TIỂU LUẬN:
Đặc điểm, dung lượng thị trường Mỹ
về nhập khẩu hàng dệt may
Lời mở đầu
Ngày nay quốc tế hố, tồn cầu hố đang là xu thế chung của nhân loại, không
một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh
được. Trong bối cảnh đó thương mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trị
mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy
những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học
kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, duy trì và phát triển văn hố dân tộc,
tiếp thu những tinh hoa của văn hố nhân loại. Báo cáo chính trị của ban chấp hành
Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh “ Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi
với hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn
lực trong nước là chính đi đơi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một
nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời
thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Một trong
những thị trường có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế thế giới nói chung và
kinh tế khu vực nói riêng là Mỹ. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này chẳng những
tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập, mà cịn gia
tăng sự phát triển và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hố Việt Nam.
Đề tài này tập trung làm rõ những vấn đề liên quan đến thị trường Mỹ như : luật
pháp, khả năng tiêu thụ, đối thủ cạnh tranh...nhằm góp phần nhỏ giúp các doanh nghiệp
dệt may đạt được mục tiêu kinh doanh của mình.
Nội dung
Phần 1:Cơ sở lý luận chung
1. Khái niệm về thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hố dịch vụ giữa các nước thơng qua
mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc
gia. Điều kiện để Thương mại quốc tế sinh ra, tồn tại và phát triển là : thứ nhất, có sự
tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hố-tiền tệ, kèm theo đó là sự xuất hiện của tư bản
thương nghiệp ; thứ hai, có sự ra đời của nhà nước và sự phát triển của phân công lao
động quốc tế giữa các nước.
Thương mại quốc tế là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời : dưới chế độ chiếm
hữu nô lệ và tiếp đó là chế độ nhà nước phong kiến. Trong các xã hội nô lệ và phong
kiến, do kinh tế tự nhiên còn chiếm địa vị thống trị, nên thương mại quốc tế chỉ phát
triển với quy mô nhỏ bé. Lưu thơng hàng hố giữa các quốc gia chỉ dừng lại ở một
phần nhỏ sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của giai
cấp thống trị đương thời. Thương mại quốc tế chỉ thực sự phát triển trong thời đại tư
bản chủ nghĩa và trở thành động lực phát triển quan trọng của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Ngày nay sản suất đã được quốc tế hố. Khơng một quốc gia nào có thể tồn tại
và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi
hàng hố với bên ngồi. Đồng thời, ngày nay Thương mại quốc tế không chỉ mang ý
nghĩa đơn thuần là bn bán với bên ngồi, mà thực chất là cùng với các quan hệ kinh
tế đối ngoại khác tham gia vào phân công lao động quốc tế. Do vậy, cần coi thương
mại quốc tế không chỉ là một nhân tố bổ sung cho kinh tế trong nước mà còn phải coi
sự phát triển kinh tế trong nước phải thích nghi với lựa chọn phân cơng lao động quốc
tế.
Bí quyết thành cơng trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước là nhận
thức được mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với
bên ngoài. Vấn đề quan trọng ở đây, một mặt, là phải khai thác được mọi lợi thế của
hoàn cảnh chủ quan trong nước phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thế giới và
quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác, phải tính tốn lợi thế tương đối có thể dành được và
so sánh điều đó với cái giá phải trả. Thuận lợi có thể tạo ra được nhờ tham gia vào
buôn bán và phân công lao động quốc tế bao giờ cũng tăng thêm khả năng phụ thuộc
bên ngồi. Vì vậy nói đến phát triển thương mại quốc tế và các quan hệ kinh tế đối
ngoại khác là nói đến khả năng liên kết kinh tế, hồ nhập với kinh tế bên ngồi, địi hỏi
có khả năng xử lý thành công mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
2. Lý thuyết “ lợi thế so sánh” của David Ricardo
Thương mại quốc tế có tính chất sống cịn vì một lý do cơ bản là ngoại thương
mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước. Nó cho phép một nước tiêu
dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới
của khả năng sản xuất trong nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn
bán.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, phạm vi chun mơn hố ngày một tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ
để thoả mãn nhu cầu của con người ngày một dồi dào. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nước ngày một tăng. Nói khác đi, chun mơn hố hàm ngụ nhu cầu mậu dịch và một
quốc gia khơng thể chun mơn hố sản xuất nếu không trao đổi với nhau. Các nhà
kinh tế học sử dụng thuật ngữ lợi ích của ngoại thương để ám chỉ kết quả của cả hai
vấn đề đó.
Quan điểm của David Ricardo : lợi ích thương mại vẫn diễn ra ở những nước có
lợi thế tuyệt đối về tất cả các sản phẩm vì các nước này cần phải hy sinh sản lượng kém
hiệu quả để sản xuất ra sản lượng có hiệu quả hơn. Hay nói cách khác những lợi ích do
chun mơn hố và ngoại thương mang lại phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không
phải lợi thế tuyệt đối.
Khi một nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, lợi ích
của ngoại thương là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một nước có thể sản xuất có
hiệu quả hơn nước kia trong hầu hết các mặt hàng? Hoặc những nước khơng có lợi thế
tuyệt đối nào cả thì chỗ đứng của họ trong phân công lao động quốc tế là ở đâu? và
ngoại thương diễn ra như thế nào với những nước này.
Trên thực tế đó là câu hỏi mà David Ricardo đưa ra từ hơn 170 năm về trước, và
chính ơng đã trả lời câu hỏi đó trong tác phẩm nổi tiếng của mình “Những ngun lý
của kinh tế chính trị,1817”. Trong tác phẩm này David Ricardo đã đưa ra một lý thuyết
tổng quát chính xác hơn về cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế. Đó là lý
thuyết về lợi thế so sánh. Theo David Ricardo cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương
mại quốc tế là:
-Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân cơng lao động quốc tế. Bởi vì ngoại
thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước: do chỉ chuyên mơn hố
vào sản xuất một số sản phẩm nhất dịnh và xuất khẩu hàng hố của mình để đổi lấy
hàng nhập khẩu của nước khác.
-Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác, hoặc bị kém lợi thế
tuyệt đối hơn so với nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn
có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Bởi vì mỗi nước có một lợi thế so
sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng. Một
nước sẽ có lợi hơn nếu tập trung nguồn lực để sản xuất những sản phẩm có hiệu quả
nhất và nhập khẩu những sản phẩm mà việc sản xuất ra chúng là tốn kém hơn.
Ví dụ minh hoạ:
Các giả thiết
1. Đơn vị tài nguyên có sẵn
2. Đơn vị tài nguyên để sản
xuất một tấn lúa gạo
3. Đơn vị tài nguyên để sản
xuất một mét vuông vải
4. Sử dụng một nửa tài nguyên
cho mỗi loại sản phẩm khi
Việt nam
Hàn quốc
1.000
1.000
5
4
8
5
khơng có ngoại thương:
lúa gạo
vải
500
500
500
500
Vải
Lúa gạo
Việt Nam
62,5
100
Hàn Quốc
100
125
Tổng cộng
162,5
225
Việt Nam
0
200
Hàn Quốc
180
25
Tổng cộng
180
225
Việt Nam
0
200
Hàn Quốc
162,5
49,6
162,5
249,6
Sản xuất
Khơng có ngoại thương
Có ngoại thương( Gia tăng sản
xuất vải)
Có ngoại thương( Gia tăng sản
xuất lúa gạo)
Tổng cộng
3.Hiệp định thương mại Việt Mỹ
Ngày 13/7/2000, tại Oa-sing-tơn, Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã
được ký chính thức giữa đại diện thương mại thuộc phủ Tổng thống Hoa Kỳ và Bộ
trưởng thương mại Việt Nam. Có thể nói, đây là một Hiệp định thương mại đồ sộ đầu
tiên chúng ta tiến hành đàm phán, ký kết với nước ngoài. Ký Hiệp định này là dấu
chấm trên chữ “i” trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Bởi lẽ Việt Nam và Hoa
Kỳ bình thường hố quan hệ đã 5 năm nhưng chưa hoàn chỉnh. Từ tháng 7/1995 đến
nay, quan hệ giữa hai nước với tất cả phức tạp của nó, đã có những bước phát triển ở
các lĩnh vực khác nhau, kể cả trong mọi lĩnh vực nhạy cảm như quân sự cũng đã có sự
trao đổi. Về thương mại kim ngạch buôn bán từ 222 triệu USD năm 1994 lên 879 triệu
USD năm 1999. Đầu tư của Mỹ vào Việt nam đến quý II/2000 đã có 118 dự án được
cấp phép với tổng số vốn đăng ký là 1.479 triệu USD, đứng thứ 9 trong danh sách các
nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Tuy vậy trong lĩnh vực này còn một điểm
khuyết lớn là chưa có hiệp định thương mại, tức là khơng có một cơ sở pháp lý cho
quan hệ kinh tế thương mại. Bây giờ ký Hiệp định thương mại là đã hoàn tất quan hệ
kinh tế thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, tạo thêm cơ hội mới, thuận lợi mới và cũng đặt
ra thách thức mới trong quá trình phát triển kinh tế thương mại của Việt Nam.
Hiệp định thương mại Việt Mỹ khi có hiệu lực thi hành sẽ tác động rất lớn đến
khả năng đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Những cơ hội thuận lợi mà hiệp
định mang lại là:
*Thuế nhập khẩu bình quân sẽ giảm 30-40% khi Việt Nam đưa hàng hoá vào thị
trường Mỹ.
theo Hiệp định, thuế suất đánh vào hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu vào thị
trường Hoa Kỳ sẽ giảm rất đáng kể, từ mức 40% hiện nay xuống còn 3%. Nhiều
chuyên gia kinh tế của Hoa Kỳ và nước ngoài cho rằng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Hoa Kỳ sẽ tăng lên gấp đôi từ mức 500 triệu USD năm 1999 ngay trong năm
đầu tiên khi hiệp định được thực hiện, và trong khoảng 2-3 năm tới cứ mỗi năm kim
ngạch lại tăng gấp đôi
“ Các bên nỗ lực tìm kiếm nhằm đạt được sự cân bằng thoả đáng về các cơ hội
tiếp cận thị trường thông qua việc cùng cắt giảm thoả đáng thuế và các hàng rào phi
quan thuế đối với thương mại hàng hố do đàm phán đa phương mang lại”.
*Mơi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện, tăng khả năng thu hút vốn
đầu tư chẳng những của các doanh nghiệp Mỹ, mà còn thu hút vốn đầu tư từ các quốc
gia khác
Vì trước khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, hàng hố của Việt
Nam đưa vào thị trường Mỹ không được hưởng quy chế MFN. Cho nên, nhiều nhà đầu
tư nước ngoài muốn sản xuất hàng hố để xuất khẩu sang Mỹ khơng muốn đầu tư vào
Việt Nam. Nay nếu Hiệp định thương mại được thơng qua thì hàng xuất khẩu từ Việt
Nam sang Mỹ được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc ( MFN ), thì vấn đề cịn lại ở đây là
tiếp tục hồn thiện môi trường đầu tư mà ta đã cam kết thực hiện theo tinh thần của
Hiệp định là:
-Tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng để đồng vốn đầu tư của các thành
phần kinh tế có điều kiện sinh lời như nhau.
-Đơn giản hố thủ tục và theo lộ trình thì bỏ giấy phép đầu tư, các doanh nghiệp
kể cả các doanh nghiệp FDI chỉ đăng ký kinh doanh đầu tư.
-ổn định và đảm bảo tính minh bạch hệ thống pháp lý để xây dựng một mơi
trường kinh doanh có thể dự đoán trước.
-Tiến tới thực hiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư theo các chuẩn
mực quốc tế
*Các rào cản thương mại quốc tế giảm bớt
-“ Ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực
và phù hợp với các hạn chế được quy
định, tất cả các doanh nghiệp trong nước được phép kinh doanh xuất nhập khẩu mọi
hàng hoá”
-“ Các bên sẽ loại bỏ tất cả các hạn chế, hạn ngạch, yêu cầu cấp giấp phép, kiểm
soát xuất khẩu và nhập khẩu đối với mọi hàng hoá và dịch vụ”
-Xây dựng cơ chế quản lý xuất nhập khẩu mang tính dài hạn và cơng khai hố
các chính sách cơ chế để giúp cho các doanh nghiệp xây dựng chiến lược dài hạn thâm
nhập thị trường thế giới trong đó có Mỹ.
*Mở rộng và thúc đẩy thương mại
“ Mỗi bên khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động xúc tiến
thương mại như hội chợ, triển lãm, trao đổi các phái đoàn và hội thảo thương mại tại
lãnh thổ nước mình và lãnh thổ của bên kia. Tương tự, mỗi bên khuyến khích và tạo
thuận lợi cho các cơng dân và cơng ty của nước mình tham gia vào các hoạt động đó.
Tuỳ thuộc vào luật pháp hiện hành tại lãnh thổ của mình, các bên đồng ý cho phép
hàng hoá sử dụng trong các hoạt động xúc tiến đó được nhập khẩu và tái xuất khẩu mà
không phải nộp thuế xuất nhập khẩu, với điều kiện hàng hố đó khơng được bán hoặc
chuyển nhượng dưới hình thức khác.
*Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, Quyền sở hữu trí tuệ được coi trọng
và được bảo vệ
“ Mỗi bên dành cho công dân của bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự
đối xử mà bên đó dành cho cơng dân của mình trong việc xác lập bảo hộ, hưởng và
thực thi tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và mọi lợi ích có được từ các quyền đó”. Điều
này sẽ tạo ra động lực kích thích mỗi doanh nghiệp Việt Nam đầu tư để tạo lập những
thương hiệu nổi tiếng, đây là cơ sở để hàng hố Việt Nam có chỗ đứng vững chắc và
tạo thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Phần II: Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may
Vào thị trường mỹ
Chương I
Khái quát về nước mỹ
I.Nước Mỹ
Mỹ là một quốc gia có lịch sử hình thành non trẻ. Nước Mỹ có diện tích khoảng
9,3 triệu km2 , là nước có diện tích lớn thứ 4 trên thế giới. Mỹ nằm ở trung tâm chau
lục Bắc Mỹ: phía bắc giáp Canada, phía nam giáp Mêhicơ, phía đơng giáp Đại Tây
Dương và phía tây giáp Thái Bình Dương.
Dân số của Mỹ vào khoảng 280 triệu người chiếm khoảng 5% dân số thế giới,
mật dộ dân số khoảng 30 người/km2. Đây là nước đơng dân thứ ba trên thế giới, có nền
văn hoá đa dạng phong phú, đại đa số là dân da trắng ( chiếm gần 80% dân số ), số cịn
lại là da màu.
Về tơn giáo: 61% dân Mỹ theo đạo tin lành, 25% Thiên Chúa Giáo, 2% Do
Thái, 5% các tôn giáo khác, 7% không theo đạo.
Về ngôn ngữ: chủ yếu nói tiếng Anh , một số ít nói tiếng Tây Ba Nha.
Nước Mỹ là một liên bang gồm 50 bang và một nhóm các đảo nằm ở Thái Bình
Dương.
II.Nền kinh tế Mỹ
Đầu và khoảng giữa thế kỷ thứ 20, nền kinh tế Châu Âu, Châu á trong đó có
Nhật Bản bị tàn phá nặng nề do hậu quả của hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và
thứ hai. Trong khi đó nền kinh tế Mỹ lại phát triển mạnh, giàu có lên nhờ chiến tranh:
do bán vũ khí , lương thực, thực phẩm, do được tư bản của cải ở các châu lục khác
chuyển tới cất dấu trong chiến tranh...kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945,
GNP của nước Mỹ chiếm đến 42% GNP của toàn cầu, lúc bấy giờ trong thế giới tư bản
Mỹ chiếm 54,6% tổng sản lượng công nghiệp, 24% xuất khẩu và 74% dự trữ vàng. Với
sức mạnh tuyệt đối về kinh tế sau chiến tranh Mỹ bỏ vốn lớn để thành lập các tổ chức
tài chính tiền tệ như Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF); Ngân hàng tái kiến thiết và phát triển
quốc tế ( Ngân hàng thế giới-WB ). Ngoài ra nhiều tổ chức kinh tế như WTO, UNDP,
UNIDO...cũng được sự tài trợ và chịu sự khống chế của Mỹ. Do đó Mỹ có sức chi phối
rất lớn đối với nền kinh tế tồn cầu.
1. Về tài chính:
Nửa thế kỷ qua, nước Mỹ duy trì sức mạnh và khả năng tự do chuyển đổi của
đồng đô la Mỹ: gần 50% tổng lưu lượng thanh toán và đầu tư quốc tế thực hiện qua
đồng tiền này. Ngồi ra Mỹ duy trì sự thống trị thị trường tài chính tiền tệ thế giới
thơng qua sự phát triển nhanh thị trường chứng khoán: trị giá giao dịch qua thị trường
chứng khoán Mỹ năm 2000 khoảng 14000 tỷ USD so với 2,5 ngàn tỷ của các nước
NICs. Cùng với EU, Nhật, Mỹ là một trong ba chủ đầu tư lớn nhất toàn cầu. Tất cả các
yếu tố trên cho phép Mỹ nắm và ảnh hưởng đến hoạt động tài chính của tồn cầu.
2. Về cơng nghiệp:
*Cơng nghiệp năng lượng
Đây là thế mạnh của Mỹ, có sức phát triển hàng đầu thế giới, chủ yếu là dầu mỏ,
khí đốt, than, t huỷ điện, uranium. Dầu mỏ khai thác chủ yếu ở các bang Texas,
California, Louisana. Lượng dầu khai thác trong nước dấp ứng 50% nhu cầu. Khí đốt
khai thác ở các bang miền nam và California. Các mỏ than có dự trữ lớn nằm ở
Apalaches cung cấp gần 2/5 sản lượng than dùng trong cả nước. Ngoài ra Mỹ còn là
nước sản xuất nhiều điện nhất thế giới ( khoảng 2800 tỷ kwh, trong đó 1/2 là nhiệt điện
).
+Thuỷ điện: Mỹ đứng thứ hai thế giới sau Canada. Các nhà máy thuỷ điện trước
đây phát triển dọc theo các thác nước ở sườn đông dãy Appalache với quy mơ trung
bình, nay đã nhường chỗ cho các đập thuỷ điện ở miền Tây lưu vực sông Colarado và
Columbia.
+Năng lượng nguyên tử: Mỹ đứng đầu thế giới với công suất khoảng 67,1 triệu
kw( bằng 1/10 cơng suất của tồn bộ các nguồn điện năng ). Ngồi ra cịn có năng
lượng mặt trời, gió.
*Cơng nghiệp chế tạo
Giá trị của khu vực công nghiệp này khoảng 1000 tỷ USD/năm. Nếu tính cả các
cơng ty Mỹ đầu tư ở nước ngồi thì tổng sản phẩm của ngành cơng nghiệp chế tạo lên
đến ẵ tổng sản phẩm công nghiệp tồn thế giới. Ngành chế tạo hàng khơng, điện tử, tin
học, ngun tử, vũ trụ, hố chất...là các ngành cơng nghiệp mũi nhọn của Mỹ. Ngồi ra
cịn cơng nghiệp luyện kim, công nghiệp dệt, xe hơi...vi điện tử ở Texas, chế tạo ô tô ở
Tennessee, máy bay ở Seattle, Los Angeles, tàu vũ trụ ở Houston.
3. Về nông nghiệp:
Nước Mỹ có nền nơng nghiệp rất phát triển: Nhờ có diện tích lãnh thổ rộng lớn,
có nhiều miền khí hậu thuận lợi, công nghệ sinh học phát triển khả năng ứng dụng cao;
Chính phủ Mỹ hàng năm giành trên 10 tỷ USD tài trợ cho phát triển nơng nghiệp.
Chính vì vậy tất cả các ngành nông nghiệp của Mỹ: Trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản,
chế biến nông sản đều rất phát triển; Xuất khẩu nông sản năm 2000 mang về cho nước
Mỹ trên 46 tỷ USD, Mỹ đứng đầu thế giới về xuất khẩu lúa mỳ, bắp, thịt các
loại...đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo, thuỷ sản, nước trái cây..
4. Về các loại dịch vụ:
Ngồi dịch vụ tài chính, Mỹ cũng chi phối các loại hình dịch vụ khác trên thế
giới như: dịch vụ điện tử thương mại, dịch vụ du lịch, dịch vụ vận tải hàng không, dịch
vụ vận tải biển...Mỗi loại hình dịch vụ chiếm từ 7-22% thị phần dịch vụ quốc tế, hàng
năm mang lại doanh thu cho đất nước hàng ngàn tỷ USD. Theo dự đoán, đến năm 2010
thu nhập từ dịch vụ chiếm đến 93% GDP của Mỹ.
5. Về chính sách đối ngoại:
Chính phủ Mỹ không chủ trương ưu tiên thúc đẩy nhanh tiến trình tồn cầu hố
và tự do hố trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng thương mại, dịch
vụ...bằng cách xây dựng Hệ thống thương mại và thị trường thế giới trên cơ sở các
nguyên tắc, sáng kiến của Mỹ. Các nguyeen tắc và sáng kiến này được thể chế hoá
bằng các Hiệp định của WTO. Mỹ dùng cơ chế của WTO để buộc các nước thực hiện
các cam kết song phương và đa phương. Mở cửa thị trường của mình, đặc biệt mở cửa
các lĩnh vực Mỹ có lợi thế cạnh tranh hoặc Mỹ độc quyền. Cho đến thời điểm này
tháng 3/2001, Mỹ đã ký khoảng 280 Hiệp định thương mại song phương, đa phương và
các Hiệp định chuyên ngành. Việc thực hiện các Hiệp định này đảm bảo sự thuận lợi
hơn cho sự bành trướng và duy trì vị trí số 1 của nền kinh tế Mỹ trên thế giới.
Chương II:
Cơ chế và các bộ phận của cơ chế quản lý
hàng nhập khẩu dệt may của Mỹ
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ chịu sự điều tiết bởi hệ thống luật chặt
chẽ, chi tiết. Chính phủ Mỹ thơng qua 5 cơ quan cơ bản để điều tiết nền ngoại thương
của Mỹ, đó là:
1.Hệ thống luật cơ bản điều tiết hoạt động nhập khẩu vào Mỹ
*Luật thuế suất năm 1930: Luật này ra đời nhằm điều tiết hàng hoá nhập khẩu
vào Mỹ, bảo vệ chống lại việc nhập khẩu hàng hoágiả, luật này quy định mức thuế rất
cao đối với hàng nhập khẩu. Đến nay nhiều điều khoản của luật này vẫn còn hiệu lực
song thuế suất đã được sửa đổi nhiều lần và hạ xuống nhiều.
*Luật buôn bán năm 1974: Luật này định hướng cho các hoạt động bn bán.
Luật có nhiều điều khoản cho phép đền bù tổn thất cho các ngành công nghiệp Mỹ bị
cạnh tranh bởi hàng nhập khẩu. Đạo luật này gây ra nhiều bất lợi cho hàng hố nhập
khẩu vào Mỹ vì hàng hố của Mỹ đã được chính phủ đứng sau lưng bảo hộ.
*Hiệp định buôn bán năm 1979: Bao gồm các điều khoản về sự bảo hộ của
chính phủ về các chướng ngại kỹ thuật trong buôn bán, các sửa đổi thuế bù trừ và thuế
chống hàng thừa, ế- một loại thuế đánh vào các loại hàng hoá bị cho là có trợ giá hoặc
bán phá giá. Hiệp định này được thơng qua nhằm mục đích thực hiện một số bộ luật
được thương lượng tại Vòng đàm phán Tokyo của GATT.
*Luật tổng hợp về buôn bán và cạnh tranh năm 1988: Luật này uỷ nhiệm tổng
thống Mỹ tham gia Vòng đàm phán Uruguay đồng thời thiết lập thủ tục đặc biệt ( super
301 ) cho phép Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quyết định không chịu
mở cửa cho hàng hoá Mỹ vào và vi phạm Quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ.
2.Một số tổ chức liên quan tới luật thương mại
Luật thương mại của Mỹ được thi hành bởi nhiều tổ chức, cơ quan nhưng chủ
yếu là những cơ quan sau:
*Uỷ ban thương mại quốc tế ( ICC ) và phịng thương mại quốc tế (ITA). Đây là
cơ quan có liên quan đến việc quy định có đánh thuế hàng thừa, ế hay không. Trong
một vụ xử kiện chống hàng thừa,ế, ITA xác định hàng nhập khẩu có bị bán phá giá hay
khơng cịn ITC tiến hành giám định sự tổn hại của việc bán phá giá cho công nghiệp
bản xứ.
*Đại diện thương mại Mỹ (USTR): Được thành lập theo luật buôn bán năm
1974, là nơi tiếp xúc của những người muốn điều tra về các vi phạm Hiệp định thương
mại.
*Cơ quan quản lý thực phẩm và thuốc men ( FDA ): Là cơ quan kiểm tra và bảo
đảm chất lượng thực phẩm, thuốc men nhập vào Mỹ.
*Cơ quan bảo vệ moi trường ( EPA ): Là cơ quan thiết lập và giám sát các tiêu
chuẩn chất lượng khơng khí, nước, ban hành các quy định về chất thải...
*Cục Hải quan Mỹ ( USCD ): Là cơ quan thuộc bộ Ngân khố có nhiệm vụ tính
thuế và thu lệ phí đánh vào hàng nhập khẩu, thi hành các luật và hiệp ước thương mại,
chống buôn lậu và khai gian.
3.Thuế nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ
a.Biểu thuế nhập khẩu: [4; 25]
*Thuế quan theo giá: Dựa trên phần trăm giá trị đã xác định của hàng hoá được
nhập.
*Thuế theo lượng: Là thuế đánh theo trọng lượng hay dung tích hàng hố, một
số lượng quy định trên trọng lượng đơn vị hoặc các số đo khác về số lượng.
*Thuế hỗn hợp: Là thuế quan theo lượng và theo giá ( đánh trên trọng lượng
cộng thêm phần trăm của giá trị ).
b.Hạn ngạch thuế quan:
Mỹ áp dụnh hạn ngạch để kiểm soát về khối lượng hàng nhập khẩu trong một
thời gian nhất định. Phần lớn hạn ngạch nhập khẩu do Cục Hải quan quản lý và chia
làm hai loại:
*Hạn ngạch thuế quan: quy định số lượng đối với loại hàng nào đó được nhập
khẩu vào Mỹ được hưởng mức thuế thấp trong một thời gian nhất định, nếu vượt sẽ bị
đánh thuế cao.
*Hạn ngạch tuyệt đối: là hạn ngạch về số lượng cho một chủng loại hàng hoá
nào đóđược nhập khẩu vào Mỹ trong một thời gian nhất định, nếu vượt sẽ khơng được
phép nhập khẩu. Có hạn ngạch tuyệt đối mang tính tồn cầu, nhưng có hạn ngạch tuyệt
đối chỉ áp dụng đối với từng nước riêng biệt.
c.áp mã thuế nhập khẩu
Luật pháp Mỹ cho chủ hàng được chủ động xếp ngạch thuế cho các mặt hàng
nhập và nộp thuế theo kê khai, do đó người nhập hàng cần phải hiểu nguyên tắc xếp
loại.
Đối với vải khi xếp loại sẽ áp dụng nguyên tắc cân lượng. Ví dụ, vải được dệt từ
hai loại sợi cotton và polyester.
d.Định giá tính thuế hàng nhập khẩu
Nguyên tắc chung là đánh thuế theo giá giao dịch, nhưng giá giao dịch ở đây
khơng phải là giá trên hố đơn mà phải cộng thêm nhiều chi phí khác như: tiền
đónggói; tiền hoa hồng cho trung gian nếu người mua phải trả; tiền lệ phí bản
quyền...Ngồi ra giá giao dịch để đánh thuế khơng tính vận chuyển và phí bảo hiểm lơ
hàng.
Tuy nhiên có nhiều trường hợp phải dùng các nguyên tắc định giá khác, đó là:
-Định giá theo món hàng giống hệt hoặc tương tự
-Tính giá suy ngược, nghĩa là lấy giá bán lẻ trên thị trường trừ đi các chi phí để
tính ra giá nhập khẩu.
-Xác định giá thành, nghĩa là tính tốn các chi phí sản xuất ra món hàng để suy
ra giá gần với giá nhập khẩu.
-Biện pháp tổng hợp nhiều yếu tố để suy ra giá nhập nhưng ít được sử dụng.
4.Quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu đưa vào Mỹ
Việc xác định xuất xứ rất quan trọng vì hàng nhập khẩu ở những nước đang phát
triển hoặc những nước đã ký hiệp định thương mại với Mỹ sẽ được hưởng thuế suất
thấp hơn.
Xuất xứ của mặt hàng được xác định theo nguyên tắc biến đổi phần lớn về giá
trị, và được định nghĩa như sau: sản phẩm được xác định vào nước gốc là nước cuối
cùng sản xuất ra sản phẩm với du lịch sản phẩm đã biến dạng để mang tên mới và có
đặc tính sử dụng mới. Khi xuất khẩu vào Mỹ, muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo
nước bản xứ, luật Mỹ quy định trên sản phẩm phải ghi nhãn của nước xuất xứ. Sản
phẩm xuất xứ từ Việt Nam phải ghi Made in Việt Nam. Quy định này chỉ bắt buộc với
sản phẩm hoàn chỉnh.
Có một quy định đặc biệt là hàng hố gốc từ Mỹ đưa sang nước khác để sắp xếp
lại, gia cơng thêm và đóng gói khi nhập khẩu trở lại Mỹ sẽ khơng phải đóng thuế nhập
khẩu cho phần ngun liệu có gốc từ Mỹ.
5.Quy định về nhãn hiệu hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ
Quy dịnh: mọi hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc phải ghi rõ ràng,
khơng tẩy xố được, ở chỗ dễ nhìn thấy được trên bao bì xuất nhập khẩu. Tên người
mua cuối cùng ở Mỹ, tên bằng tiếng Anh nước xuất xứ hàng hoá đó. Hàng tới tay
người mua cuối cùng thì trên các bao bì, vật dụng chứa đựng bao bì của hàng hoá cũng
phải ghi rõ nước xuất xứ của hàng hoá bên trong.
Luật pháp Mỹ quy định: các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại cục Hải
quan Mỹ. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã
đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng ký nhãn hiệu hàng
hoá phải nộp cho cục Hải quan Mỹ và được lưu giữ theo luật định. Hàng nhập khẩu
vào Mỹ có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công.
Xử lý vi phạm:
*Hàng nhập vào Mỹ không tuân thủ quy định trên sẽ bị phạt mức 10% giá trị lô
hàng và phải thực hiện thêm một số yêu cầu nữa. Tuy nhiên, khơng phải có nghĩa là
người nhập khẩu được miễn thi hành đã quy định.
*Hàng nhập không đáp ứng đúng yêu cầu về ghi mác mã sẽ bị giữ lại ở khu vực
Hải quan Mỹ cho tới khi người nhập khẩu thu xếp tái xuất trở lại, phá huỷ đi hoặc tới
khi hàng được xem là bỏ để chính phủ định đoạt tồn bộ hoặc từng phần.
*Trường hợp có sự phối hợp với nước ngồi để thay đổi tẩy xố mác mã về xuất
xứ hàng hố thì bị phạt 100000 USD với lần đầu và 250000 USD cho lần sau.
6.Quy định đối với nhập khẩu hàng dệt may
Cục Hải quan Mỹ kiểm soát hàng nhập khẩu bông, len, sợi nhân tạo, hàng pha
tơ lụa, hàng làm từ sợi thiên nhiên được sản xuất tại một số nước theo quy định. Việc
kiểm soát này được tiến hành dựa trên những quy dịnh trong Hiệp định hàng dệt mà
Mỹ đã ký với các nước.
Đối với các sản phẩm dệt nhập khẩu vào Mỹ phải ghi rõ tem, mác theo quy
định: các thành phần sợi được sử dụng có tỷ trọng trên 5% sản phẩm phải ghi rõ tên,
các loại nhỏ hơn 5% phải ghi là “các loại sợi khác”. Phải ghi tên hãng sản xuất, số đăng
ký do Federal Trade Commission ( FTC ) của Mỹ cấp.
Chương III
Đãc điểm, dung lượng thị trường Mỹ
về nhập khẩu hàng dệt may
1.Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ
a.Tiềm năng nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ
Ngành dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động nhất ở Mỹ, tuy nhiên từ năm
1970 đến nay, lực lượng lao động này giảm dần, từ chỗ sử dụng 1,4 triệu lao động đến
nay chỉ còn khoảng900.000 lao động với 18.000 cơ sở may trong cả nước, tập trung
phần lớn tại Los Angeles.
Trong tương lai, ngành may gia công tại Mỹ cịn gặp nhiều gian nan vì: Hiệp
định tự do mậu dịch Bắc Mỹ năm 1994 ( NAFTA ) đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp may mặc Mỹ đầu tư vào các nước có lao động rẻ, chẳng hạn hiện nay có
khoảng 64% các doanh nghiệp may của Mỹ có cơ sở sản xuất tại Mexico; đồng thời
việc Mỹ cho các nước khác hưởng các quy chế MFN và GSP cũng tạo điều kiện cho
hàng dệt may của các nước này cạnh tranh dễ dàng với hàng sản xuất trong nước do giá
thành thấp hơn nhiều.
Mặt khác, các nhà máy sản xuất vải và quần áo lớn của Mỹ có xu hướng đầu tư
chiều sâu vào cơng nghệ ( hơn 2 tỷ USD mỗi năm ), trang bị máy móc thiết bị hiện đại,
hình thành ngành may hàng cao cấp với các nhãn hiệu nổi tiếng và nhân cơng có tay
nghề cao; hoặc thực hiện chiến lược xuất khẩu vải và nguyên phụ liệu, nhập khẩu thành
phẩm hơn là chú tâm vào phát triển ngành may gia cơng.
Chính các lý do trên cho thấy Mỹ quả là mảnh đất lý tưởng và là thị trường đầy
tiềm năng đối với các nước sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may công nghiệp với kim
ngạch nhập khẩu khoảng 60 tỷ USD mỗi năm, bằng cả khối lượng hàng dệt may của
Nhật và EU cộng lại, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1:
Kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Hàng dệt
Hàng may mặc
Tổng kim ngạch
1992
8.215
27.696
35.911
1993
8.855
32.951
41.806
1994
9.207
36.748
45.955
1995
9.985
36.526
49.511
1996
10.702
41.367
52.069
1997
12.460
40.300
52.760
1998
12.843
40.926
53.769
1999
Nguồn: Bộ thương mại Mỹ và tổng công ty Vinatex
b.Cơ cấu mặt hàng dệt may nhập khẩu của Mỹ
54.300
Trong các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ, mặt hàng quần áo chiếm tỷ
trọng cao nhất, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Cơ cấu hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ
Đơn vị: tỷ USD
Mặt
1996
hàng
1997
1998
1999
Kim
TT
Kim
TT
Kim
TT
Kim
TT
ngạch
%
ngạch
%
ngạch
%
ngạch
%
0.979
2,25
1.676
3,22
1.370
3,10
1.400
2,20
Vải
4.590
10,55
5.658
10,88
6.010
10,70
6.600
10,60
Quần
37.93
áo
0
Tổng
43.50
cộng
0
Sợi,
chỉ
87,20
100
44.56
0
51.98
4
48.36
85,90
0
56.10
100
0
86,20
100
54.30
0
62.30
0
88,10
100
Nguồn: Internet
Trong đó, hàng dệt có thể được chia ra làm hai loại: dệt kim và dệt kim thường, với
kim ngạch nhập khẩu cũng khác biệt nhau như bảng sau:
Bảng 3: Cơ cấu hàng dệt kim, dệt thường nhập khẩu vào Mỹ
Đơn vị: tỷ USD
Mặt hàng
1996
1997
1998
1999
Hàng dệt thường
22.87
25.99
27.54
30.41
Hàng dệt kim
15.06
18.65
20.79
23.89
Tổng cộng
37.93
44.64
48.36
54.30
Nguồn: Tạp chí dệt may Việt Nam
2.Nguồn nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ
Hàng năm Mỹ nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu từ Mêhicô, Trung Quốc, Đài
Loan, Hongkong, Nam triều Tiên ( các nước này chiếm đến 60% hàng dệt may nhập
khẩu vào Mỹ )
Bảng 4: Nguồn nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ
Đơn vị: Triệu USD
Tên nước
1989
1993
1996
1997
1998
Mêhicô
1,518
2,380
3,490
4,900
6,906
Trung Quốc
287
6,186
4,533
4,982
4,427
Hongkong
3,944
4,018
3,330
3,388
4,394
Đài Loan
2,822
2,331
2,257
2,326
2,072
Hàn Quốc
3,671
2,538
1,692
1,893
2,033
Canada
1,650
1,986
1,469
Indonesia
1,285
1,530
1,605
ấn Độ
1,202
1,345
1,488
Thái Lan
975
1,142
1,360
Malaysia
995
1,069
979
Singapore
209
203
224
98
360
13
21
Campuchia
Lào
15
Nguồn: Bộ thương mại Mỹ
*Mêhicô cùng với Mỹ nằm trong khối NAFTA, nên sản phẩm dệt may của
Mêhicô đưa vào Mỹ được miễn thuế nhập khẩu và miễn hạn ngạch nhập khẩu. Hơn
nữa Mêhicơ có lợi thế nằm sát cạnh nước Mỹ nên chi phí vận tải hàng hố đưa vào Mỹ
thấp, nhờ đó nâng được tính cạnh tranh về giá cho sản phẩm. Đó là lý do vì sao Mêhicơ
lại có thể xuất khẩu một số lượng lớn hàng dệt may vào thị trường Mỹ.
*Trung Quốc ký kết Hiệp định hàng dệt song phương với Mỹ năm 1997, nhờ đó
đã vượt qua được những đối xử khắt khe của các nhà quản lý hàng mậu dịch ở Mỹ, làm
cho kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ không ngừng tăng lên. Sắp tới Trung
Quốc sẽ được gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới ( WTO ) chắc chắn ảnh hưởng
lớn hơn nữa đến thị trường cũng như khả năng cạnh tranh hàng dệt may của các nước
xuất khẩu khác, trong đó có Việt Nam.
Đối với hàng may mặc, Trung Quốc xuất vào Mỹ phần lớn là hàng dệt thường,
chiếm thị phần cao nhất so với các nước khác là 16,1%; về hàng dệt kim thì Trung
Quốc chỉ đứng thứ ba với thị phần chiếm 9,9%.
Ngồi ra các cơng ty dệt may của Trung Quốc biết sử dụng tối đa hệ thống
thương mại của người Mỹ gốc Hoa để thực hiện phân phối trực tiếp sản phẩm của mình
trên thị trường Mỹ. Do vậy hàng dệt may Trung Quốc chiếm thị phần rất cao ở thị
trường bình dân và có thu nhập thấp.
*Nếu Trung Quốc mạnh về các hàng dệt may bình dân, thì Hongkong là nước
xuất khẩu hàng dệt may cao cấp lớn nhất vào thị trường Mỹ. Hàng dệt may Hongkong
có đặc điểm là xuất xứ từ các nước Đông Nam á ( các nước có giá nhân cơng rất thấp ),
sau đó được nhập khẩu vào Hongkong rồi nâng cấp lên để tái xuất khẩu.
Cũng như Trung Quốc, hàng dệt may của Hongkong xuất khẩu vào Mỹ cũng
được hưởng thuế suất ưu đãi theo quy chế MFN, cùng với việc được hưởng các ưu đãi
về thủ tục nhập khẩu, lệ phí hải quan, chi phí vận chuyển lưu thơng... nên đã có được
lợi thế cạnh tranh rất lớn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác.
Chương IV
Thực trạng xuất khẩu ngành hàng dệt may
Sang thị trường Mỹ
1.Thực trạng
Từ trước đến nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện được việc xuất
khẩu mặt hàng dệt may sang Mỹ, nhưng với số lượng nhỏ, chỉ chiếm từ 5% đến 10%
tổng lượng sản xuất của cả nước, cụ thể kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam vào Mỹ năm 1999 là 30 triệu USD, năm 2000 là 40 triệu USD. Sở dĩ như vậy là
vì sản phẩm dệt may của Việt Nam tuy hoàn toàn không gặp trở ngại về mặt chất lượng
khi thâm nhập thị trường Mỹ, nhưng phải chịu thuế suất nhập khẩu rất cao, từ 30% đến
90%, trong khi đó mức thuế suất thấp nhất mà các nước khác được hưởng là khoảng
20%. Với hơn 1000 doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may và với hàng vạn cơ sở sản
xuất may cá thể, Việt Nam có lợi thế về nhân cơng lao động có thể làm ra lượng sản
phẩm lớn, nhưng các nhà sản xuất hàng dệt may nắm rất ít thơng tin về luật lệ kinh
doanh và thị hiếu của thị trường Mỹ. Phần lớn sản phẩm dệt may của Việt Nam trước
đây không xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ được, mà phải đi qua nước thứ ba khiến giá
thành bị nâng lên rất nhiều nên chưa tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường này.
Theo thống kê của Hải quan Mỹ, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may các
loại vào Mỹ trong năm tài chính từ tháng 3/1999 đến tháng 3/2000 là 65,52 tỷ USD,
tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm
0,5% tổng nhập khẩu từ ASEAN và 0,07% tổng nhập khẩu của Mỹ từ tất cả các nước.
Về trị giá, Việt Nam đứng thứ 8 trong số các nước ASEAN và thứ 57 trong tất cả các
nước có hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ.
Bảng 5: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ
Đơn vị: Triệu USD
Mặt hàng
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Hàng dệt
0,11
1,78
3,59
5,326
5,053
-
-
Hàng
2,45
15,09
20,01
20,602
21,34
-
-
may
2,56
16,87
23,60
25,928
7
30,00
38,44
+14,31
+6,37
+2,328
26,40
+3,6
-
+13,6
-
Cộng
Tăng
0
giảm
+0,47
tuyệt đối
+558,9
(triệu
+38,89
+9,86
2
8
USD)
5
2,15
Tăng
0,46
giảm
1,99
+1,82
2,25
1,78
tương đối
(%)
1,82
Tỷ trọng
so
với
tổng
giá
trị
xuất
khẩu của
hàng dệt
may Việt
Nam (%)
Nguồn: Hải quan Mỹ
2.Thuận lợi và khó khăn
a.Thuận lợi
*Đường lối đúng đắn của Đảng và chính phủ tạo mọi cơ hội thuận lợi nhất cho
mọi doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh
xuất khẩu ra thị trường thế giới. Đặc biệt đáng chú ý Chính phủ đang thơng qua cơ chế
điều hành xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Với cơ chế mới này, mọi
doanh nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tiến tới xoá bỏ những
rào cản pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất khẩu. Khả năng tiếp cận với
thị trường quốc tế trong đó có thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thuận
lợi hơn.
*Khoảng trong tháng 7/2001 Hiệp định thương mại Việt-Mỹ sẽ được Quốc hội
của hai nước phê chuẩn, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng quy chế Tối
Huệ Quốc khi đưa vào thị trường Mỹ, tính cạnh tranh về giá của sản phẩm Việt Nam sẽ
được gia tăng đáng kể vì thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân từ 40-70% xuống cịn 37%.
*Việt Nam là một trong những nước có mơi trường pháp lý; mơi trường hành
chính; mơi trường tài chính-ngân hàng; cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực...ngày càng hoàn
thiện
*Hàng dệt may Việt Nam đã có cải tiến về mẫu mã được các khách hàng trong
và ngoài nước ưa chuộng.
*Việt nam đi sau trong việc hội nhập kinh tế nên có điều kiện tiếp thu các cơng
nghệ kỹ thuật mới và tiên tiến cũng như tiếp thu những kinh nghiệm của các nước đi
trước.
*Phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường có quy mơ vừa và nhỏ
nên có những lợi thế mà các doanh nghiệp lớn khơng có được, như:
+Linh hoạt và thích nghi dễ dàng với sự biến động của thị trường;
+Có khả năng tận dụng mọi nguồn lao động khắp các miền của đất nước, từ
thành thị đến nơng thơn;
+Khơng cần vốn lớn, có điều kiện tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận trong hoạt
động sản xuất và kinh doanh;
+Dễ đổi mới trang thiết bị, cải tiến quy trình cơng nghệ, mẫu mã để mở rộng thị
trường;