách.
Chức năng lãnh đạo cũng giống các chức năng khác, đều do phân công lao động
xã hội quyết định. Dù là chức năng cá nhân hay chức năng tập thể đều phải phụ thuộc
vào phân cơng lao động xã hội. Phân cơng có nghĩa là phân quyền, phân trách nhiệm,

do vậy chức năng lãnh đạo là sự thống nhất giữa chức quyền và chức trách. Chức
quyền là chức vụ quyền lực được giao phó, đó là quyền ra chỉ thị, mệnh lệnh, đó là
phương tiện để thực hiện chức năng chứ không phải là mục đích. Chức trách, tức
chức vụ trách nhiệm chính là gánh vác trách nhiệm thực hiện chức năng bao gồm
trách nhiệm xã hội như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp
luật và trách nhiệm hành chính.
Chức năng lãnh đạo là sự thống nhất giữa quyền lực và trách nhiệm, bất cứ người
lãnh đạo nào thực hiện chức năng cũng cần có quyền và trách nhiệm; chức vụ càng
cao, quyền lực càng lớn thì trách nhiệm càng nặng nề. Phương châm, chính sách lớn
của một tổ chức chỉ có người lãnh đạo mới có quyền đưa ra quyết định cuối cùng,
song nó đúng đắn hay sai lầm, thành cơng hay thất bại thì người lãnh đạo cũng phải
có trách nhiệm lớn nhất.
Chức năng lãnh đạo là quyền lực và trách nhiệm thống nhất. người lãnh đạo, đặc
biệt là người lãnh đạo trong xã hội chúng ta không có sự phân biêt sang hèn, chỉ có
sự khác nhau về phân công xã hội. Đồng thời với việc chỉ huy, ra mệnh lệnh đối với
cấp dưới thì người lãnh đạo cịn có trách nhiệm phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội.
Bản thân việc nắm giữ quyền lực và trách nhiệm của người lãnh đạo chính là phục vụ
xã hội, phục vụ nhân dân đó là tơn chỉ cơ bản của chúng ta. Người lãnh đạo trong
việc định ra quyết sách và thúc đẩy người khác thực thi quyết sách, tức là tồn bộ q
trình thực hiện chức năng của mình đều nhằm quán triệt sự thống nhất quyền lực và
trách nhiệm hay thống nhất sự phục vụ của quyền lực và trách nhiệm.
* Liên hệ thực hiện chức năng ở địa phương:

14


Câu 7:
Phân tích một số phương pháp cơ bản của lãnh đạo. Liên hệ thực hiện
những phương pháp đó trong lãnh đạo ở địa phương, cơ sở hiện nay.
Trả lời:

Bên cạnh việc xác định mục tiêu lãnh đạo đúng đắn thì việc xác định phương
pháp lãnh đạo cũng là một vấn đề quan trọng của người lãnh đạo, muốn công tác lãnh
đạo đạt được hiệu quả như mục tiêu đã đề ra thì cần phải có phương pháp lãnh đạo
hợp lý. Trước khi làm đi vào phân tích làm rõ các phương pháp lãnh đạo chúng ta cần
làm rõ khái niệm phương pháp lãnh đạo là gì?
Phương pháp lãnh đạo: chính là trình tự hoặc biện pháp thực hiện mục tiêu của
tổ chức.
Phương pháp lãnh đạo cơ bản được phân thành hai loại, đó là: Phương pháp
chung trong lãnh đạo và phương pháp đặc thù của lãnh đạo: “Nắm bắt việc lớn, bỏ
qua việc nhỏ”.
Trước tiên chúng ta tìm hiểu phương pháp chung trong lãnh đạo.
Phương pháp chung trong lãnh đạo là phương pháp triết học dựa trên chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những tri thức tiêu biểu kết tinh
trong kho tàng tri thức nhân loại. Những phương pháp này chủ yếu gồm có:
Một là, thực sự cầu thị.
Giữ vững sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, giữa lý luận và thực tiễn
là một ngyên tắc cơ bản của chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng là một
yêu cầu cơ bản để làm tốt công tác lãnh đạo. kiên trì sự thống nhất giữa lí luận và
thực tiễn, trước hết, phải thừa nhận và kiên trì lý luận, đường lối, phương châm,
chính sách, tình hình thực tế để hoạch định. Tiếp theo, phải nhìn nhận lý luận, đường

15


lối, phương châm, chính sách theo quan điểm phát triển, nó phải phát triển và thay
đổi theo sự phát triển và thay đổi của thực tế khách quan, của các giai đoạn lịch sử xã
hội. Vì vậy, thực sự cầu thị vừa phải kết hợp với giải phóng tư tưởng, chống chủ quan
chủ nghĩa, vừa phải phản ứng tư tưởng cứng nhắc, trì trệ, bảo thủ, vừa phải chống
những tư tưởng tự do, vơ chính phủ, kinh viện, kinh nghiệm chủ nghĩa.
Hai là, phân tích cụ thể.

Phương pháp phân tích cụ thể vấn đề là phương pháp phân tích mâu thuẫn,
cũng là phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Phương pháp biện chứng duy vật cho chúng ta biết, khơng có mâu thuẫn thì
khơng có thế giới, mà tình trạng giữa mâu thuẫn với mâu thuẫn lại hết sức phức tạp,
cho nên việc phân tích cụ thể vấn đề cụ thể có vai trị cốt tủy trong hoạt động lãnh
đạo.
Phải vừa nhìn nhận đặc tính chung và tính phổ biến của mâu thuẫn, vừa phải
nhìn thấy tính cá biệt và tính đặc thù của mâu thuẫn.
Người lãnh đạo phải biết xử lý mối quan hệ biện chứng giữa tính chung và tính
riêng, biết kết hợp hữu cơ hai thuộc tính đó; kết hợp nguyên lý chung và tình hình
thực tế của đơn vị; kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, lại có tri thức rộng lớn từ cổ tới kim, từ Đông sang Tây, biết đúc kết, gạn
lọc kinh nghiệm truyền thống, áp dụng với thực tế cách mạng trong mỗi thời kỳ. Tóm
lại, phải ln nhớ thực hiện được sự phân tích cụ thể tình hình cụ thể.
Ba là, đường lối quần chúng:
Đường lối quần chúng là sự vận dụng cụ thể nhận thức luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và quan điểm duy vật lịch sử, là phương pháp cơ bản của mọi công
tác, cũng là phương pháp cơ bản của công tác lãnh đạo. Phương pháp lãnh đạo theo
đường lối quần chúng chính là phương pháp thực hiện sự kết hợp giữa lãnh đạo và
quần chúng, đến từ quần chúng và đi vào quần chúng.
Quan điểm duy vật lịch sử cho rằng, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra
lịch sử. Quần chúng nhân dân không chỉ là người sáng tạo ra tài sản vật chất và tinh
thần cho xã hội, mà còn là lực lượng quyết định sự thay đổi của xã hội. Quần chúng

16


nhân dân là chủ thể của thực tiễn xã hội, cũng là chủ thể nhận thức, họ có kinh
nghiệm thực tiễn phong phú và sức sáng tạo lớn.

Trong mọi thời đại, người lãnh đạo cần biết học tập quần chúng, biết phát huy
dân chủ, biết tập trung trí tuệ, kinh nghiệm và ý kiến đúng đắn của quần chúng, qua
chỉnh lý, phân tích tổng hợp một cách khoa học hình thành tư tưởng, đường lối, lý
luận, phương châm, chính sách, biện pháp, kế hoạch. Sau đó lại động viên quần
chúng quán triệt, duy trì và thực hiện.
Qua thực tiễn, quần chúng khơng những có được kinh nghiệm mà quần chúng
lại có thể tạo ra nhiều kinh nghiệm mới. Người lãnh đạo lại tiến hành những tổng kết
mới, để từ đó không ngừng phát triển phong phú tư tưởng, lý luận, phương châm, kế
hoạch của mình. Người lãnh đạo phải biết lãnh đạo quần chúng nhân dân hoàn thành
mọi việc được giao thật hiệu quả, đảm bảo được quyết sách và chấp hành quyết sách
phù hợp với lợi ích của nhân dân. Cần tích lũy kinh nghiệm đúng sai, phải đảm bảo
quyết sách đúng đắn, chấp hành có hiệu quả nhất định; phải kiên trì ngun tắc xuất
phát vấn đề, cơng việc từ quần chúng và đi vào quần chúng; thiết lập, kiện tồn quyết
sách và trình tự chấp hành một cách khoa học, dân chủ.
Thực hiện phương pháp lãnh đạo “xuất phát từ quần chúng và đi vào quần
chúng’, phải biết thực hiện sự kết hợp giữa lãnh đạo và quần chúng, biết kết hợp thật
tốt tính tích cực chủ động, tầm nhìn của lãnh đạo với tính tích cực của quần chúng.
Trong khi thực hiện kết hợp giữa lãnh đạo với quần chúng còn phải sử dụng
phương pháp kết hợp riêng và chung. Đảng và nhà nước ta yêu cầu cán bộ lãnh đạo
khi thực hiện nguyên tắc “xuất phát từ quần chúng và đi vào quần chúng” phải sử
dụng phương pháp kết hợp giữa đường lối chung và chỉ đạo riêng. Sự hồn thành bất
cứ cơng việc nào, nếu khơng có đường lối chung, chính sách tổng thể, lộ trình cho cả
hệ thống thì khơng có hành động chung của quảng đại quần chúng, nhưng nếu chỉ
dừng lại ở đường lối chỉ đạo chung mà khơng có chỉ thị riêng cụ thể thì đường lối
chung ấy có nguy cơ vơ ích. Điều đó u cầu người lãnh đạo dùng phương pháp từ
“điểm tới diện”. Kết hợp với thâm nhập vào thực tế nắm vững đơn vị cụ thể, làm tốt
thí điểm,rút ra kinh nghiệm tiến tới cái chung, chỉ đạo tồn diện, lại khơng nhừng kết
hợp với việc thực thi công việc ở đơn vị cụ thể với chỉ đạo chung, hiệu triệu chung.

17



Từ đó có thể thấy, quần chúng- lanh đạo- quần chúng là thống nhất nhất trí, chúng ta
nên kết hợp chặt chẽ để vận dụng.
Thực hiện phương pháp lãnh đạo kiên trì và bám sát đường lối quần chúng cần
phải chống chủ nghĩa quan liêu, xa rời quần chúng, xa rời thực tế.
Phương pháp chung về lãnh đạo, ngoài phương pháp triết học cịn có các
phương pháp khoa học mới xuất hiện vào giữa thế kỷ XX, được coi là thuyết hệ
thống cấu trúc, thuyết thông tin, thuyết điều khiển, quy thành 3 học thuyết mới và 3
phương pháp của chúng: phương pháp hệ thống cấu trúc, phương pháp thông tin và
phương pháp điều khiển.
Bên cạnh phương pháp chung trong lãnh đạo thì phương pháp lãnh đạo cơ bản
cịn có phương pháp đặc thù của lãnh đạo: “Nắm bắt việc lớn, bỏ qua việc nhỏ”.
Chức trách của người lãnh đạo là hoạch định quyết sách và thúc đẩy thực hiện
quyết sách. PP đặc thù về lãnh đạo cũng chính là pp cụ thể để hoàn thành chức trách
và thực hiện mục tiêu tổ chức. Trong giai đoạn hoạch định quyết sách là phương pháp
thông tin, phương pháp tư vấn và phương pháp quyết định; sau khi hoạch định chính
sách là phương pháp động viên, tổ chức quần chúng thực thi quyết sách. Tồn bộ q
trình của hoạt động lãnh đạo chính là phương pháp “nắm bắt việc lớn, bỏ qua việc
nhỏ”. Đó là phương pháp cơ bản, xuyên suốt của hoạt động lãnh đạo.
Phương pháp đặc thù không thể tách rởi phương pháp chung trong hoạt động
lãnh đạo. Nó tồn tại không tách rời phương pháp chung mà là sự thể hiện cụ thể, vận
dụng thực tiễn của phương pháp chung. “Nắm bắt việc lớn, bỏ qua việc nhỏ” chính là
căn cứ vào đặc điểm, quy luật của hoạt động lãnh đạo, vận dụng cụ thể, thực sự cầu
thị, phân tích mâu thuẫn, phương pháp đường lối quần chúng như thế nào, vận dụng
cụ thể phương pháp thông tin, phương pháp điều khiển như thế nào.
Phương pháp lãnh đạo cơ bản, xun suốt tồn bộ q trình của hoạt động lãnh
đạo là “nắm bắt việc lớn, bỏ qua việc nhỏ”. Đó là sự vận dụng và thể hiện phương
pháp chung của khoa học hiện đại và phương pháp triết học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng HCM; là phương pháp chỉ có riêng ở lĩnh vực lãnh đạo mà khơng có
ở các lĩnh vực khác; là phương pháp lãnh đạo khoa học duy nhất của người lãnh đạo

thời hiện đại khác về cơ bản với phương pháp lãnh đạo truyền thống “mọi việc lớn

18


nhỏ do một người giải quyết”. Sau đây là phân tích cụ thể nội dung, cách làm thực tế,
thực chất và tác dụng xã hội của phương pháp này.
Thứ nhất, nội dung “nắm bắt việc lớn, bỏ qua việc nhỏ”.
“Việc lớn” trong hoạt động lãnh đạo tức là phải xác định được mâu thuẫn chủ
yếu là gì, cịn “việc nhỏ” nghĩa là phải biết mâu thuẫn thứ yếu là gì? Làm sao để nhìn
nhận, xử lý chính xác những mâu thuẫn đó chính là vận dụng cụ thể pp triết học. Nói
cụ thể “nắm bắt việc lớn, bỏ qua việc nhỏ” chính là nắm 2 việc: hoạch định quyết
sách và tổ chức thực thi quyết sách. Còn “bỏ qua việc nhỏ” chính là việc của cấp
dưới hoặc của cơ quan chấp hành, cần phải để cho cấp dưới tiến hành công việc một
cách độc lập, tự chủ, không nên việc gì cũng can dự thẩm tra. Chức trách người lãnh
đạo là tìm biện pháp cổ vũ, động viên, khơi dậy tiềm năng, sở trường của cả đơn vị,
tổ chức cho cấp dưới thực hiện chính sách với hiệu quả cao. Cái gọi là “bỏ qua” chỉ là
đối với công việc của cấp dưới hoặc của cơ quan chấp hành không nên bao biện, làm
thay.
PP này còn gọi là pp hộp đen “quản hai đầu, không quản giữa”.
Theo lý luận hộp đen, phải coi các bộ phận dưới quyền là không thể tùy ý vạch
ra hoặc tùy tiện can dự, nếu khơng sẽ mất đi bộ mặt vốn có của hộp đen. Người lãnh
đạo phải bằng việc cho đơn vị chấp hành tiếp nhận thông tin (phát động chỉ lệnh của
quyết sách và tổ chức động viên quán triệt thực thi), sau đó quan sát tìm hiểu thơng
tin truyền ra (kết quả chấp hành chỉ lệnh), cuối cùng là so sánh, phân tích, đánh giá
khách quan thơng tin dduwa vào và thông tin truyền ra. Kịp thời phát hiện sai lệch,
như sai lệch về mục tiêu, tìm ra nguyên nhân do chấp hành không tốt hay quyết sách
sai để tiến hành điều chỉnh.
Chỉ lệnh quyết sách
Truyền vào


Kết quả chấp hành
→ Hệ thống chấp hành



truyền ra

Phát động chỉ lệnh
Quản đầu vào và không quản đầu ra. Không quản giữa là không bao cấp, làm
thay việc nội bộ của cấp dưới, để cấp dưới độc lập, tự chủ làm việc. Hoặc là, người
lãnh đạo có thể thúc đẩy, phát động, khích lệ bộ phận cấp dưới từ bên ngồi chứ
khơng được tùy tiện can dự vào việc nội bộ của cấp dưới. “Nắm bắt việc lớn, bỏ qua

19


việc nhỏ” và “quản hai đầu, không quản giữa” về nội dung và thực chất là hoàn toàn
thống nhất, đều là hình thức biểu đạt khoa học của pp lãnh đạo hiện đại. Việc lớn
chính là hai đầu, việc nhỏ chính là “giữa”, chỗ khác nhau chỉ là trên hình thức, cái
trước là cụ thể hóa của pp phân tích mâu thuẫn, cái sau lại là cụ thể hóa của pp thông
tin, pp điều khiển và pp hệ thống.
Thứ hai, thao tác thực tế của phương pháp hộp đen.
Thao tác thực tế của pp hộp đen chính là xử lý đúng đắn giữa phân công và
phân chia quyền hạn và trách nhiệm tương ứng với cùng mối quan hệ giữa trách
nhiệm và quyền hạn. Như trên đã nói, người lãnh đạo và người bị lãnh đạo trước tiên
là phân công xã hội khác nhau, từ đó quyền lực và trách nhiệm là thống nhất và hoàn
toàn toàn tương đồng.
Nắm bắt việc lớn, quản hai đầu nói ở trên chính là độc chiếm quyền quyết sách.
Không lơi việc nhỏ, không quản việc nhỏ nói ở trên chính là người bị lãnh đạo, người

có trách nhiệm chấp hành được hưởng quyền chấp hành một cách độc lập tự chủ. Nếu
những quyền đó bị độc chiếm thì sẽ trở về thời đại của chế độ gia trưởng “moị việc
lớn nhỏ đều do một người quyết định”.
Ủy quyền là hình thức đặc thù của phân quyền. Phân quyền là kết quả phát triển
của xã hội, là nội dung của thể chế dân chủ. Do vậy, khi giao nhiệm vụ rồi, cần để
cho cấp dưới độc lập tự chủ xử lý vấn đề, đồng thời thơng qua việc gợi ý,giáo dục,
khích lệ để nâng cao năng lực tự chủ phân tích, gải quyết vấn đề của cấp dưới.
Thứ ba, thực chất của phương pháp lãnh đạo “nắm bắt việc lớn”.
PP lãnh đạo này là sự vận dụng cụ thể phương pháp triết học chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng HCM và kinh nghiệm truyền thống đất nước. Đó cũng là sự thể hiện
của phương pháp hệ thống, phương pháp thông tin, phương pháp điều khiển hiện đại
trong hoạt động lãnh đạo.
Phương pháp lãnh đạo này chính là phương pháp khoa học động viên, khích lệ
tính tích cực của cấp dưới, đưa tính tích cực ở mức thấp nhất lên mức cao nhất – tính
chủ động, tính sáng tạo, là phương pháp khoa học để cho cấp dưới chấp hành quyết
sách một cách sáng tạo. Vì vậy, thực chất của phương pháp lãnh đạo này là cụ thể

20



×