Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Môn chính trị học so sánh so sánh chính trị khu vực đông bắc á và đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.97 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH TRỊ HỌC SO SÁNH


Câu 3: So sánh chính trị khu vực Đơng Bắc Á và Đông Nam Á
Trả lời:
Ngày nay khu vực Châu Á Thái Bình Dương đang là khu vực có tầm
ảnh hưởng quan trọng tới sự thịnh vượng và phát triển của thế giới. Trong đó
có 2 khu vực nhỏ Đơng Nam Á và Đông bắc Á cùng nằm trong Châu Á Thái
Bình Dương chính do vậy chính trị của 2 khu vực này có nhiều đặc điểm
chúng ta khơng thể không quan tâm.
Khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á có vị trí tiếp giáp nhau,
các nước tại hai khu vực này hầu hết giáp biển, có các quốc gia hải đảo. Hai
khu vực này có lịch sử liên quan đến nhau. Do vậy đặc điểm chính trị của 2
khu vực này có những nét tương đồng và có những khác biệt được thể hiện rõ
qua đặc điểm văn hóa chính trị thể chế chính trị và quan hệ chính trị.
1.

Đặc điểm văn hóa chính trị

1.1.

Giống nhau

Cả 2 khu vực này đều nằm trên khu vực thuận lợi và điều kiện tự nhiên,
do vậy các nước đều có truyền thống xây dựng 1 nhà nước trung ương tập
quyền với người đứng đầu đầy mạnh mẽ quyết đóan.
Cả hai khu vực đều có sự tiếp thu các giá trị văn hóa tích cực từ bên
ngồi đồng thời chú trọng vào việc phát huy các giá trị truyền thống của dân
tộc mình.
Cả 2 khu vực đều có sự thích nghi nhanh chóng với các giá trị dân chủ,


các mơ hình chính trị từ bên ngoài và sự vận dụng sáng tạo vào từng hồn
cảnh cụ thể.
Trong thời kỳ hiện đại chính trị cả 2 khu vực đều hướng mạnh tới cải
cách, dốc toàn lực phát triển kinh tế đồng thời giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Các nước trong 2 khu vực Đông nam á và Đông bắc á đều coi trọng
quan hệ cộng đồng, các giá trị tinh thần và đặc biệt coi trọng, giáo dục, tồn tại
nhiều tư tưởng.
1


1.2.

Khác nhau

Khu vực Đông Nam Á: các nước trong khu vực có nền văn hóa nơng
nghiệp lâu đời gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nược. Đây là
khu vực có sự tiếp thu nhiều học thuyết khác nhau từ nhiều nước và nhiều khu
vực. Tại khu vực chính trị và tơn giáo lồng ghép đan xen lẫn nhau, tác động
qua lại chặc chẽ với nhau.
Khu vực Đơng Bắc Á: đây là khu vực hình thành nhiều học thuyết
chính trị quan trọng như Nho gia, Măc gia, Tháp gia,.Trong khu vực nguyên
tắc thỏa hiệp chi phối mạnh mẽ đời sống chính trị. Văn hóa của khu vực này
có ảnh hưởng rộng tới nhiều khu vực xung quanh nó.
2.

Đặc điểm thể chế chính trị

2.1.

Giống nhau


Cả 2 khu vực này đều tồn tại nhiều loại hình thể chế khác nhau, điển
hình trên thế giới đó là các loại hình thể chế XHCN, Cộng hịa, qn chủ đai
nghị.
Các loại hình thể chế hiện đang tồn tại 2 khu vực đều do những dấu ấn
của lịch sử với sự ảnh hưởng của CNXH và TBCN tạo nên.
Quyền lực đều được tập trung vào Trung Ương, chính phủ can thiệp
hữu hiệu vào thị trường.
Các tổ chức chính trị tại cả 2 khu vực đều có vai trị mờ nhạt, chưa phát
huy được vai trị tích cực của mình trong các vấn đề xã hội.
2.2.

Khác nhau

Thể chế chính trị khu vực ĐBÁ khơng có sự phong phú đa dạng như
khu vực ĐNÁ ngồi các loại hình thể chế của ĐBÁ khu vực ĐNÁ cịn có thể
chế qn chủ nhị ngun cộng hịa tổng thống, cộng hịa đại nghị.
Khu vực ĐBÁ có Hàn Quốc, Đài loan tồn tại loại hình cộng hịa hỗn
hợp mà khu vực ĐNÁ khơng tồn tại loai hình này.
3. Đặc điểm quan hệ chính trị
3.1. Giống nhau
2


Trong quan hệ tại 2 khu vực này vẫn tồn tại nhiều bất đồng, tranh
chấp, những nhân tố gây mất ổn định chính trị như vẫn đề Triều Tiên, Biển
Đơng.
Các nước hiện nay đang tăng cường tiềm lực Quốc phòng chạy đua vũ
trang.
Hai khu vực này đều có sự tham gia ảnh hưởng của Mỹ vào nhiều vấn

đề, và đều có các nước là đồng minh của Mỹ.
Hai khu vực này đều là động lực phát triển có vai trị quan trọng và
ảnh hưởng ngày càng lớn hơn trên trường quốc tế nhờ những thành công về
kinh tế, ngoại giao.
3.2. Khác nhau
Khu vực Đơng Nam Á
Có được tổ chức liên kết và hợp tác của khu vực ASEAN để tạo ra 1
sức mạnh thống nhất cùng giúp các nước thực hiện các mục tiêu chung.
Khu vực có các vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai dân tộc,các
hoạt động khủng bố nguy cơ khủng bố ngày càng gia tăng gây những tác động
xấu tới phát triển của khu vực.
Các nước trong khu vực đều là các nước nhỏ chưa có ảnh hưởng nhiều
chỉ có ảnh hưởng trong khu vực Châu Á mà thơi. Trong khu vực có nhiều
hoạt động liên kết hợp tác với nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới về kinh
tế chính trị, văn hóa.
Khu vực Đông Bắc Á
Khu vực này do nhiều bất đồng trong cả lịch sử và hiện tại nên không
thể xây dựng cho mình một tổ chức chung thống nhất.
Khu vực đều có mối quan tâm về vấn đề hạt nhân của Cộng Hòa Dân
Chủ Triều Tiên.
Mẫu thuẫn giữa các nước trong khu vực với nhau và các nước bên
ngoài ngày càng tăng.

3


Đây là khu vực có tầm ảnh hưởng trên tồn cầu với nhiều nước phát
triển kinh tế.
Từ những so sánh trên chúng ta có thể thấy được những điểm tương
đồng và khác biệt giữa 2 khu vực về chính thị. Từ đó giúp các nước có những

thuận lợi nhất định trong quan hệ gữa các nước với nhau.

4


Câu 10: Phân tích những vấn đề nổi bật của chế độ chính trị xã hội chủ
nghĩa hiện nay
Trả lời:
Hiện nay những vấn đề nổi bật của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa
trong thời đại ngày nay bao gồm những nội dung sau đây:
Thứ nhất, Không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân làm chủ và do vậy, nhà
nước của chế độ này có nhiệm vụ tạo điều kiện để cho nhân dân tham gia một
cách tích cực và rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong mọi
hoạt động, nhà nước xã hội chủ nghĩa ln có mối liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời đấu tranh không khoan
nhượng, trừng trị kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của
nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và
chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm sốt, ngăn ngừa và trừng
trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền
dân chủ của nhân dân”.
Dân chủ là bản chất của Nhà nước ta, thực hiện dân chủ là thực chất, là
mục tiêu, động lực của việc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị nói riêng,
của cơng cuộc đổi mới nói chung. Đây là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa
cấp bách của thực tế xây dựng Nhà nước ta hiện nay. Bởi lẽ, chỉ có như vậy
chúng ta mới có thể giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta
nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối đạo đức, tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà nước. Đây là vấn đề có ý

nghĩa sống cịn đối với chế độ ta. Chính quyền có trong sạch, được dân tin
u, ủng hộ thì mới vững mạnh và có hiệu lực. Chỉ có dựa vào sức mạnh của
5


nhân dân thì mới xây dựng được chính quyền trong sạch, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, an ninh, quốc phòng để từ đó, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định: “Mở rộng dân chủ
phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với nghĩa vụ và
trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ được thể chế hố thành pháp luật; khắc phục
tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối”.
Nhiệm vụ này cũng đã được chúng ta thể chế hố cụ thể trong Hiến
pháp: “Cơng dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham
gia công việc của nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của cơng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự,
an tồn xã hội, tổ chức đời sống cơng cộng”. Chính điều đó đã phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho người dân vừa thực hiện quyền
làm chủ gián tiếp thông qua nhà nước, vừa làm chủ trực tiếp ở cơ sở.   
Ở nước ta hiện nay, các cơ quan quyền lực nhà nước đều do dân bầu ra,
chính quyền nhà nước đã trở thành cơng cụ sắc bén và có hiệu quả nhất để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, đó là dân chủ đại diện (dân chủ gián
tiếp). Quyền làm chủ của nhân dân cịn được thực hiện một cách trực tiếp
thơng qua việc tham gia vào công việc tổ chức nhà nước, tham gia bộ máy
nhà nước, quyết định các chủ trương, chính sách của Nhà nước ở các cấp...
Tuy nhiên, mức độ thực hiện dân chủ trực tiếp còn phụ thuộc vào phẩm chất,
trình độ, năng lực của chính quyền nhà nước; vào trình độ dân trí, trước hết là
trình độ văn hố chính trị, văn hố pháp luật; vào đặc điểm lịch sử và truyền
thống chính trị của dân tộc... Như vậy, thực hiện dân chủ phải là một quá trình
lâu dài, từ thấp đến cao. Không thể và không bao giờ có “dân chủ tuyệt đối”
hay “dân chủ nói chung”, đặc biệt là khơng thể có ngay và trên mọi mặt dân

chủ trực tiếp trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát
thấp, nhất là về kinh tế. Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ quan
6


trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, đồng thời
thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng, có hiệu
quả. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua đại biểu của mình (dân
chủ gián tiếp), đồng thời phát huy cao độ quyền dân chủ trực tiếp của nhân
dân thông qua các tổ chức quần chúng, xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở. Cụ thể
là:
Tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử; nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) để
các cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân, là cơ quan quyền
lực nhà nước trong việc xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước và của từng địa phương. Từ khi tiến hành cơng cuộc đổi mới và thực
hiện dân chủ hố, các cơ quan Quốc hội, Hội đồng nhân dân đã có những
chuyển biến tích cực, gần gũi hơn với cử tri, tại các kỳ họp của các cơ quan
này, nhiều vấn đề đã được đưa ra thảo luận một cách thẳng thắn, công khai,
nhiều ý kiến của cử tri được tiếp thu và thảo luận nghiêm túc, công tác kiểm
tra, giám sát đối với các quyết định của các cơ quan đó cũng được đẩy mạnh...
Tất cả những điều này đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân.
Đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực
liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân.
Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở
cấp cơ sở.
Thứ hai, Tổ chức và quản lý kinh tế
Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ một nền kinh tế chậm phát

triển, còn phổ biến là sản xuất nhỏ, nên nhiệm vụ tổ chức, quản lý kinh tế của
nhà nước là hết sức khó khăn, phức tạp, chính vì thế mà nhiệm vụ phát triển
7


kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt và là một nhiệm vụ khá mới mẻ. Trong
điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, trình độ của lực lượng sản xuất cịn
thấp, song song với đó lại phải vừa thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh,
quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, vừa phải bảo đảm ổn định và cải thiện
không ngừng đời sống nhân dân về mọi mặt, nhiệm vụ tổ chức, xây dựng của
Nhà nước ta càng trở nên nặng nề.
Trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, thứ VIII,
thứ IX và mới đây, lần thứ X, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá những tư
tưởng, quan điểm lớn về phát triển kinh tế đất nước: phát triển lực lượng sản
xuất, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố; thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền
kinh tế thị trường  định hướng xã hội chủ nghĩa với “những hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân”; thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; phát huy mạnh mẽ vai
trị của khoa học và cơng nghệ; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư,
kinh tế đối ngoại.
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong
thời kỳ mới, đường lối kinh tế thể hiện rõ nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta xác định là: đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực,

đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài; chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.
Ba là, Tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục
8


 

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là “xã hội dân

giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất
cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển tồn diện”. Để có thể
xây dựng thành cơng một xã hội như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đương
nhiên phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục, văn hố, phát triển khoa học
và cơng nghệ - đó được coi là “quốc sách hàng đầu” để phát huy nhân tố con
người. Thực hiện nhiệm vụ này, cần phải xây dựng và phát triển nền văn hoá
mới, con người mới, nền khoa học và cơng nghệ hiện đại - đó cũng chính là
những động lực quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ này được biểu hiện cụ thể ở một số nội
dung sau:
Thứ nhất, xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn
và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; thực hiện lối sống cần kiệm, văn minh, bài trừ mê tín dị
đoan và các tệ nạn xã hội khác, chống lại mọi biểu hiện của các loại văn hố
ngoại lai khơng lành mạnh.
Thứ hai, phát triển khoa học và công nghệ với bước đi và hình thức
thích hợp, bảo đảm cơ sở khoa học cho các quyết định quan trọng của các cơ

quan lãnh đạo, quản lý, coi đó là cơng cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã hội.
Thứ ba, đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ cán bộ, trí thức và
những người lao động có tri thức, có tay nghề, có đạo đức cách mạng và tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Đồng thời với đó là việc giáo dục thế
giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho tồn thể nhân dân; đấu
9


tranh không khoan nhượng với những tư tưởng, quan điểm xét lại, cơ hội,
những luận điệu xuyên tạc, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nhân dân ta.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã xác định phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo,
xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những
lĩnh vực chủ yếu. Theo đó, việc tổ chức, quản lý văn hố, khoa học và giáo
dục của Nhà nước ta vừa là để thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội
trước mắt, vừa là để chuẩn bị cho đất nước bước vào giai đoạn phát triển tiếp
theo, hoà nhập (trên cơ sở giữ vững bản sắc riêng và tinh hoa văn hoá của dân
tộc) với tiến trình phát triển chung của nền văn hoá, khoa học và giáo dục thế
giới. Quan điểm cơ bản của Đảng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội;
giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu đã
thể hiện rõ ràng nhiệm vụ này của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng hệ thống
các cơ quan tổ chức, quản lý văn hoá, văn học, nghệ thuật, khoa học, giáo
dục, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có
phẩm chất chính trị, thành thạo chun mơn, nghiệp vụ, đồng thời xây dựng
hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật tương xứng với yêu cầu và đáp ứng tốt yêu

cầu thực tế của các lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, xét một cách tổng thể, nhiệm vụ sáng tạo và xây dựng xã hội
mới là nhiệm vụ quan trọng nhất trong chức năng xã hội của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận duy vật biện chứng, xét
đến cùng, có thể nói, nhiệm vụ cơ bản và quyết định của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế, bởi một xã hội chỉ có thể ổn
định, vận động và phát triển được khi có một cơ sở kinh tế - xã hội phù hợp.
Yếu tố kinh tế, nhất là lực lượng sản xuất, xét đến cùng, là yếu tố quyết định
10


sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, xem xét vấn đề này ở
góc độ kiến trúc thượng tầng của xã hội - xây dựng nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, thì nhiệm vụ bảo vệ các quyền tự do và không
ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân là nhiệm vụ quan trọng nhất, bởi việc
thực hiện nhiệm vụ này là sự thể hiện trực tiếp nhất bản chất của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
Thứ tư, Đổi mới chính trị nhưng khơng làm thay đổi chế độ chính trị
Đổi mới tư duy chính trị với những nội dung cơ bản nêu trên được
chuyển thành những thay đổi về mặt thể chế. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã được sửa đổi theo sự đổi mới của tư
duy chính trị. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Hiến pháp năm 2013
và hàng chục đạo luật khác đã thể chế hóa về mặt pháp lý tư duy chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo thành khuôn khổ thể chế cho đổi mới tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị. Có thể thấy sự đổi mới của thể chế chính
trị như sau:
Mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân: Điều 2 Hiến pháp năm 2013
ghi: “1-  Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2-  Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực

nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. 
Hiến pháp khẳng định, nhân dân thực hiện quyền dân chủ không chỉ
thông qua Nhà nước, qua tổ chức đại diện khác, mà cịn bằng hình thức trực
tiếp. Luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân từ năm 1992 đến
nay đều cho phép cơng dân có quyền tự ứng cử. Những văn bản quy định về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về thủ tục hành chính, về bầu cử
đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, về chế độ trách nhiệm của

11


người được bầu; những văn bản pháp luật bảo đảm quyền làm chủ của công
dân, như: Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo (nay là Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo);
Pháp lệnh Thanh tra (nay được nâng thành Luật Thanh tra), Luật Báo chí (sửa
đổi), Luật Xuất bản (sửa đổi), Pháp lệnh về phòng, chống tham nhũng (nay là
Luật Phòng, chống tham nhũng), đặc biệt là Quy chế Dân chủ ở cơ sở (sau
nâng thành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn)..., tất cả đã
minh chứng sự thay đổi mạnh mẽ trong thể chế chính trị Việt Nam theo
hướng ngày càng dân chủ hơn.
Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam: Qua sự sàng lọc của lịch sử, Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam.
Với địa vị đó, đã có lúc Đảng bao biện, làm thay Nhà nước (như tự phê bình
của Đảng). Từ năm 1991, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội” đã khẳng định, Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Điều này được khẳng định lại tại
Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Cùng với phát triển tư duy về nhà nước pháp
quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam ln tìm tịi để giải quyết tốt nhất mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước. Thực tiễn cho thấy, trong sự phát triển của đất

nước khơng thể khơng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng
đồng thời không thể khơng có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng phải lãnh đạo xây
dựng nhà nước pháp quyền, đồng thời tuân thủ quyền hạn của Nhà nước pháp
quyền. Nghị quyết của Đảng không thay cho pháp luật; quyết định của Đảng
không thay cho quyết định của cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước. Đảng
viên của Đảng phải thông qua bầu cử trực tiếp của cử tri hoặc bầu cử gián tiếp
của đại biểu nhân dân mới trở thành người nắm giữ các chức vụ nhà nước và
có quyền lực nhà nước.
Về mặt tổ chức, trong các cơ quan nhà nước đều có cấp ủy đảng là hạt
nhân lãnh đạo, như đảng đồn, ban cán sự đảng, đảng ủy..., nhưng khơng vì
12


thế mà các đảng viên giữ cương vị đứng đầu các cơ quan nhà nước khi vi
phạm pháp luật có thể tránh khỏi bị xử lý nghiêm khắc cả về mặt đảng và
chính quyền.
Mối quan hệ giữa nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội với Đảng: “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm
2013 đều khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động, là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng chịu sự giám sát của
nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi quyết định của mình.
Đây là những khẳng định rất mới, thể hiện mối quan hệ hai chiều giữa người
lãnh đạo và người chịu sự lãnh đạo; giữa đại biểu cho một bộ phận và đại biểu
cho toàn thể dân tộc.
Mối quan hệ giữa Đảng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội cũng thể hiện rõ hơn tinh thần dân chủ. Điều đó được thể
hiện trong các quy định của pháp luật, của Điều lệ Đảng, cũng như trong các
quy định của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo đó,

Đảng dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời
chịu sự giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức này. 
Với sự đổi mới tư duy chính trị và đổi mới thể chế chính trị, thực tiễn
đời sống chính trị của đất nước trong hơn 3 thập niên qua đã khởi sắc theo
hướng ngày càng dân chủ hơn, đúng như Đảng ta đã xác định từ Đại hội VII
(năm 1991): Thực chất của đổi mới hệ thống chính trị chính là vấn đề dân chủ
hóa.
Trong các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp,
có nhiều cơng dân ngồi Đảng tự ứng cử và khơng ít người đã trúng cử. Đã có
nhiều hơn đại biểu cho khối doanh nhân tham gia cơ quan quyền lực nhà

13


nước. Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp ngày càng thể hiện rõ hơn
quyền lực của cơ quan đại biểu của nhân dân trong lập pháp, giám sát và
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương. Bộ máy hành
chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương đang đổi mới theo hướng công
khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Chính phủ đang phấn đấu không chỉ là
người phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp, mà còn là người kiến tạo
phát triển. Bộ máy tư pháp đã có những cải cách quan trọng, thể hiện rõ hơn
vai trị bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, có trách
nhiệm với sinh mệnh của người bị xử oan, sai.
Để ngày càng xứng đáng là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã và đang, một mặt, tăng cường xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; mặt khác, quyết liệt đấu tranh với
tham nhũng, lãng phí. Chưa khi nào công tác kiểm tra, kỷ luật đảng được tiến
hành mạnh mẽ như hiện nay. Chỉ trong nhiệm kỳ Đại hội XII, đến nay đã có
gần 70 cán bộ cao cấp thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và hàng
nghìn người khác bị kỷ luật với những hình thức khác nhau. Hầu như tất cả số

đó đều liên quan tới tham nhũng. Đáng chú ý là, cuộc đấu tranh chống tham
nhũng đã được đông đảo nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng ủng
hộ, hưởng ứng, và điều đó càng làm tăng thêm uy tín của Đảng.
Hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội đối với Đảng, Nhà nước trong những năm qua đã mạnh
mẽ hơn. Vai trị của báo chí ngày càng trở nên quan trọng trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng. Hiện nay, trên khắp đất nước, bên cạnh các
tổ chức chính trị, chính trị - xã hội chính thống, đã có hàng trăm tổ chức tự
nguyện của các tầng lớp, giai cấp có phạm vi hoạt động trong cả nước; hàng
nghìn tổ chức hoạt động trong phạm vi địa phương được thành lập và có đóng
góp đáng kể vào phát triển kinh tế, xã hội của các vùng, miền.

14


Dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế ngày càng rõ nét với sự lớn mạnh
không ngừng của thành phần kinh tế tư nhân và mơi trường kinh doanh bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Kinh tế tư nhân
đã thực sự trở thành một trong những động lực quan trọng của phát triển đất
nước và tiếp tục được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.
Tất cả những đổi thay đó là điều khơng thể phủ nhận, ngay cả đối với
một số người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đã nhiều năm chống đối
Đảng, Nhà nước ta. Ghi nhận sự đổi mới chính trị cả trong tư duy chính trị lẫn
thể chế chính trị và đời sống chính trị thực tế, nhiều tổ chức quốc tế, nhiều
quốc gia đã thiết lập và phát triển quan hệ chính trị tốt đẹp với Việt Nam.
Điều này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khái quát tại Đại hội XII: Dân
chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết tồn
dân tộc được củng cố và tăng cường. Cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh.
Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu

tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã
hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị
thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Đổi mới chính trị ở Việt Nam đã và sẽ khơng làm thay đổi chế độ chính
trị, mà làm cho chế độ chính trị ngày càng thể hiện rõ hơn sự tiến bộ và phù
hợp với điều kiện, đặc điểm của đất nước Việt Nam.

15



×