Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân tích luận điểm của hồ chí minh nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.19 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 
(Học kỳ II năm học 2018 – 2019) 
ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân
khơng được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý
nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.

HỌ TÊN
:
NGUYỄN BÁ ĐẠI
MSSV
:
11180965
LỚP
:
TƯ TƯỞNG HCM(219)_21
SỐ TRANG :
9
GVHD
: THS NGUYE

Tài liệu tham khảo


1.Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
2.wikipedia
3. tulieuvankien.dangcongsanvietnam


4. Dẫn theo: Võ Nguyên Giáp : tư tưởng Hồ Chí Minh, q trình hình thành và phát triển,
Nxb sự thật, Hà Nội
5. Viện Hồ Chí Minh : Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại, Nxb lao động, Nxb quân đội
nhân dân, H.1993 tr. 90
6.tuoitre.vn
HÀ NỘI - 2020
MỤC LỤC
Mở đầu: Giới thiệu câu phát biểu của chủ tịch Hồ Chí Minh…………………Tr.1
I.Tư Tưởng HCM về độc lập dân tộc…………………………………………Tr.2
II.Quan điểm của Bác về “ Độc lập- Tự do- Hạnh phúc ”…………………….Tr.4-7
III.Hiện tại, thực trạng phát triển của đất nước ta ngày nay……………………Tr.8-9
Kết luận: học tập và noi gương theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh………Tr.10
Đề tài
 Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân khơng được hưởng
hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm
đối với Việt Nam hiện nay.

1


BÀI LÀM
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của
giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động
lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Trong tồn bộ
di sản về tư tưởng mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, vấn đề độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề trung tâm và được thể hiện
rõ ràng, xuyên suốt qua quá trình hoạt động thực tiễn của cách mạng trong nước và trên
thế giới. Nhiều năm đã trôi qua kể từ ngày đầu tiên của nền độc lập non trẻ. Giá trị của
độc lập là vơ giá, khơng gì có thể sánh được. Nhưng có một câu hỏi khác, thành quả đích
thực mà nền độc lập đem lại cho người dân là gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng trả lời

rất thấu đáo “Nếu nước độc lập mà dân khơng được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng chẳng có ý nghĩa gì". Dưới sự chỉ đường của tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo tài
tình của Đảng, với đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân tộc Việt
Nam đã giành được độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội với những thắng lợi to lớn,
căn bản, có ý nghĩa lịch sử và thời đại. 

I. Tư Tưởng HCM về độc lập dân tộc
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc bởi
chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Một nước độc lập là
một đất nước n bình, khơng bị xâm lược bởi các quốc gia khác, dân chúng được ấm no.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc vui sướng của con người khi được thỏa mãn một
nhu cầu nào đó. Còn tự do là một khái niệm dùng trong triết học chính trị mơ tả tình trạng
khi một cá nhân khơng bị sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý
chí nguyện vọng của chính mình.
Bác đã hiểu rất rõ độc lập cũng chỉ là phương tiện để thực hiện tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Chính vì thế, tự do, hạnh phúc cho nhân dân mới chính là nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước. Chừng nào cịn có kẻ đánh bạc cả triệu đơla, nhưng cả triệu người dân cịn thiếu
thốn nhiều bề, chừng nào cịn có cán bộ hách dịch, xếch mé với dân, khơng làm trịn trách
nhiệm là cơng bộc của dân, chừng nào người dân còn chịu oan khuất, phải đi khiếu kiện
kêu cầu công lý, chừng nào bộ máy hành chính cịn hành dân, thì chừng đó, tư tưởng Hồ
Chí Minh cịn chưa được qn triệt trở thành hành động trong thực tế.
2


" Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh phúc, tự do". Bác
không bao giờ chấp nhận độc lập dân tộc dưới chế độ quân chủ chuyên chế, càng không
bao giờ chấp nhận chế độ thực dân không kém phần chuyên chế. Bởi vì đó là chế độ mà
người dân bị đầu độc về tinh thần và thể xác, bị bịt miệng và bị giam hãm. Phát biểu tại
Đại hội XVIII Đảng Xã Hội Pháp, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng thực dân Pháp đã
dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tơi. Từ đó chúng tơi khơng những bị áp bức,

bóc lột một cách nhục nhã mà cịn bị hành hạ và đầu độc bằng thuốc phiện và rượu một
cách tàn ác. Đó chính là một chế độ tàn bạo mà quân ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương.
Nhà tù nhiều hơn cả trường học và lúc nào cũng ở trong trạng thái chật ních người. Với
một nền " công lý" ở Đông Dương, một sự phân biệt đối xử khơng có những bảo đảm về
quyền con người như vậy, một kiểu sống như vậy thì sẽ khơng có gì hết. 
Độc lập dân tộc khơng phải là điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới.
Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại hồn tồn mới vì đó là một kiểu
độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ mới, một cấp mới. Người không chấp nhận
độc lập dân tộc theo con đường phong kiến, tư sản, độc lập kiểu Cách mạng Mỹ năm
1776 hay độc lập kiểu giả hiệu, bánh vẽ. Người chọn kiểu độc lập dân tộc theo cách mạng
vơ sản, đó là kiểu độc lập dân tộc làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự do. 
Tự do" không phải là giá trị bất biến, tự nó ln thay đổi theo thời gian và theo bối cảnh
xã hội. "Tự do" của sáu mươi sáu năm trước hẳn sẽ khác với những giá trị của tự do ngày
hơm nay. Ngày nay, nhân dân chỉ có được tự do đích thực khi nào mà quyền lực của nhà
nước bị giới hạn bởi một bản hiến pháp dân chủ được phúc quyết bởi tồn dân, trong đó
xác định rõ những quyền cơ bản, cũng như xác định rõ việc người dân có quyền được lựa
chọn, quyền thay đổi Quốc hội, Chính phủ thơng qua cuộc bầu cử chân chính. Có được
độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh phúc, tự do. Đấy chính
là địi hỏi chính đáng, điều mà khơng phải ai khác chính cụ Hồ đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự
do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm sâu nhất của mỗi người dân nước
Việt.
Nhiều dân tộc đã bước đi những bước rất dài để hướng tới thịnh vượng văn minh, trong
khi đó cũng có nhiều dân tộc vẫn ngủ quên trong lạc hậu, đói nghèo do bảo thủ hoặc tự
bằng lòng với tư duy cũ.

3


II. Quan điểm của Bác về “ Độc lập- Tự do- Hạnh phúc ”
"Độc lập - Tự do - Hạnh phúc". Sáu chữ đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của

người khai sinh ra chính thể cộng hịa đầu tiên ở Đơng Nam Á, là cái đích Người đặt ra
cho những người đồng chí hướng của mình phải phấn đấu hi sinh đưa lại cho dân tộc
mình, cho quốc dân đồng bào mình. Sáu chữ bình dị mà thiêng liêng đã được Người nung
nấu từ lòng yêu nước ln cháy bỏng trong lịng. Người thanh niên Nguyễn Ái Quốc cũng
như bao người Việt Nam yêu nước khác không bao giờ chấp nhận sự áp đặt lịch sử phi tự
nhiên đó. Độc lập dân tộc sẽ đưa lại bình đẳng cho quốc gia và con người. Cuộc Cách
mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa đã chứng minh cho
mục đích đó. Khi Hồ Chí Minh sang Pháp tháng 6-1946, Người đã ở vị thế chủ tịch của
một nước Việt Nam mới độc lập, thoát khỏi ách thống trị của nước Pháp và buộc nước
Pháp phải đón tiếp ở tư thế thượng khách. Bình đẳng ln phải trong tư cách độc lập,
càng ở tầm vóc quốc gia càng phải vậy. Độc lập đi liền với tự do. Độc lập dân tộc đi liền
với tự do của người dân. Chính Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng nếu nước
độc lập mà người dân khơng được tự do thì cái độc lập đó cũng khơng để làm gì. 
Tự do là một tài sản quý giá và vĩnh hằng của con người, có thể coi đó cũng là một quyền
tự nhiên của con người. Chính trong tun ngơn độc lập của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tiếp thu tư tưởng của các nhà lập quốc Hoa Kỳ để từ những quyền cơ bản của con
người, trong đó có quyền tự do, suy rộng ra quyền của một dân tộc. Cũng trên tinh thần
đó, vị chủ tịch của nước Việt Nam mới đã mở rộng tư tưởng “bác ái” thành “hạnh phúc”.
Bác ái là tình thương, lịng u mến con người rộng khắp, bao trùm. Hạnh phúc là tình
thương được cụ thể hóa thành “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Hạnh
phúc là tình thương cho mọi người được chan hịa bình đẳng trong một cộng đồng ấm no,
hịa bình. Hạnh phúc là khi con người được thỏa mãn những nhu cầu và u cầu chính
đáng của mình. Hạnh phúc là khi người dân được sống đầy đủ các quyền cơng dân của
mình trong một đất nước độc lập, dưới một nhà nước bảo đảm cho họ quyền tự do dân
chủ, nhất là tự do tư tưởng.
Độc lập là kết quả của một cuộc đấu tranh cách mạng, một cuộc chiến tranh lâu dài tới
nửa thế kỷ. Độc lập là hệ quả tất yếu của quá trình lịch sử vừa hào hùng, vừa gian khổ,
vừa nguy hiểm và dài quá sức chịu đựng thông thường của con người. Vì thế cho nên, độc
lập đã là một tất yếu, đã là một thực tế khách quan. Đơi khi có những sự việc, có những
sự kiện, có những khía cạnh của cuộc sống nhắc nhở người ta nghĩ đến độc lập. Lý do là

độc lập là một thứ luôn luôn dễ bị mất, nhất là trong thời hiện đại, khi mà q trình tồn
4


cầu hố đang lan rộng trong phạm vi tồn thế giới, cho nên có những khía cạnh của khái
niệm độc lập đôi lúc bị xâm phạm, bị mất đi hoặc bị qn đi. Vì thế cho nên đơi khi
chúng ta phải nhắc nhở đến nó, nhưng thời lượng dành cho nó khơng nên nhiều q, bởi
vì các nguy cơ ấy có nhưng chưa phải là một thực tế, nhất là chưa trở thành một thực tế
chính trị. Đơi khi chúng ta vẫn nhầm lẫn về những trạng thái giả mất độc lập. Giả mất độc
lập nghĩa là có những hiện tượng chúng ta cảm thấy độc lập của mình bị xâm phạm. Do
kết quả của q trình tồn cầu hóa, của q trình xâm nhập lẫn nhau mà có những hiện
tượng va chạm làm người ta thức tỉnh về sự mất độc lập hoặc về sự xâm phạm đến khái
niệm độc lập, nhưng nó chưa phải là hiện tượng thực tế mà là hiện tượng tiền mất độc lập.
 " Độc lập - Tự do - Hạnh phúc", ba cái đó, cái trước là tiền đề cho cái sau. Đó là một
chuỗi logic rất rành mạch, rất tự nhiên là không có độc lập thì rất khó có tự do, mà khơng
có tự do thì khơng thể có hạnh phúc. Khi khơng có độc lập, khi mất độc lập thì rất khó có
tự do. Nhưng khi khơng có tự do thì khơng thể có hạnh phúc được. Đơi khi những cá nhân
thơng thái, những cá nhân khơn ngoan có thể tìm thấy tự do trong các điều kiện độc lập
không rõ ràng. Ví dụ bỏ đất nước mà đi là khơng có độc lập, nhưng người ta vẫn đi để tìm
tự do. Tự do là cái mà có thể tìm thấy ở mọi chỗ, nhưng độc lập thì người ta chỉ có thể tìm
thấy ở một chỗ là trên đất nước của mình thơi. Cho nên tự do mà gắn liền với độc lập tức
là tự do gắn liền với sự cư trú của người Việt Nam trên chính lãnh thổ của họ. Chuỗi logic
độc lập - tự do - hạnh phúc là một chuỗi quan hệ có tính chất hệ quả, cái này là điều kiện
của cái kia. Ba phạm trù này chính là ba thành tố tạo ra các giá trị tư tưởng của Hồ Chí
Minh. Khơng biết có ai cố vấn cho Bác không, nhưng khi Người đặt tiêu đề này bên dưới
tên gọi của đất nước chúng ta thì phải nói rằng việc làm ấy thể hiện một ý chí, một khát
vọng, một nỗi niềm nhất quán trong toàn bộ đời sống tinh thần, đời sống tư tưởng của ông
cụ. Độc lập - tự do - hạnh phúc là những phạm trù nền tảng của việc hình thành một quốc
gia mà ở đó con người tìm kiếm được đời sống thơng thường của mình, đời sống phát
triển của mình và hạnh phúc của mình. Người Việt Nam chúng ta là một dân tộc vị lai,

luôn luôn hướng tới tương lai, vì thế cho nên ba phạm trù ấy được đặt bên dưới tên gọi đất
nước chúng ta để thể hiện khát vọng vươn tới. Từ năm 1945 – 1975 chúng ta có 30 năm
mới tiến tới độc lập hoàn toàn, bởi độc lập theo nghĩa của người Việt Nam chính là tồn
vẹn lãnh thổ và tồn vẹn về các giá trị của người Việt. Sự toàn vẹn lãnh thổ là mặt vật
chất của khái niệm độc lập, cịn sự tồn vẹn các giá trị tinh thần chính là tự do của dân tộc
ấy. Khơng có độc lập thì dân tộc ấy khơng có tự do trong quan hệ với các dân tộc khác.
Tự do của một quốc gia và tự do của con người trong quốc gia ấy là hai mức độ khác
nhau của khái niệm tự do. Một dân tộc mà khơng có tự do thì dân tộc ấy không thể bàn
5


đến tự do của cơng dân của nó được. Chúng ta phấn đấu cho mãi đến năm 1975 mới có tự
do của quốc gia này, và do đó chúng ta mới có đủ địa vị chính trị, quyền lực chính trị để
tổ chức ra nền tự do của chính dân tộc này. Và bây giờ cũng phải nói thẳng rằng tự do của
mỗi một con người trong quốc gia ấy cũng đang tiếp tục là một vấn đề chính trị khổng lồ.
Tự do của cả dân tộc thì phải trả bằng máu mới có, cịn tự do của mỗi một con người
trong quốc gia ấy thì phải trả bằng mồ hôi nước mắt. Bởi chúng ta phải làm cho con người
tự do với điều kiện vật chất, tức là không được đói khổ quá. Chúng ta phải làm cho con
người tự do với quá khứ, bởi vì quá khứ của chúng ta vất vả quá. Chúng ta phải tự do với
nhau bởi chúng ta vẫn chưa tôn trọng lẫn nhau. Và đặc biệt là chúng ta phải tự do với
những người khác ở bên ngoài lãnh thổ chúng ta hoặc những người khác với chủng tộc
chúng ta. Khi nào mà mỗi một người dân chưa có cái quyền tự do ấy thì phải nói rằng
quyền tự do của dân tộc là một quyền hạn chế. Bởi khi từng người dân chưa có tự do thì
nhân dân nói chung khơng đủ bản lĩnh để bảo vệ tự do của dân tộc mình, tức là bảo vệ cái
tự do vĩ mơ. Chúng ta đã đi một nửa chặng đường để đạt được độc lập - tự do - hạnh phúc
của dân tộc này, nhưng chúng ta chưa thực hiện được công việc trong nửa chặng còn lại là
mỗi một con người, mỗi một thành phần tạo ra dân tộc ấy có những quyền tương tự.
Chúng ta đã làm được một nửa, nửa rất quan trọng phải trả bằng nhiều máu, nhiều nước
mắt, bây giờ chúng ta phải làm nốt chặng còn lại, chặng đem gói vĩ mơ ấy phân bố lên
trên mỗi một đầu người. Khi nào mà mỗi một người dân chưa có cái quyền tự do ấy thì

phải nói rằng quyền tự do của dân tộc là một quyền hạn chế. Mỗi một con người phải
được sở hữu tự do và đó khơng phải là một quyền lợi có chất lượng chính trị thơng
thường. Người ta vẫn xem tự do như là những quyền chính trị, nhưng khơng phải thế. Một
dân tộc khơng thể có sức mạnh được nếu cái gói tự do của dân tộc ấy khơng đến được
từng người. Đây là một lợi ích chính trị khổng lồ của mọi quốc gia. Nếu chúng ta không ý
thức được chuyện ấy, chúng ta vẫn nói rằng chúng ta nghèo, chúng ta khổ, chúng ta chưa
phát triển, chúng ta không cần đến tự do, chúng ta không cần đến dân chủ thì đấy là ngụy
biện. Nhưng nếu có ai đó nói rằng chúng ta dùng quyền ấy để chống lại chính quyền mà
chúng ta đã thiết lập ra bằng cách chưa phải là khoa học lắm, hay bằng cách chưa phải là
phổ quát lắm là sai. Nó vẫn là một chính quyền, nó vẫn là người đại diện cho dân tộc này
để thương lượng, để đối thoại, để đấu tranh, để hợp tác. Chúng ta phải ý thức được các
quyền tự do là phổ quát, nhưng việc sử dụng các quyền ấy thì có điều kiện trong từng
quốc gia một. Điều kiện nào? Điều kiện vật chất là chúng ta chưa có, điều kiện nhận thức
chúng ta cũng chưa có, vậy thì chúng ta phải phấn đấu cho quá trình ấy. Hay nói cách
khác, thế kỷ XXI này là thế kỷ người Việt Nam phấn đấu để đưa đất nước của mình đến
6


một chặng mà ở đó chúng ta thiết lập một cách thành công nền dân chủ Việt Nam, tức là
dân chủ đến từng con người Việt Nam, và cái đấy sẽ tạo ra sự phát triển bùng nổ của dân
tộc này. Lâu nay về mặt chính trị chúng ta vẫn tranh luận giữa quyền quốc gia với quyền
của từng con người, nhưng hai cái đấy không mâu thuẫn với nhau. Khi các quyền ấy
không thuộc về con người và không đến từng con người thì năng lực của dân tộc khơng
đủ để giữ gìn độc lập - tự do - hạnh phúc cho cả dân tộc. Cho nên khơng có mâu thuẫn
chính trị nào ngăn cản người Việt chúng ta đi đến phổ quát hoá các giá trị thuộc về con
người. Những ai cho rằng có mâu thuẫn này, mâu thuẫn kia giữa khái niệm tôi và chúng
ta, giữa khái niệm dân tộc và cá nhân thì đấy chính là hiểu nhầm về mặt chính trị. Nếu có
tự do thật cho con người thì người nọ sẽ vỗ vai người kia để bảo rằng anh đang đi quá.
Nhà nước chúng ta đã làm thay xã hội việc vỗ vai từng người một, và do đó nó tạo ra sự
khó chịu về mặt tâm lý. Đấy là kết quả của sự không khéo hoặc không nhận thức đầy đủ.

Con người vỗ vai nhau nhiều chứ. Qua sự tranh cãi trên các hệ thống thông tin, sự tranh
cãi trong xã hội về một số sai trái của các quan chức hoặc công chức, chúng ta thấy rằng
người dân Việt Nam dám vỗ vai cả nhà nước thì tại sao họ khơng vỗ vai nhau. Tất nhiên
những chuyện như vậy có mặt trái của nó, có những hệ quả xã hội hoặc chính trị nào đó
của nó, nhưng về cơ bản những chuỵên ấy là chuyện tốt đẹp. Khả năng vỗ vai nhau và vỗ
vai các công chức hoặc quan chức trong việc điều hành xã hội là một biểu hiện rất lành
mạnh của xã hội chúng ta. Bởi vì đấy chính là những dấu hiệu thức tỉnh rằng người Việt
đang sống, người Việt có thể sống, người Việt phải sống và sống rất lành mạnh, sống
trong tự do, sống trong dân chủ. Tất cả những cái đấy chỉ là phương tiện để đảm bảo nội
dung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa vào trong quốc hiệu của đất nước của chúng ta.
Tam quyền phân lập là những điều kiện hay những phương tiện có tính chất lý thuyết, có
tính chất kỹ thuật để tạo điều kiện cho những nội dung ấy hình thành và phát triển hoặc
tạo ra lợi ích xã hội chứ nó khơng phải là cái bắt buộc. 
Tự do tức là người ta có thể phát triển hết năng lực vốn có của mình. Tự do là quyền phát
triển, tự do khơng phải chỉ là quyền chính trị. Từ xưa đến nay các nhà chính trị vẫn gán
cho tự do một ý nghĩa rất hạn hẹp và về cơ bản là sai. Các quyền chính trị chỉ khẳng định
các quyền phát triển, tạo điều kiện cho các quyền phát triển, nhưng nó khơng phải là
quyền phát triển. Chính những giải pháp chính trị vụng về đã làm cho các quyền phát
triển trở thành các quyền chính trị. Khi nào cịn ở trạng thái chính trị thì các quyền, ví dụ
như quyền con người, khơng phát huy tác dụng tích cực.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trị của tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống. Văn hóa là lối
sống, là quyền của con người, là cái chân, thiện, mỹ giữa người với người. Điều đặc biệt
7


mang sắc thái Hồ Chí Minh là Người chú trọng tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo phương
diện đạo đức. Chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại hạnh phúc cho con người là chế độ khơng
có chủ nghĩa cá nhân và những gì phản văn hóa, đạo đức. Vì vậy thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Tóm lại,
Người đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội. Chế độ đó không chỉ là thước đo

giá trị cho độc lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc. 
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Chúng ta đã bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu của nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Thời kỳ quá độ đó là một
q trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ ở
đây có thể hiểu là những tàn dư của xã hội tiền tư bản, nó cịn là những yếu tố tư bản đang
và sẽ hiện trong đời sống kinh tế - xã hội. 

III. Hiện tại, thực trạng phát triển của đất nước ta ngày nay
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới,
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế,
sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt : chính trị, xã hội, quốc phòng an ninh
được đảm bảo và ổn định. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết định, thành công của đổi mới, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng góp
phần quan trọng vào việc giữ vững, ổn định chính trị xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp
đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước
trong khu vực và các nước đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem như đây là
một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. 
Chỉ có tăng trưởng kinh tế, thu nhập cao “ăn ngon, mặc đẹp” chưa thể gọi là chủ nghĩa xã
hội. Chủ nghĩa xã hội là cùng với việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất, là phải
không ngừng nâng cao đời sống tinh thần. Trong điều kiện nước ta, nhiều khi đời sống
tinh thần, văn hóa phải đi trước “soi đường cho quốc dân đi; văn hóa lãnh đạo quốc dân
để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”.  Trả lời câu hỏi của phóng viên báo L’Humanité
về nhân tố nào biến nước Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến, Hồ Chí Minh trả lời:
“Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tơi nhằm phát triển văn hóa.
Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng tơi trong vòng ngu muội để chúng dễ áp
8



bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ”2. Từ rất
sớm, ngay khi còn phải tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là giành độc lập dân tộc, Hồ Chí
Minh đã nhìn thấu ý nghĩa và sức mạnh của văn hóa, của đời sống tinh thần. Người cho
rằng, con người cần phải có đời sống văn hóa tinh thần vì đó là lẽ sinh tồn và mục đích
cuộc sống chúng ta. Sau này, trong kháng chiến ác liệt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “không
sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo chỉ sợ lịng dân khơng n”.
Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để có được sự phát triển đột biến trên thế giới ngày nay? Với
tính chất hiện nay của thể chế chính trị thì chúng ta khơng thể có đột biến phát triển được.
Bởi vì ai tạo ra sự đột biến? Khơng có nhà lãnh đạo thiên tài nào có thể làm thay nhân dân
được cả. Làm phát triển một cách đột biến những năng lực của xã hội, những năng lực của
người dân là cách duy nhất để tạo ra sự phát triển đột biến của xã hội chúng ta. Và tự do
của họ chính là yếu tố số một, yếu tố cội nguồn của sự phát triển đột biến các năng lực,
mà không phát triển đột biến các năng lực thì khơng có sự phát triển dân tộc chúng ta một
cách đột biến được. 
Bàn tới hạnh phúc cho con người, di sản Hồ Chí Minh cho thấy một tư duy sớm về định
hướng phát triển bền vững theo quan điểm hiện đại. Hạnh phúc cho con người không thể
tách rời phát triển bền vững. Bước vào thế kỷ XXI, nhân loại đã bàn tới Tuyên bố Thiên
niên kỷ(hay gọi là Chương trình nghị sự XXI). Chương trình đó có 8 mục tiêu chứa đựng
nội dung của phát triển bền vững. Những nội dung này, ở những mức độ đậm nhạt khác
nhau, đã có trong di sản Hồ Chí Minh. Đó là: (1) Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; (2)
Đạt phổ cập giáo dục tiểu học; (3) Tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho
phụ nữ; (4) Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; (5) Tăng cường sức khỏe bà mẹ; (6) Phòng
chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; (7) Bảo đảm bền vững về môi trường; (8)
Thiết lập quan hệ đối tác tồn cầu vì phát triển.
Trước đây, trong thập kỷ 40 của thế kỷ XX, khi bàn về giá trị của các nhà tư tưởng, Hồ
Chí Minh đã nói rõ quan điểm của mình. Theo Người, Khổng Tử có ưu điểm là tu dưỡng
đạo đức cá nhân; tơn giáo Giêxu có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả; chủ nghĩa Mác có ưu
điểm là phương pháp làm việc biện chứng; Tơn Dật Tiên có ưu điểm là phù hợp với hoàn
cảnh nước ta. Tất cả những con người đó chẳng có ưu điểm chung đó sao, đó là mưu cầu

hạnh phúc cho lồi người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu họ còn sống trên đời này, tôi
tin rằng họ sẽ ngồi lại với nhau như những người bạn rất hồn mỹ. Tơi sẽ cố gắng làm
người học trò nhỏ của các vị ấy. Tư duy Hồ Chí Minh hướng vào việc khai thác ưu điểm
chung của các vị ấy là mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội.
Trịn nửa thế kỷ sau, khi nhân loại tơn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc
9


và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”, người ta cũng khai thác điểm chung mà Hồ Chí
Minh đã cống hiến cho nhân loại, đó là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Những mục tiêu đó chính là hạnh phúc, là đỉnh cao giá trị nhân văn, văn hóa của lồi
người.
Hồ Chí Minh đã đi xa hơn 40 năm, nhưng ngày nay nhân loại vẫn nghĩ về Người, nói tới
Người với sự ngưỡng mộ một tinh thần nhân văn cao cả. Từ những năm hai mươi thế kỷ
XX, Hồ Chí Minh đã nói tới sự nghiệp giải phóng lồi người và đến tận cuối đời, trăn trở
lớn nhất của Hồ Chí Minh cũng là đem lại hạnh phúc cho người, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đúng như lời phát biểu của ông Chủ tịch Hội
đồng Hịa bình thế giới Rơmét Chanđra:
“Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do,
Ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao.
Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hịa bình cơng lý,
Ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao.
Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo,
Ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”
Người đã ra đi nhưng đã để lại biết bao nhiêu bài học sinh động cho các thế hệ đi sau, để
xây dựng và bảo vệ được quyền và lợi ích của nhân dân trong mọi giai đoạn lịch sử. Đảng
ta hiện nay vẫn đang thực hiện lý tưởng của Bác, học tập và làm theo tấm gương của Bác,
quyết tâm xây dựng Đảng Cộng Sản trong sạch, vững mạnh, là chỗ dựa vững chắc cho
người dân, khơng phụ lịng dân, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Đó
chính là đỉnh cao giá trị nhân văn của loài người. 


10



×