Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

(Môn chính trị học so sánh) so sánh nhà nước phong kiến phương tây và nhà nước phong kiến phương đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.71 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH
ĐỀ TÀI: So sánh nhà nước phong kiến phương Tây và nhà
nước phong kiến phương Đơng” và “ Phân tích những vấn đề
nổi bật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa hiện nay


MỤC LỤC

MỤC LỤC.................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẨU...........................................................................................3
NỘI DUNG................................................................................................5
I. So sánh nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phong
kiến phương Tây.................................................................................5
1. Khái quát về chế độ chính trị phong kiến...............................5
2. So sánh nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phong
kiến phương Tây?.........................................................................6
II. Những vấn đề nổi bật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa hiện
nay........................................................................................................8
1. Khái quát về chủ nghĩa xã hội..................................................8
2. Những vấn đề nổi bật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa
hiện nay..........................................................................................9
KẾT LUẬN.............................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................19


LỜI MỞ ĐẨU
Chính Trị học so sánh là một mơn học vô cùng quan trọng trong hệ thống
các môn về chính trị, mơn học mang lại cho người học những nội dung, kiến
thức về chính trị dựa trên việc so sánh và phân tích những vấn đề chính trị. Tạo
cho người học cái nhìn khách quan và hiểu biết sâu sắc nhất về vấn đề mà nội


dung môn học muốn truyền tải.
Trong bối cảnh thế giới biến đổi nhanh chóng, xu thế tồn cầu hóa phát triển
mạnh mẽ, đồng thời xu thế khu vực hóa cũng gia tăng. Khu vực quốc tế là một
không gian, bao gồm một vùng lãnh thổ nhất định của các quốc gia liền kề nhau
hoặc của các quốc gia có điểm chung về địa lý tự nhiên hay các đặc điểm quản lý
hành chính, lãnh thổ, văn hóa. Chính trị học so sánh nghiên cứu đặc điểm chính trị
của các khu vực trên thế giới, chủ yếu dựa trên yếu tố địa – chính trị, địa – kinh tế,
địa – văn hóa nhằm tăng cường nhận thức của con người về tính đa dạng của nền
chính trị, thúc đẩy hội nhập quốc tế, bảo vệ hịa bình, chủ quyền quốc gia và thúc
đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc.
Trên cơ sở phân tích đặc điểm và xu hướng phát triển của các chế độ chính
trị- xã hội, đời sống chính trị các khu vực, mơn học làm rõ sự vận động chính
trị đang diễn ra trên thế giới, đánh giá về bản chất và những ảnh hưởng chi phối
của các hệ tư tưởng chính trị, các mơ hình chính trị gắn với từng thời đại, từng
giai đoạn phát triển của lịch sử, từ đó có cái nhìn hệ thống, khách quan về nền
chính trị thế giới.
Từ cách tiếp cận trên, môn học đã đưa ra các nội dung kiến thức đạt được
những mục tiêu sau:
Thứ nhất, mô tả, phân tích đúng đắn các mơ hình, chế độ chính trị trong
lịch sử, đặc điểm chính trị các khu vực trên thế giới. Cung cấp những kiến thức
tương đối toàn diện và đáng tin cậy về các quốc gia và các khu vực trên thế giới


trên các mặt địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Hệ thống hóa những
kiến thức về các khu vực và các nước, nhất là các nước láng giềng cùng khu
vực nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc phát triển chính sách đối ngoại và hợp
tác nhiều mặt với các nước và khu vực đó.
Thứ hai, so sánh để tìm những điểm tương đồng và khác biệt về chính trị
giữa các thời đại lịch sử và giữa các khu vực trong giai đoạn hiện nay. So sánh
để tìm ra những quy luật chung và những nét đặc thù của các mơ hình chính trị

các nước và các khu vực
Thứ ba, đánh giá về những ưu điểm và hạn chế của các chế độ chính trị,
thể chế chính trị, từ đó đề xuất khả năng vận dụng các ưu điểm vào xây dựng,
hồn thiện thể chế chính trị nước mình.
Thứ tư, tìm ra đặc điểm riêng, những nét đặc thù của các chế độ chính trị,
chỉ ra được sự biến đổi, kế thừa và phát triển qua các thời kỳ lịch sử; nhận thức
rõ bản sắc chính trị của từng khu vực trên thế giới và mối quan hệ của nó với
các khu vực khác.
Thứ năm, đánh giá một cách khoa học quy luật phát triển và vị thế quốc tế
của các quốc gia hay khu vực được nghiên cứu, trong đó cơ bản nhất là xác
định được cơ sở về mọi mặt của các quốc gia điển hình, trung tâm.
Vì vậy, từ những nội dung đã được học và tìm hiểu trong mơn học này, em
xin lựa chọn hai nội dung sau để tìm hiểu và nghiên cứu trong bài tiểu luận này:
“ So sánh nhà nước phong kiến phương Tây và nhà nước phong kiến phương
Đơng” và “ Phân tích những vấn đề nổi bật của chế độ chính trị xã hội chủ
nghĩa hiện nay”.
Trong q trình tìm hiểu và làm bài sẽ khơng tránh khỏi những sai sót,
mong thầy cơ cho đánh giá và nhận xét để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn thầy cô!


NỘI DUNG
I. So sánh nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phong kiến
phương Tây
1. Khái quát về chế độ chính trị phong kiến
Kiểu nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử xã hội
loài người, ra đời trên sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ hoặc xuất hiện trực
tiếp từ sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy.
Trong xã hội phong kiến, giai cấp địa chủ, lãnh chúa phong kiến là giai
cấp thống trị. Họ thiết lập bộ máy nhà nước do vua đứng đầu để bóc lột và đàn

áp các giai cấp khác.
Nhà nước phong kiến cũng có hai bản chất là tính giai cấp và tính xã hội:
Tính giai cấp: Bộ máy chuyên chính của giai cấp địa chủ, phong kiến, là
công cụ để thực hiện và bảo vệ lợi ích, quyền, địa vị thống trị của giai cấp địa
chủ, quý tộc phong kiến trong xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
Tính xã hội: cịn là tổ chức quyền lực chung của xã hội, là đại diện chính
thức của tồn xã hội nên nhà nước phong kiến có nhiệm vụ tổ chức và điều
hành các hoạt động chung của xã hội vì sự tồn tại và lợi ích chung của cả cộng
đồng xã hội, tiến hành 1 số hoạt động nhằm phát triển kinh tế – xã hội.
Tính xã hội mờ nhạt, hạn chế, tính giai cấp thể hiện công khai, rõ rệt.
Bản chất của nhà nước phong kiến được quy định bởi các chức năng đối
nội và đối ngoại của nó.
Các chức năng đối nội cơ bản của nhà nước phong kiến bao gồm:
- Chức năng bảo vệ và phát triển chế độ sở hữu phong kiến, duy trì sự bóc
lột của phong kiến đối với nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác.


- Chức năng đàn áp sự chống đối của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác.
- Chức năng đàn áp tư tưởng.
Các chức năng đối ngoại cơ bản của nhà nước phong kiến bao gồm:
- Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược.
- Chức năng phòng thủ chống xâm lược.
2. So sánh nhà nước phong kiến phương Đơng và nhà nước phong
kiến phương Tây?
a) Về q trình hình thành và phát triển
* Phương Đơng
Hình thành tương đối sớm, từ trước Công nguyên (như Trung Quốc) hoặc
đầu Công nguyên (như các nước Đông Nam Á). Từ thế kỉ X - XV, phát triển

khá chậm.
* Phương Tây
Hình thành muộn hơn, khoảng thế kỉ V và được xác lập, hoàn thiện vào
khoảng thế kỉ X. Từ thế kỉ XI - XIV, phát triển rất phồn thịnh.
b)

Về bộ máy nhà nước phong kiến

So với bộ máy nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước phong kiến đã phát
triển hơn một bước, đặc biệt là ở giai đoạn nhà nước quân chủ trung ương tập
quyền. Trong nhà nước phong kiến, các cơ quan: quân đội, cảnh sát, toà án vẫn
là bộ phận chủ đạo trong bộ máy nhà nước.
* Phương Tây
Trong giai đoạn nhà nước phong kiến phân quyền cát cứ, chính quyền
trung ương của nhà nước phong kiến yếu, quyền lực thực sự nằm trong tay các


lãnh chúa phong kiến. Các lãnh chúa có quân đội riêng và toà án riêng, toàn
quyền trong lãnh địa của mình.
* Phương Đơng
Bộ máy nhà nước phong kiến được tổ chức tương đối chặt chẽ từ trung
ương xuống đến địa phương. Ở trung ương, đứng đầu triều đình là vua (hoặc
quốc vương), giúp việc cho vua có các cơ quan với các chức vụ quan lại khác
nhau giúp vua thực hiện sự cai trị. Ở địa phương, cách tổ chức các cơ quan nhà
nước còn đơn giản, hầu như chưa có sự phân biệt giữa chức năng hành pháp và
tư pháp, đội ngũ quan lại địa phương cũng do vua bổ nhiệm.
c) Về hình thức nhà nước phong kiến
Hình thức chính thể phổ biến trong nhà nước phong kiến là quân chủ, lịch
sử tổ chức quyền lực nhà nước phong kiến cho thấy sự tồn tại và phát triển của
chính thể quân chủ với những biểu hiện cụ thể: quân chủ phân quyền cát cứ,

quân chủ trung ương tập quyền, quân chủ đại diện đẳng cấp và cộng hoà phong
kiến.
* Phương Tây
Trong hình thức nhà nước quân chủ phân quyền cát cứ thì quyền lực nhà
nước bị phân tán, vua hoặc quốc vương khơng có tồn quyền, chỉ là “đấng
thiêng liêng”, quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến.
Trong hình thức quân chủ đại diện đẳng cấp, quyền lực nhà nước trung
ương được tăng cường trên cơ sở của sự ủng hộ của các lãnh chúa phong kiến
vừa và nhỏ, cũng như tầng lớp cư dân thành thị. Ở hình thức này, bên cạnh vua
hoặc quốc vương cịn có cơ quan đại diện đẳng cấp, ví dụ như: Nghị viện ở
Anh, Hội nghị quốc dân ở Nga, Hội nghị tam cấp ở Pháp. Cơ quan đại diện này
có thẩm quyền hạn chế trong lĩnh vực thuế và tài chính. Sự hiện diện của cơ
quan này cũng làm hạn chế quyền lực của nhà vua, vì thế khi quyền lực của vua


được tăng cường mạnh lên thì vua thường khơng tham dự hội nghị của cơ quan
đại diện đẳng cấp nữa và tìm cách loại bỏ nó.
Tồn bộ bộ máy nhà nước từ trung ương xuống đến địa phương tạo thành
một thể thống nhất. Hình thức cộng hồ phong kiến tồn tại ở một số thành phố
châu Âu (Phơlôrenxơ của Italia, Nốpgôrớt và Psơcốp của Nga…) sau khi giành
được sự tự quản bằng các con đường khác nhau như: bỏ tiền ra mua sự tự trị từ
nhà nước phong kiến, đấu tranh vũ trang…Quyền lực ở các thành phố đó tập
trung trong tay giới quý tộc thành thị tập hợp trong Hội đồng thành phố được
lập trên nguyên tắc bầu ra, chịu trách nhiệm điều hành các cơng việc và quan
hệ của thành phố. Chính ở các thành phố này đã sớm hình thành các quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ở các nước châu Âu , tồn tại cả 4 hình thức chính thể trên.
* Phương Đơng
Chính thể qn chủ trung ương tập quyền có đặc điểm là quyền lực nhà nước
tập trung vào tay vua hoặc quốc vương. Vua nắm toàn quyền nhưng trong hoạt

động điều hành vua dựa vào triều đình và bộ máy quan lại giúp việc từ trung
ương xuống đến địa phương. Toàn bộ bộ máy nhà nước từ trung ương xuống
đến địa phương tạo thành một thể thống nhất.
Ở các nước phương Đông như Việt Nam. Trung Quốc chỉ tồn tại hình thức
chính thể qn chủ phân quyền cát cứ và quân chủ trung ương tập quyền. Đặc
biệt ở Việt Nam, dưới sự tác động của nhu cầu trị thuỷ và chống giặc ngoại
xâm, nhà nước trung ương tập quyền đã hình thành rất sớm.
II. Những vấn đề nổi bật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa hiện nay.
1. Khái quát về chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là một trong ba ý thức hệ chính trị lớn hình thành trong thế
kỷ 19 bên cạnh chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ. Khơng có định nghĩa rõ


ràng về chủ nghĩa xã hội mà nó bao gồm một loạt các khuynh hướng chính trị
từ các phong trào đấu tranh chính trị và các đảng cơng nhân có tinh thần cách
mạng, những người muốn lật đổ chủ nghĩa tư bản nhanh chóng và bằng bạo lực
cho tới các dịng cải cách chấp nhận Thể chế Đại nghị và dân chủ như chủ
nghĩa xã hội dân chủ, thậm chí phát xít Đức cũng tự nhận mình là những người
theo chủ nghĩa xã hội. Theo đó, có sự phân biệt giữa những khuynh hướng chủ
nghĩa cộng sản, dân chủ xã hội và vơ chính phủ. Những người theo chủ nghĩa
xã hội thường nhấn mạnh giá trị cơ bản như bình đẳng, cơng bằng và đồn
kết và đề cao mối quan hệ chặt chẽ giữa những phong trào xã hội và lý thuyết
phê phán xã hội. Họ theo đuổi mục tiêu tạo ra một trật tự xã hội hịa hợp và
hướng đến cơng bằng xã hội.
Trong lịch sử, tại nhiều quốc gia đã và đang tồn tại những hệ thống chủ nghĩa
xã hội nhà nước thường được gọi là nhà nước cộng sản như Liên Xơ, Trung
Quốc, Việt Nam, Đơng Đức và Cuba…
Hiện nay, vẫn cịn 5 nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa là: Việt Nam, Lào,
Trung Quốc, Triều Tiên và Cuba.
Tại Việt Nam, ngay từ khi ra đời (2-1930), Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác

định rõ ràng và dứt khoát con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, là con
đường Xã hội Chủ nghĩa. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn có ý nghĩa
rất quan trọng, từ việc đưa ra quan niệm, phương châm, phương pháp, đến việc
chuẩn bị những điều kiện để tiến lên xã hội chủ nghĩa...Vận dụng sáng tạo
những tư tưởng của Người, qua hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng
sáng tỏ hơn. Hiện nay, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đang đòi hỏi
Đảng ta phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hiện thực hóa con đường
XHCN mà Đảng và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.
2. Những vấn đề nổi bật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa hiện nay.


a) Giá trị bền vững trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
dân chủ xã hội chủ nghĩa
Một là, dân chủ xã hội chủ nghĩa là kết quả quá trình phát triển lâu dài của
lịch sử. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thức rất rõ rằng, dân chủ không phải là sản
phẩm của tự nhiên; không xuất phát từ mong muốn chủ quan của bất kỳ cá
nhân hay giai cấp nào. Trong đời sống xã hội, dân chủ vừa tồn tại hiện hữu
dưới dạng những quan hệ vật chất, có thể kiểm chứng được; đồng thời, cũng
tồn tại dưới dạng ý thức, đó là các giá trị về tinh thần trong tư tưởng. Dân chủ
là sự phát triển lâu dài của lịch sử theo các quy luật khách quan. Tương ứng với
các trạng thái phát triển kinh tế - xã hội, lịch sử loài người trải qua nhiều “kiểu”
dân chủ khác nhau.
Trong lịch sử, dân chủ đã có mầm mống, phôi thai trong xã hội cộng sản
nguyên thủy. Dân chủ giai đoạn này mang ý nghĩa là mọi thành viên trong xã
hội đều có quyền bình đẳng như nhau về lợi ích kinh tế, tham gia cơng việc
cộng đồng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến phân chia xã hội
thành giai cấp thống trị và bị thống trị. Từ đó, các quyền bình đẳng vốn có của
mọi thành viên trong xã hội cộng sản nguyên thủy dần dần bị tước mất. Một

nghịch lý của sự phát triển là: “Mỗi bước tiến mới của nền văn minh, đồng thời
cũng là một bước tiến mới của sự bất bình đẳng. Xã hội ra đời cùng với văn
minh, tất cả những thể chế do xã hội tạo ra đều biến thành những thể chế đi
ngược lại mục đích ban đầu”. Chính vì vậy, trong lịch sử đã khơng ngừng diễn
ra các cuộc đấu tranh của nhân dân giành lại quyền dân chủ của mình. Một
điểm chung, từ khi thốt khỏi xã hội cộng sản nguyên thủy đến trước khi thiết
lập được xã hội cộng sản văn minh, nền dân chủ đều mang bản chất và phục vụ
cho lợi ích của giai cấp thống trị. Nền dân chủ ấy cũng chính là sự phản ánh
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn chưa phát triển đầy đủ, dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.


Trong các xã hội có giai cấp và nhà nước, dân chủ là công cụ, phương tiện
được giai cấp thống trị dùng để củng cố, bảo vệ địa vị thống trị của mình thơng
qua luật hóa các quyền cơng dân, quyền con người; nhưng đồng thời, dân chủ
cũng là ngọn cờ để giai cấp bị thống trị đấu tranh giành và bảo vệ các quyền
của mình. Các phong trào đấu tranh của nhân dân lao động cũng là đấu tranh
cho các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền. Do đó, C.Mác viết: “...chừng nào
cịn chưa giành được chính quyền dân chủ thì những người cộng sản và những
người dân chủ cịn kề vai sát cánh chiến đấu và lợi ích những người dân chủ
cũng là lợi ích của những người cộng sản”.
Trong tiến trình vận động đó, dân chủ XHCN không tự nhiên xuất hiện mà
là kết quả phát triển của nhân loại: “Bất cứ thứ dân chủ nào khác đều chỉ có thể
tồn tại trong đầu óc những nhà lý luận un bác, khơng cần biết gì đến những
sự kiện thực tế và cho rằng không phải con người trong hồn cảnh đã phát triển
các ngun tắc mà chính các nguyên tắc tự nó phát triển thành dân chủ trở
thành nguyên tắc của giai cấp vô sản, nguyên tắc của quần chúng”.
Với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, q trình xã hội hóa
sản xuất dẫn đến xã hội hóa chế độ chiếm hữu tư liệu sản xuất, nền dân chủ
XHCN ra đời phản ánh trình độ phát triển của phương thức sản xuất ấy.

Thứ hai, sức sống của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là sự tham gia
đơng đảo của nhân dân lao động vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vào
những năm đầu của thập kỷ 40 thế kỷ XIX, C.Mác đã trình bày có hệ thống
quan điểm của mình về nền dân chủ nhân dân thông qua việc phê phán quan
điểm duy tâm của Hêghen trong lĩnh vực triết học pháp quyền. Hêghen cho
rằng, nhà nước sinh ra xã hội công dân, nhân dân là vật liệu, phương tiện biểu
đạt nội dung khái niệm nhà nước. C.Mác chỉ rõ, không phải nhà nước sinh ra xã
hội công dân, mà ngược lại, xã hội công dân sinh ra nhà nước: “...sự thật là nhà
nước xuất hiện từ cái số đông ấy, cái số đông tồn tại dưới dạng những thành
viên của gia đình và những thành viên của xã hội công dân”. Nhân dân là chủ


thể đích thực của nhà nước, và bởi vậy, xét về mặt bản chất, nhà nước khơng có
chủ quyền, mà chủ quyền ấy thuộc về nhân dân: “Chế độ dân chủ xuất phát từ
con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa”. Từ đó,
C.Mác cho rằng, khơng phải mọi nhà nước đều mang hình thức dân chủ, nhưng
cơ sở hình thành và tồn tại của bất kỳ nhà nước nào đều là sự đóng góp chủ
quyền của các công dân. C.Mác cũng đã chỉ ra rằng, dân chủ hóa nhà nước là
một tính quy luật trong lịch sử, quá trình ấy chỉ kết thúc khi đạt đến trạng thái
hồn bị của nó, tức là trở thành sự tự quy định của nhân dân một cách trực tiếp
mà khơng cần bất cứ hình thức nhà nước nào, và do đó, dân chủ theo nghĩa
“quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” cũng sẽ khơng cịn nữa.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nhiều lần
khẳng định, dân chủ XHCN tức là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân
dân sử dụng quyền lực của mình để quản lý cơng việc nhà nước. Nhân dân có
quyền làm chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội. Người viết: “Toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải
thuộc về các đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị nhân dân bãi
chức bất cứ lúc nào”. Để thực hiện nền dân chủ đó, một mặt nhân dân phải tích
cực tham gia vào công việc quản lý nhà nước, mặt khác, nhà nước phải không

ngừng mở rộng các quyền tự do, dân chủ của nhân dân: “dựa vào sáng kiến của
bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời
sống của nhà nước...Quần chúng càng chủ động, càng có nhiều ý kiến, càng
mạnh dạn và càng có tinh thần sáng tạo khi tiến hành cơng việc đó thì lại càng
tốt”.
Thực tế xây dựng CNXH cho thấy, những luận điểm trên đây của các nhà
kinh điển còn nguyên giá trị. Để dân chủ XHCN trở thành hiện thực, có sức
sống, nhất định phải huy động được sức mạnh, sự sáng tạo của nhân dân - chủ
thể gốc của quyền lực.


Thứ ba, mục tiêu cao nhất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là hướng tới hạnh
phúc cho nhân dân lao động. Theo các nhà kinh điển, dân chủ xét đến cùng là
sự giải phóng con người để đi đến tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi cá nhân
và cả cộng đồng.
Con người, dù xem xét từ góc độ cá thể, hay một thành viên của xã hội,
khi sinh ra đã có các quyền cơ bản như: được sống, tự do, mưu cầu hạnh phúc,
trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quản lý xã hội. Mỗi bước tiến của dân chủ
phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình lịch sử.
Thơng qua các cuộc đấu tranh để giành lấy dân chủ, con người ngày càng thốt
khỏi xiềng xích của áp bức giai cấp, nâng cao vị thế và năng lực thực hành dân
chủ của mình.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển, dân chủ có nhiều cấp độ khác
nhau, cấp độ đầu tiên mà giai cấp vô sản hướng tới là giành được quyền lực
chính trị. Theo các ơng, trong cách mạng XHCN, giành quyền lực chính trị
được coi là “tiền đề đầu tiên của của tất cả mọi biện pháp cộng sản chủ nghĩa”.
Trong q trình đó, dân chủ là cơng cụ, phương tiện, có mục tiêu trước mắt là
giành chính quyền về tay giai cấp công nhân: “để giành được quyền lực chính
trị, giai cấp vơ sản cũng cần đến những hình thức dân chủ, nhưng đối với nó,
những hình thức dân chủ cũng như tất cả các hình thức chính trị chỉ là phương

tiện mà thôi”.
Mục tiêu cao nhất của dân chủ XHCN là thiết lập một xã hội mới tốt đẹp
hơn so với chủ nghĩa tư bản, hướng đến giải phóng con người, hạnh phúc của
nhân dân: “...đặc trưng chủ yếu nhất của nền dân chủ chân chính là nó phải phủ
nhận lịch sử của nước nó, nó phải từ bỏ mọi trách nhiệm đối với cái quá khứ
đầy dẫy cảnh nghèo khổ, nền thống trị bạo tàn, ách áp bức giai cấp và mê tín dị
đoan”. Đây là mục tiêu cao nhất của nền dân chủ XHCN.


Bốn là, giá trị về phương pháp luận. Những quan điểm về dân chủ xã hội
chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ có ý nghĩa về nội dung mà cịn
có giá trị về phương pháp luận. Các ơng cho rằng, dân chủ XHCN khơng có
mục đích tự thân, không đứng độc lập so với các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội mà  “...bất cứ nền dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ sản xuất và
xét đến cùng, đều do các quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quyết
định”. Dân chủ là một phạm trù thuộc kiến trúc thượng tầng, bị quy định bởi cơ
sở hạ tầng. Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng quy định nội dung, tính chất của
kiến trúc thượng tầng, do đó, khi xem xét nội dung, tính chất, mục đích của nền
dân chủ khơng thốt ly, tách rời trình độ phát triển kinh tế - xã hội, cái cơ sở đã
sinh ra nó.
Bản thân phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác cũng cho thấy, bất
kỳ sự vật, hiện tượng nào ra đời cũng trên cơ sở kế thừa những mặt, yếu tố tiến
bộ của cái cũ, cái mà nó phủ định, chuyển hóa vào thành phần của cái mới trên
cơ sở cao hơn. Dân chủ XHCN ra đời thay thế dân chủ tư sản, cũng kế thừa
những giá trị tích cực, tiến bộ của nền dân chủ tư sản, và các nền dân chủ trước
đó, đây chính là sự phủ định biện chứng. Nhận thức quan điểm này để không
rơi vào quan điểm chủ quan, siêu hình, mỗi giai đoạn phát triển, mỗi nền dân
chủ khác nhau sẽ có các đặc điểm khác nhau. Để dân chủ hóa đời sống xã hội,
khơng chỉ dùng các biện pháp thuần túy chính trị mà phải xuất phát từ chính sự
phát triển của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Khi các điều kiện đó

đã có sự thay đổi, nhất định cũng phải có sự thay đổi trong nhận thức về đặc
trưng, điều kiện thực hiện dân chủ.
Xu thế chung sự phát triển của lịch sử theo quy luật từ thấp đến cao, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện, những nền dân chủ chỉ để phục vụ cho lợi ích
của một nhóm giai cấp thống trị nhất định phải được thay thế bởi một nền dân
chủ cho đông đảo nhân dân lao động, một nền dân chủ nhân văn, tiến bộ vì


hạnh phúc con người. Đó là giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác về dân chủ
XHCN.
b) Một số luận điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa đã bị hoàn cảnh lịch
sử vượt qua và những nội dung cần làm sáng tỏ hiện nay
Một số luận điểm đã bị hoàn cảnh lịch sử vượt qua:
(1) Về cơ chế thực hành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong nhiều tác
phẩm, V.I.Lênin cho rằng, dân chủ XHCN (Chủ nghĩa xã hội) đồng nhất với
chế độ tự quản của quần chúng nên không cần đến “quan lại, cảnh sát, quân
đội”: “Dân chủ từ cơ sở lên, dân chủ khơng có bọn quan lại, khơng có cảnh sát,
khơng có qn đội thường trực...”. Tuy nhiên, thực tế xây dựng CNXH cho
thấy, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc tồn tại nhà nước là tất yếu khách
quan. Khi nhà nước còn tồn tại, khơng thể khơng có những con người và cơng
cụ để thực thi quyền lực - tức là “quan lại, cảnh sát, quân đội thường trực”. Do
đó, luận điểm này đã bị lịch sử vượt qua.
(2) Về tính giai cấp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong nhiều tác
phẩm, V.I.Lênin cho rằng, dân chủ XHCN sẽ loại bỏ hồn tồn giai cấp thống
trị, bóc lột (tư sản) ra khỏi đời sống chính trị: “Dân chủ cho tuyệt đại đa số
nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là
tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng: đó là sự biến đổi của chế độ dân chủ trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản”; “Tính chất xã hội
chủ nghĩa của chế độ dân chủ xô-viết, - tức là chế độ dân chủ vô sản nếu áp
dụng nó một cách cụ thể, nhất định, - là ở chỗ: trước hết, các cử tri đều phải là

quần chúng lao động và bị bóc lột, cịn giai cấp tư sản thì bị loại ra...; hoặc:
“Vấn đề cuối cùng tơi cần phải bàn đến là vấn đề vai trị lãnh đạo của giai cấp
vô sản và vấn đề tước quyền bầu cử. Hiến pháp của chúng ta thừa nhận cho giai
cấp vơ sản có địa vị ưu đãi hơn giai cấp nông dân và tước bỏ quyền bầu cử của
bọn bóc lột”... Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, do trình độ phát triển lực lượng
sản xuất chưa cao, từ đó dẫn đến sự đa dạng trong chế độ sở hữu về tư liệu sản


xuất, tồn tại nhiều giai cấp khác nhau. Các giai cấp đều là bộ phận cấu thành
của một dân tộc, quốc gia và bình đẳng trước pháp luật. Điều này cho thấy, việc
“loại” bất cứ một giai cấp nào ra khỏi nền dân chủ đều là không phù hợp. Và
hiện nay, ở hầu hết các nước XHCN, khơng có quốc gia nào “loại” giai cấp tư
sản, giai cấp bóc lột của chế độ cũ ra khỏi thành phần cử tri.
(3) Về quyền bình đẳng của phụ nữ, căn cứ vào thực tế các nước tư sản lúc
đó, V.I.Lênin khái quát: “Trên lời nói, chế độ dân chủ tư sản hứa hẹn bình đẳng
và tự do. Trong thực tế, khơng một nước cộng hòa tư sản nào, dù là nước tiên
tiến nhất, đã để cho một nửa loài người là nữ giới được hồn tồn bình đẳng với
nam giới trước pháp luật, và giải phóng phụ nữ khỏi sự bảo trợ và sự áp bức
của nam giới”. Có thể thấy, luận điểm này đã bị lịch sử vượt qua, ở các quốc
gia tư bản hiện nay, quyền bình đẳng của phụ nữ trong chính trị đã được cơng
nhận (ở một số nước, phụ nữ có mặt này hay mặt kia bị phân biệt đối xử về
chính trị nhưng chủ yếu liên quan đến tôn giáo, hoặc yếu tố khác chứ không
phải chế độ chính trị).
Những nội dung vấn đề cần làm sáng tỏ hiện nay:
(1) Trong nền dân chủ XHCN, phương thức để người dân làm chủ bằng
cách nào, nó khác với phương thức làm chủ (của người dân) ở các nước tư bản
ra sao; các quyền tự do, dân chủ của công dân (ở các nước xã hội chủ nghĩa)
khác với quyền tự do, dân chủ (của nhân dân) trong các nước tư bản như thế
nào? Bởi xét đến cùng, trên phương diện chính trị, chế độ dân chủ được biểu
hiện trên hai phương diện chủ yếu đó. Trong khi những tính đặc thù có tính phổ

qt như: chế độ sở hữu, nền tảng chính trị - xã hội, cơ chế vận hành của nền
dân chủ XHCN chưa thể là cơ sở lý luận - thực tiễn trực tiếp để giải đáp mạch
lạc, thuyết phục những vấn đề nêu trên. Từ đó đặt ra yêu cầu, cần làm sáng tỏ
cơ chế vận hành, các kỹ thuật để nền dân chủ XHCN hoạt động theo quan điểm
của các nhà kinh điển.


(2) Về quan điểm phủ định biện chứng nền dân chủ tư sản, nhìn nhận một
cách khách quan, bên cạnh những hạn chế, dân chủ tư sản cũng có những mặt
tích cực nhất định, ví như: nhân dân trực tiếp thể hiện chính kiến của mình
trước các vấn đề lớn của đất nước thông qua trưng cầu dân ý; cơ chế cụ thể để
nhân dân bãi miễn đại biểu khi khơng cịn phù hợp, trực tiếp lựa chọn người
lãnh đạo thơng qua bầu cử, cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước... những hình
thức đó được thực tiễn kiểm nghiệm là có hiệu quả, vậy chúng ta có thể tiếp
thu, kế thừa gì từ những bài học kinh nghiệm đó.
(3) Về mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan và khách quan trong thực hiện
chế độ dân chủ XHCN. Các nhà kinh điển cho rằng, dân chủ có nghĩa là bình
đẳng, mà bình đẳng thực sự chỉ diễn ra khi khơng cịn sự phân chia giai cấp.
Nhưng giai cấp là sản phẩm và hệ quả của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, chế độ này lại gắn với trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Một mặt,
chúng ta khẳng định xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện quyền bình đẳng
giữa các cơng dân; mặt khác, cũng khẳng định quyền sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất sẽ còn tồn tại lâu dài, là tất yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Vậy,
phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa mong muốn xây dựng nền dân chủ
XHCN với tính tất yếu khách quan của chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất
trong thời kỳ quá độ lên CNXH như thế nào?
Lý luận là sự phản ánh thực tiễn vào đầu óc con người, giai đoạn đầu thế
kỷ XX, do các đặc điểm kinh tế, chính trị, nhất là bối cảnh cụ thể của cách
mạng Tháng Mười Nga lúc đó, các nhà kinh điển có thể đưa ra những sách lược
tạm thời, trước mắt để củng cố, bảo vệ chính quyền Xô viết. Nhưng khi thực tế

vận động xã hội thay đổi, lý luận là cái phản ánh nó cũng phải biến đổi theo cho
phù hợp với thực tiễn. Lý luận về phương thức, cơ chế vận hành của nền dân
chủ XHCN cũng khơng nằm ngồi quy luật đó.


KẾT LUẬN

Như vậy, bài tiểu luận đã là sáng tỏ hai nội dung đó là: “So sánh nhà nước
phong kiến phương Đông với nhà nươc phong kiến phương Tây” và “ Phân
tích những vấn đề nổi bật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa hiện nay”
Qua đây đã cung cấp thêm kiến thức và làm rõ hơn về hai vấn đề nếu trên
theo đúng định hướng và yêu cầu của mơn học hành chính so sánh. Từ đó giúp
chúng ta thêm hiểu biết và có cái nhìn tổng quan hơn về môn học quan trọng
này.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chính trị học so sánh
2. Trang điện tử Học Viện Báo chí Tuyên Truyền số ra 25/12/2019:
/>CateID=679&ItemID=11588
3. />%C3%A3_h%E1%BB%99i



×