Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân Tích Khái Niệm, Cấu Trúc Của Ý Thức Pháp Luật? Vai Trò Của Ý Thức Pháp Luật Đối Với Hoạt Động Xây Dựng Pháp Luật Và Thực Hiện Pháp Luật Ở Nước Ta Hiện Nay?.Docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.83 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................................................1
I/ Khái niệm, cấu trúc của ý thức pháp luật...............................................................1
1. Khái niệm ý thức pháp luật......................................................................................1
2. Đặc điểm của ý thức pháp luật.................................................................................1
3. Cấu trúc của ý thức pháp luật..................................................................................2
4. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật....................................................4
II/ Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực
hiện pháp luật ở nước ta hiện nay................................................................................5
1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta
hiện nay..........................................................................................................................5
1.1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật............5
1.2. Thực trạng về vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng
pháp luật ở nước ta........................................................................................................6
2. Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật ở nước ta hiện
nay...................................................................................................................................8
2.1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật.......................8
2.2. Thực trạng về vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật
ở nước ta.........................................................................................................................9
3. Một số kiến nghị nâng cao ý thức pháp luật.........................................................12
KẾT LUẬN..................................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................15


PHẦN I - MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, không có yếu tố nào của q trình điều chỉnh pháp luật lại
khơng có mối liên hệ hoặc thiếu đi sự ảnh hưởng, chi phối của ý thức pháp luật. Thực
tế trong sự tồn tại, phát huy vai trò của mỗi yếu tố với mức độ ít hoặc nhiều, trực tiếp
hoặc gián tiếp đều có dấu ấn của ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật là một phạm trù
thuộc đối tượng nghiên cứu quan trọng của khoa học pháp lý. Bên cạnh đó, trong hoạt


động xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, tác
động, trong đó, ý thức pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Đây là tiền
đề tư tưởng trực tiếp cho việc thực hiện pháp luật, xây dựng, phát triển và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện hành vi của chủ thể, góp phần
nâng cao phẩm chất, nhân cách con người. Vì vậy, để hiểu rõ được những vấn đề trên,
nhóm chúng em đã chọn đề tài: “Phân tích khái niệm, cấu trúc của ý thức pháp luật?
Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp
luật ở nước ta hiện nay”. Rất mong nhận được sự ủng hộ của thầy cô và các bạn.
PHẦN II - NỘI DUNG
I/ Khái niệm, cấu trúc của ý thức pháp luật
1. Khái niệm ý thức pháp luật
Dưới góc độ triết học phạm trù ý thức nói chung thuộc lĩnh vực đời sống tinh
thần và ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội. Ý thức pháp luật là tổng
thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm, thái độ, tình cảm của con
người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, thể hiện mối quan hệ giữa con
người đối với pháp luật (pháp luật đã qua, pháp luật hiện hành và pháp luật cần phải
có) và sự đánh giá về mức độ cơng bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay khơng hợp
pháp... đối với các hành vi, lợi ích hoặc quan hệ từ thực tiễn đời sống pháp l ý và xã
hội.
2. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Dưới góc độ tổng quan, việc nghiên cứu ý thức pháp luật có thể rút ra những
điểm cơ bản sau:
2.1. Cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật do tồn tại xã
hội quyết định nhưng mang tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với tồn tại
xã hội: Nó phản ánh điều kiện tồn tại xã hội và là cơ sở nhận thức để cải tạo, phục vụ
1


xã hội của con người. Gắn liền với sự vận động và phát triển của xã hội, ý thức pháp
luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội theo những chiều hướng khác nhau.

2.2. Ý thức pháp luật mang tính giai cấp: Khơng có ý thức pháp luật thuần túy,
ngoài giai cấp, phi giai cấp. Suy cho cùng, ý thức pháp luật chính là sản phẩm từng
giai cấp trong sự phát triển của lịch sử xã hội. Nó là tiền đề để xây dựng các giá trị,
chuẩn mực pháp lý của từng giai cấp đối với xã hội, là cơ sở để hình thành thế giới
quan pháp lý chính thống trong xã hội.
2.3. Trong q trình vận động và phát triển, ý thức pháp luật có tính kế thừa
trên cơ sở chọn lọc đối với một số nhân tố của ý thức pháp luật trước đó, chẳng hạn
như các nguyên lý, học thuyết của pháp luật hoặc các tư tưởng, giá trị pháp lý ghi nhận
về quyền con người...
2.4. Ý thức pháp luật có thể vượt lên trước tồn tại xã hội: Trong ý thức pháp
luật có bộ phận tư tưởng khoa học về pháp luật có thể vượt lên trước tồn tại xã hội.
Đối với hệ tư tưởng pháp luật thì tri thức khoa học là yếu tố cơ bản bởi nó có thể đem
lại sự nhìn nhận khách quan đối với tồn tại xã hội.
2.5. Ý thức pháp luật có quan hệ và sự tác động qua lại với các hình thái ý thức
xã hội khác: Sự tác động của ý thức pháp luật với ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý
thức tơn giáo... luôn thể hiện ở sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong quá trình tồn tại và
vận động. Sẽ là sự tác động tích cực nếu có sự phù hợp giữa ý thức pháp luật với các
loại hình ý thức đó và ngược lại, đó sẽ là nhân tố cản trở lẫn nhau nếu giữa các phạm
trù ý thức đó thiếu đi sự tương đồng cần thiết.
3. Cấu trúc của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật có cấu trúc khá phức tạp. Cấu trúc của ý thức pháp luật có thể
được nhìn nhận từ những góc độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu. Để
xác định cấu trúc của ý thức pháp luật, chúng ta có thể phân tích theo các chiều cạnh
như sau:
- Căn cứ vào nội dung và tính chất của các bộ phận hợp thành, ý thức pháp
luật bao gồm hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
+ Hệ tư tưởng pháp luật là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm và học thuyết
của pháp luật. Hệ tư tưởng mang tính tự giác, tính hệ thống và tính khoa học. Tư tưởng
pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình thành trên cơ sở học thuyết Mác -


2


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về pháp luật.
+ Tâm lý pháp luật là sự phản ánh những tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm
đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý cụ thể khác. Nếu yếu tố tư tưởng của pháp
luật bao gồm các yếu tố thuộc phạm vi ý thức hệ, thì yếu tố tâm lý pháp luật thuộc lĩnh
vực tình cảm pháp luật. Ở đây đối tượng mang tâm lý pháp luật là con người với tư
cách là một cá nhân, một thành viên tập thể, thành viên cộng đồng dân tộc, một công
dân của một quốc gia. Trong tâm lý pháp luật, thói quen pháp luật là yếu tố quan
trọng. Nhờ có thói quen pháp luật mà con người hành động một cách rất rõ ràng, dứt
khoát.
So với tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật là bộ phận bền vững hơn, bảo thủ
hơn. Tâm lý pháp luật gắn bó chặt chẽ với những truyền thống, tập quán, thói quen của
con người.
Tuy nhiên, giữa hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật có mối quan hệ qua
lại với nhau: Hệ tư tưởng pháp luật tác động mạnh mẽ tới tâm lý pháp luật, đồng thời
tâm lý pháp luật là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của các tư tưởng, quan điểm
pháp luật.
- Căn cứ vào cấp độ và giới hạn nhận thức, ý thức pháp luật được chia thành
hai bộ phận cơ bản: ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận.
+ Ý thức pháp luật thơng thường được hình thành một cách tự phát dưới tác
động trực tiếp của điều kiện và kinh nghiệm cuộc sống cá nhân.
+ Ý thức pháp luật lý luận thể hiện dưới dạng quan điểm, khái niệm, học thuyết
về pháp luật. Ý thức pháp luật mang tính lý luận hình thành trên cơ sở nghiên cứu và
tổng hợp sâu sắc các kiến thức pháp luật. Ý thức pháp luật mang tính lý luận là cơ sở
để hoạt động sáng tạo pháp luật.
+ Bên cạnh ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận, có nhà
nghiên cứu cịn đề cập đến cấp độ ý thức pháp luật nghề nghiệp, coi nó là ý thức của

luật gia và các nhà chức trách mà nghề nghiệp có liên quan đến việc hoạch định chính
sách pháp luật, nghiên cứu pháp luật, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật. So với
ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận, ý thức pháp luật nghề
nghiệp đặc trưng bởi sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tư tưởng và yếu tố tâm lý. Ý thức
pháp luật nghề nghiệp không chỉ đặc trưng bởi trình độ hiểu biết cao về pháp luật, mà
3


còn đặc trưng bởi khả năng thực tế cao như thành thói quen trong sự vận dụng và áp
dụng pháp luật trong thực tế.
- Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật, ý thức pháp luật được chia thành: ý
thức pháp luật xã hội, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật cá nhân.
+ Ý thức pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến đại diện cho
xã hội, nó chứa đựng những tư tưởng, quan điểm khoa học về những vấn đề cơ bản
nhất của pháp luật. Vì nó tiến bộ và có cơ sở khoa học nên ý thức pháp luật xã hội
được chính thức hóa trong tồn xã hội.
+ Ý thức pháp luật nhóm chỉ phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tâm lý, tình
cảm của một nhóm xã hội nhất định về pháp luật. Ý thức pháp luật nhóm có phạm vi
tác động nhỏ hơn so với ý thức pháp luật xã hội.
+ Ý thức pháp luật cá nhân phản ánh những quan điểm, tư tưởng, tâm lý, tình
cảm, thái độ của mỗi người về pháp luật và đối với pháp luật. Trình độ ý thức pháp
luật của cá nhân thường thấp hơn ý thức pháp luật xã hội. Do vậy, vấn đề đặt ra là
không ngừng đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật của
cá nhân lên ngang tầm ý thức pháp luật xã hội.
4. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật
Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra (hoặc thừa
nhận) có tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bặt
buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước và được Nhà nước
đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật trong sự hình thành,
tồn tại và phát huy giá trị của mình ln chịu sự tác động của ý thức pháp luật. Ngược

lại, pháp luật cũng tác động đến sự vận động, phát triển của ý thức pháp luật.
Xét từ góc độ chung, sự tồn tại của hệ thống pháp luật bằng nhiều cách sẽ tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp lên nhận thức của các chủ thể, do đó nó trở thành nhân tố,
phương tiện thúc đẩy sự phát triển của ý thức pháp luật trên thực tế. Điều này cũng có
thể lí giải thêm bởi chính pháp luật là “nguồn”, bộ phận cơ bản để tạo nên nội dung
của hệ tư tưởng pháp luật cũng như định hướng tâm lí pháp luật đối với các chủ thể.
Như vậy, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, khách quan sẽ là điều kiện thiết yếu cho việc
nâng cao ý thức pháp luật trên thực tế.
Xét từ góc độ thực tế, cụ thể, pháp luật hồn tồn khơng có khả năng tự tác
động vào ý thức của con người mà nó được chuyển hố thơng qua chính q trình
4


nhận thức của con người. Như vậy, khi cá nhân con người có năng lực nhận thức, ý
thức và sự hiểu biết pháp luật tốt thì sự tác động của các quy định pháp luật lên ý thức
của họ diễn ra theo chiều hướng thuận lợi và khả năng đem lại hiệu quả cao. Ngược
lại, đối với người năng lực nhận thức và ý thức pháp luật thấp thì sự tác động của pháp
luật lại diễn ra hạn chế, kém hiệu quả.
Ý thức pháp luật có vai trị như là một yếu tố có tác động quyết định đến hiệu
quả của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật. Pháp luật chỉ có thể đi vào
cuộc sống, xã hội có trật tự, kỷ cương và phát triển nếu trong q trình thực hiện pháp
luật, các chủ thể có ý thức pháp luật tốt, có tư tưởng tuân thủ pháp luật, quan điểm,
thái độ nghiêm túc chấp hành pháp luật, có sự hiểu biết đầy đủ, đúng đắn về pháp
luật. Trái lại, pháp luật dù có đầy đủ, hồn thiện đến đâu cũng khơng thể phát huy tác
dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nếu như ý thức pháp luật không tốt.
Trong xã hội ta hiện nay, ý thức pháp luật thích ứng với tính chất của pháp luật
trong một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một
nền pháp luật thể hiện ý chí và lợi ích của nhân dân lao động, ý chí của đa số người
trong xã hội. Trong điều kiện của Nhà nước pháp quyền, pháp luật có vị trí tối thượng,
ý thức pháp luật giữ vị trí thống trị, là ý thức xã hội chủ đạo trong hệ thống ý thức xã

hội. Tuy nhiên, những tàn tích của ý thức pháp luật phong kiến, tư sản chưa phải đã
hồn tồn bị xố bỏ. Vì vậy, đi đơi với việc giáo dục, hình thành ý thức pháp luật mới
xã hội chủ nghĩa, việc đấu tranh để xoá bỏ những tàn dư của ý thức pháp luật cũ là một
nội dung quan trọng trong việc hoàn thiện nền pháp luật, củng cố trật tự pháp luật
trong xã hội.
II/ Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và
thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay
1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật ở
nước ta hiện nay
1.1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật
Ý thức pháp luật có vai trị rất lớn đối với xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở
nước ta hiện nay, cụ thể:
(1) Góp phần vào việc nhận thức thấu đáo, đầy đủ đối với chính sách pháp luật
và các yêu cầu của việc điều chỉnh pháp luật.

5


Trong quá trình hoạt động, trên cơ sở ý thức pháp luật, nhận thức, hiểu biết của
mình, các chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật có thể xác định được quan hệ xã
hội cần điều chỉnh bằng pháp luật, mức độ điều chỉnh (bằng luật hay văn bản dưới
luật)… Đồng thời, có thể xác định được trình độ phát triển của kinh tế – xã hội, nhu
cầu khách quan của đời sống xã hội để đặt ra các quy định của pháp luật phù hợp với
các điều kiện đó.
(2) Đối với việc xây dựng pháp luật, ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực
tiếp để xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật:
Khi xây dựng pháp luật, trên cơ sở ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có
thẩm quyền có thể xác định được trong số các quy phạm xã hội đang tồn tại, những
quy phạm nào có thể thừa nhận thành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
ý chí của nhà nước thì thừa nhận thành pháp luật, những quy phạm nào khơng phù hợp

thì đặt ra các quy phạm mới để thay thế chúng, những quan hệ xã hội nào cần điều
chỉnh mà chưa có pháp luật thì đặt ra quy tắc mới… Nhờ vậy mà ý thức pháp luật góp
phần hình thành nên hệ thống pháp luật.
(3) Nâng cao khả năng quy phạm hóa các nội dung điều chỉnh pháp luật và xác
định các chuẩn mực pháp lý phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế: Trong quá trình
thực hiện hệ thống pháp luật đã được ban hành, cũng phải trên cơ sở ý thức pháp luật
hay trên cơ sở kiến thức, hiểu biết của mình, các chủ thể có thẩm quyền mới có thể xác
định được các quy phạm pháp luật phù hợp với thực tại khách quan, có tính khả thi thì
tiếp tục sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước, quy
phạm nào khơng phù hợp thì ban hành hoặc đề nghị ban hành quy phạm hoặc văn bản
mới để thay thế, làm cho hệ thống pháp luật ngày càng phát triển và hồn thiện hơn.
1.2. Thực trạng về vai trị của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng
pháp luật ở nước ta
Nhờ ý thức pháp luật được nâng cao, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
hoạt động xây dựng pháp luật cũng ngày càng hoàn thiện và phát triển.
Ngày 24/05/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW). Nghị quyết là văn kiện đầu tiên của Đảng chuyên
sâu về công tác pháp luật, với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
6


kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; đổi mới căn bản công
tác xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp
phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế,
xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do,
dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước cơng nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, gắn với

những nội dung, mục tiêu và các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam được đề ra trong Nghị quyết cơ bản đã hoàn thành.
Chất lượng của hệ thống pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, cơ bản bảo
đảm tính thống nhất, đồng bộ. Các văn bản đều được đánh giá về tính hợp hiến, tính
hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ trước khi ban hành. Tính cơng khai, minh bạch của
hệ thống pháp luật từng bước được nâng lên. Công tác xây dựng pháp luật đã được đổi
mới. Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả
Trung ương và địa phương. Quy trình xây dựng chính sách tách bạch với quy trình
soạn thảo luật, pháp lệnh, bảo đảm sự phù hợp của văn bản quy phạm pháp luật với
đường lối, chủ trương của Đảng, từng bước nâng cao tính cơng khai, minh bạch trong
xây dựng chính sách, pháp luật; vai trò tham gia của xã hội vào quy trình xây dựng
chính sách, pháp luật của Nhà nước được quy định cụ thể; pháp luật về hợp nhất, pháp
điển văn bản quy phạm pháp luật góp phần bảo đảm cho hệ thống pháp luật đơn giản,
rõ ràng, dễ tra cứu, tiếp cận, dễ sử dụng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.
Theo đó, các quy phạm pháp luật khơng ngừng được sửa đổi, bổ sung, hồn
thiện. Những quy phạm pháp luật khơng cịn phù hợp đã được thay thế bằng những
quy phạm pháp luật mới. Những thời điểm như 1/1 và 1/7 hàng năm là thời điểm nhiều
quy định pháp luật mới có hiệu lực. Ví dụ từ 1/1/2022, sáu luật có hiệu lực thi hành đó
là, Luật Bảo vệ môi trường; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm
hành chính; Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngồi theo hợp đồng;
Luật Biên phịng Việt Nam; Luật Phịng, chống ma túy; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều và Phụ lục Danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia của Luật Thống kê.
Ví dụ, Luật Bảo vệ mơi trường 2020 được Quốc hội khóa XIV, Kỳ họp thứ 10
thông qua ngày 17/11/2020. Luật này gồm 16 chương, 171 điều có hiệu lực thi hành từ

7


1/1/2022; riêng khoản 3, Điều 29 về đánh giá sơ bộ tác động mơi trường có hiệu lực
thi hành từ 1/2/2021.

2. Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật ở nước ta
hiện nay
2.1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật
Ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý là bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội, là
một hình thái ý thức xã hội. Ý thức pháp luật góp phần quan trọng trong hoạt động
thực hiện pháp luật, đặc biệt là đối với việc duy trì trật tự, kỷ cương của Nhà nước và
xã hội.
Trong quá trình thực hiện pháp luật có những nhân tố chủ quan và khách quan
tác động tới hiệu quả và chất lượng của hoạt động này theo hai chiều hướng tích cực
và tiêu cực. Các nhân tố khách quan bao gồm: bản chất của nhà nước, thể chế chính
trị, cơ chế kinh tế, các tồn tại xã hội, tồn tại pháp luật. Các nhân tố chủ quan có sự tác
động mạnh mẽ đến quá trình thực hiện pháp luật bao gồm: khả năng nhận thức, trình
độ học vấn, ý thức chính trị, ý thức đạo đức và đặc biệt là ý thức pháp luật của con
người. Ngoài ra, ý thức pháp luật và thực hiện pháp luật còn chịu sự ảnh hưởng bởi
một số các yếu tố cụ thể sau: trình độ văn hóa, phong tục tập qn lối sống, đạo đức,
trình độ phát triển kinh té – xã hội giữa các vùng miền,…
Trong quá trình sử dụng pháp luật, để pháp luật có thể được thực hiện nghiêm
chỉnh, triệt để và chính xác thì yêu cầu đặt ra đối với mỗi chủ thể là: họ phải nắm bắt
được mình có những quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý gì, phải có ý thức về địa vị pháp lý
của chính mình khi tham gia vào các quan hệ pháp lý. Do không nhận thức được đầy
đủ địa vị pháp lý cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của mình, nên đã có khơng ít những
chủ thể thực hiện pháp luật không nghiêm túc. Ở khía cạnh khác, để có thể thực hiện
pháp luật một cách chính xác, đầy đủ, địi hỏi chủ thể phải nắm bắt được trình tự, thủ
tục, cách thức thực hiện chúng. Trên thực tế hiện nay, có khơng ít chủ thể, mặc dù
cũng có sự hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định, biết được quyền và nghĩa vụ của
mình nhưng lại khơng thể tự thực hiện được các quyền, nghĩa vụ đó bởi lẽ đơn giản,
họ khơng nắm vững các quy định về trình tự, thủ tục, không biết cách thức thực hiện.
Ngược lại với thái độ bất tn pháp luật, coi thường pháp luật thì khó có thể
thực hiện pháp luật được nghiêm túc và đúng đắn. Việc không thực hiện những quy


8


định của pháp luật trong trường hợp này dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ
thể.
2.2. Thực trạng về vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp
luật ở nước ta
(1) Đối với hoạt động sử dụng pháp luật:
Trong những năm vừa qua hoạt động sử dụng pháp luật đã có những chuyển
biến tích cực. Phải kể đến đó là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước tới vấn đề đảm
bảo quyền lợi cho mọi chủ thể trong xã hội, tạo mọi điều kiện thuận lợi thúc đẩy tính
chủ động và tích cực của công dân trong việc thực hiện các quyền của họ, là cơ sở
cho hoạt động này đạt hiệu quả cao.
Ví dụ: Do nắm bắt được quyền lợi của mình, vì vậy cơng dân đã thực hiện có
hiệu quả quyền tự do kinh doanh là thước đo của nền kinh tế thị trường phát triển; thực
hiện quyền tự do hội họp, quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng, tôn giáo…
Trong năm vừa qua, “Trụ sở tiếp công dân trung ương đã tiếp thường xuyên
1.692 lượt với 4.429 lượt cơng dân đến trình bày 1.441 vụ việc; 144 lượt đồn đơng
người. Trong đó Ban đã tiếp 1.236 lượt, 3.802 công dân, với 1.041 vụ việc; xử lý
8.549 đơn”1. Điều này có thấy một bộ phận đã hiểu biết, nhận thức được quyền và
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, khi quyền lợi bị xâm phạm hoặc phát
hiện những hành vi trái pháp luật, công dân đã tìm đến cơ quan nhà nước.
Do thực hiện khá nghiêm chỉnh, đầy đủ, thống nhất các quy định của pháp luật,
đặc biệt là các cơ quan Nhà nước đã thực hiện được đúng nhiệm vụ, quyền hạn của
mình cho nên trong thời gian qua số cán bộ, công chức vi phạm pháp luật trong khi thi
hành công vụ đã giảm, nạn tham nhũng từng bước bị đẩy lùi. Trong ngành cơng an,
“Cơng tác phịng, chống tội phạm đạt và vượt các chỉ tiêu Quốc hội đề ra; kiềm chế
được sự gia tăng của tội phạm; trật tự, an toàn xã hội có chuyển biến tích cực, tạo mơi
trường an ninh, an tồn, lành mạnh, được nhân dân đồng tình, ủng hộ cao”2.
Ngồi những mặt tích cực đạt được từ sự ảnh hưởng của ý thức pháp luật đến

hoạt động sử dụng pháp luật. Thì vẫn cịn những tồn tại, hạn chế nhất định dẫn đến
hoạt động sử dụng pháp luật diễn ra vẫn cịn nhiều bất cập. Vì cơng dân chưa ý thức
được vị trí, vai trị, cũng như chưa nắm được quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý của bản
Ban Tiếp công dân Trung ương tổng kết công tác năm 2021, />2
Bộ Công an tổng kết công tác năm 2021 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2022, />1

9


thân. Ví dụ: Hiện tượng người dân khơng đi bầu cử hoặc nhờ người nhà, người thân
đi bầu cử thay là một ví dụ điển hình.
(2) Đối với hoạt động tuân theo pháp luật:
Do ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội ngày càng được nâng cao,
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và công dân đã chủ động, tích cực, tơn trọng và
nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật, nêu cao ý thức tự giác chấp hành
pháp luật. Đây là sự cố gắng lớn lao trong nhận thức pháp luật của các tổ chức và cá
nhân, giúp hoạt động tuân theo pháp luật ngày càng đạt hiệu quả.
Ví dụ: Do nhận thức được tầm quan trọng của việc luật quy định đội mũ bảo
hiểm khi đi xe máy mà mọi người đều chấp hành nghiêm chỉnh việc đội mũ bảo hiểm
khi tham gia giao thông.
Hiện nay, các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân đã thực hiện nghiêm túc,
đầy đủ các quy định của pháp luật. Đại đa số công dân đều có ý thức thực hiện pháp
luật tốt, tinh thần “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” được người dân tơn
trọng thực hiện. Cơng dân có ý thức kiềm chế không vi phạm pháp luật, họ tơn trọng
tính mạng, nhân phẩm và tài sản của nhau.
(3) Đối với hoạt động thi hành pháp luật:
Mức độ thi hành pháp luật cao hay thấp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong
đó yếu tố ý thức pháp luật của chủ thể được coi là một trong những yếu tố quan trọng
nhất, quyết định tới việc chủ thể đó có thực hiện nghĩa vụ hay khơng thực hiện nghĩa
vụ đối với nhà nước. Thực trạng chung của ý thức pháp luật hiện nay, đã có sự ảnh

hưởng khơng nhỏ tới hiệu quả của hoạt động thi hành pháp luật trên thực tế. Có thể
thấy rằng ý thức pháp luật của chủ thể đã tác động tới hoạt động thi hành pháp luật của
chính các chủ thể đó ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực.
Hiện nay, hầu hết các tổ chức, cá nhân đã thấy được tầm quan trọng và hiệu quả
của hoạt động thi hành pháp luật. Do vậy, để có thể thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ
đối với nhà nước, các chủ thể đều thấy rằng cần phải có một sự hiểu biết nhất định và
thái độ đúng đắn với pháp luật. Được Đảng và Nhà nước quan tâm chú trọng, trong
thời gian qua công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho các tổ chức, cá
nhân ngày càng có kết quả. Vì vậy, hoạt động thi hành pháp luật bước đầu đã đạt được
những chuyển biến tích cực.

10


Tuy nhiên, trong hoạt động thi hành pháp luật hiện nay không phải chủ thể nào
cũng nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Trong hoạt động thi hành pháp
luật ở nước ta hiện nay còn nhiều yếu kém mà biểu hiện rõ nhất là trình độ dân trí chưa
cao, lối sống tuân theo pháp luật chưa phổ biến, nhiều chủ thể chưa nhận thức đúng và
đầy đủ về pháp luật.
(4) Đối với hoạt động áp dụng pháp luật:
Ý thức pháp luật của các chủ thể ở giai đoạn này, có ý nghĩa quyết định tới hiệu
quả của hoạt động áp dụng pháp luật. Vì đây là hoạt động được thực hiện thông qua
các chủ thể được nhà nước trao quyền vì vậy ý chí của những chủ thể này có ảnh
hưởng rất lớn tới tồn bộ các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật hiện nay.
Có thể thấy rằng, trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi Việt Nam bước
vào thời kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng thì sự hiểu biết pháp luật của
đội ngũ cán bộ, công chức, của các tổ chức và cá nhân trong xã hội đã được nâng lên
một cách rõ rệt. Trong quá trình áp dụng pháp luật hiện nay, các chủ thể đã có sự tơn
trọng, chủ động, tích cực thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật. Điều đó thể
hiện sự chuyến biến tích cực về mặt nhận thức cũng như thực hiện hành vi pháp luật

của các chủ thể.
Ví dụ: “Năm 2021, các Tịa án đã thụ lý sơ thẩm 2.880 vụ với 6.124 bị cáo
phạm các tội kinh tế, tham nhũng; đã đưa ra xét xử sơ thẩm 2.263 vụ với 4.125 bị cáo
(chiếm 3,06% số vụ và 3,03% số bị cáo trong tổng số vụ án hình sự đã thụ lý). Các
Tịa án đã xét xử nghiêm minh nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, phức
tạp, các vụ án tham nhũng do những người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, gây ra
những thiệt hại đặc biệt lớn, được dư luận xã hội rất quan tâm như: Vụ án Lê Quang
Hiếu Hùng và các bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và
Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; vụ án Đinh La Thăng, Trịnh Xuân
Thanh và các bị cáo phạm tội Vi phạm quy định về đầu tư cơng trình xây dựng gây
hậu quả nghiêm trọng và Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành cơng vụ xảy
ra tại Cơng ty Cổ phần hóa dầu và nhiên liệu sinh học dầu khí Ethanol Phú Thọ và
Tổng Cơng ty xây lắp Dầu khí Việt Nam;…”3

Những thành tích nổi bật trong cơng tác xét xử năm 2021 của Tịa án nhân dân, TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ (Ủy
viên Ban cán sự đảng, Phó Chánh án TANDTC)
3

11


Do có thái độ đúng đắn, có tinh thần, trách nhiệm với nghề nghiệp nên số cán
bộ, công chức vi phạm pháp luật trong khi thi hành công vụ đã giảm, hoạt động áp
dụng pháp luật của các cơ quan chức năng đã bớt sai sót, tệ nạn tham nhũng đã từng
bước bị đầy lùi… Trong hoạt động tư pháp, mặc dù các vụ án tăng hơn so với các năm
trước, nhưng chất lượng giải quyết các vụ án vẫn được đảm bảo.
3. Một số kiến nghị nâng cao ý thức pháp luật
Một số giải pháp được đề xuất như sau:
Thứ nhất, tăng cường xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở cho

mọi hoạt động xã hội.
Trước yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng, quản lý đất
nước, hệ thống pháp luật nước ta còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nhất định, chưa đáp
ứng các yêu cầu của một hệ thống pháp luật hồn thiện như tính tồn diện, tính đồng
bộ, tính phù hợp và các tiêu chuẩn về kỹ thuật pháp lý. Để hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cần nắm vững những vấn đề lý luận về pháp luật, có sự nghiên cứu tập trung, lâu
dài, chuyên sâu trong việc thực hiện các chương trình pháp luật, xây dựng chiến lược
phát triển pháp luật gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nghiên cứu hệ thống
pháp luật của các quốc gia tiên tiến trên thế giới, có sự học hỏi kỹ thuật lập pháp,
những quy phạm pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam, tăng cường sự
chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đối với công tác xây dựng các dự án luật, pháp lệnh
trình Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các văn bản quy phạm pháp luật
thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; nâng cao chất lượng, năng
lực của các cơ quan pháp chế bộ, ngành trong việc ban hành văn bản pháp quy; Nhà
nước cần thường xuyên tổ chức công tác rà soát, hệ thống hoá pháp luật và tổng kết
kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong
mọi tầng lớp nhân dân.
Để nâng cao ý thức pháp luật, chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật thơi
chưa đủ, bên cạnh đó cịn cần phải khơng ngừng bồi dưỡng, giáo dục nhằm nâng cao ý
thức pháp luật của cán bộ và nhân dân. Để công tác giáo dục nâng cao ý thức pháp luật
trong nhân dân đạt hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ một số biện pháp cơ bản sau:

12


- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật để nhân dân
hiểu đầy đủ nội dung của các văn bản pháp luật được ban hành trong từng giai đoạn.
Các hình thức thơng tin cần được cải tiến cho phù hợp với mỗi nhóm đối tượng trong
xã hội để đạt hiệu quả cao nhất.

- Đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng và Nhà nước.
Công tác giảng dạy pháp luật cần được tổ chức sâu rộng, cho mọi đối tượng, từ các
trường phổ thông, trưng học đến đại học và bồi dưỡng ở mọi ngành nghề, lĩnh vực.
- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp lý có năng lực và trình độ,
có phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào các cơ quan làm công
tác pháp luật, pháp chế. Hoạt động của đội ngũ cán bộ pháp lý này sẽ góp phần nâng
cao vai trò của pháp luật, củng cố pháp chế XHCN, góp phần giáo dục nâng cao ý thức
pháp luật của nhân dân.
- Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách
tích cực vào việc soạn thảo, thảo luận đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật thơng
qua đó nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
- Thực hiện kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức, văn hố, nâng cao
trình độ chung của nhân dân. Đạo đức và văn hoá là những yếu tố quan trọng để tạo ra
ý thức pháp luật đúng đắn, đồng thời giữa đạo đức, văn hố và pháp luật XHCN có
quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để giáo dục pháp luật đạt kết quả, cần kết hợp với
giáo dục đạo đức và giáo dục nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân.
Thứ ba, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật hiệu quả trong nhân dân.
Công tác xây dựng, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật là ba hoạt động cơ
bản của Nhà nước nhằm đảm bảo sự tác động, điều chỉnh có hiệu quả của pháp luật và
sự phát triển năng động, có định hướng của các quan hệ xã hội. Các hoạt động này đòi
hỏi các chủ thể thực hiện chúng đều phải có trình độ nhận thức và ý thức pháp luật
nhất định. Công tác xây dựng pháp luật chủ yếu tập trung vào một số cơ quan và một
số bộ phận cán bộ nhất định có chức năng chun làm cơng tác xây dựng pháp luật.
Tuy nhiên, nhân dân cũng tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật bằng nhiều hoạt
động nhất định như thảo luận đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản pháp luật, qua
đó nâng cao trình độ nhận thức và ý thức pháp luật của mình.

13



Bên cạnh việc ban hành văn bản pháp luật, việc tổ chức thực hiện các văn bản
pháp luật đó, đưa các văn bản đó vào cuộc sống, làm cho chúng phát huy được vai trò
điều chỉnh, tác động vào các quan hệ xã hội cũng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Ngoài ra, cần phải nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công
chức nhà nước. Tiến hành công tác kiểm tra, giám sát và xử lí nghiêm minh hành vi vi
phạm pháp luật đồng thời phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối
với công tác phổ biến tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho tầng lớp nhân dân.

KẾT LUẬN
Trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, có rất nhiều yếu
tố ảnh hưởng, tác động, trong đó, ý thức pháp luật là một trong những yếu tố quan
trọng nhất. Đây là tiền đề tư tưởng trực tiếp cho việc xây dựng, phát triển, hoàn thiện
hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật. Để làm được việc này đòi hỏi mỗi người
dân cần nâng cao ý thức pháp luật, xây dựng lối sống văn minh, đồng thời phải có
những đổi mới sâu sắc về nhận thức và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trên nhiều
lĩnh vực, cũng như địi hỏi sự tham gia tích cực của các cơ quan nhà nước, của các tổ
chức xã hội và toàn thể nhân dân.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Đại học Luật Hà Nội;
2. Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Đại học Luật Hà Nội;
3. Chuyên đề 6 "Ý thức xã hội và triết học về con người" trong Tập bài giảng chương
trình Cao học - TS. Ngọ Văn Nhân;
4. Xây dựng pháp luật là gì? Phân tích khái niệm xây dựng pháp luật? - ThS.LS.Phạm
Quang Thanh;
5. Vai trò của ý thức pháp luật đối với xây dựng và thực hiện pháp luật - ThS.LS.Phạm
Quang Thanh;

6. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần của Nghị quyết số
48-NQ/TW, định hướng trong thời gian tới - Nguyễn Hồng Tuyến - Vụ trưởng Vụ Các
vấn đề chung về xây dựng pháp luật;
7. Ban

Tiếp

công

dân

Trung

ương

tổng

kết

công

tác

năm

2021,

/>8. Bộ Công an tổng kết công tác năm 2021 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2022,
/>9. Bộ Công an tổng kết công tác năm 2021 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2022,
/>

15



×