Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học mon lanh dao va quan ly bao chi truyen thong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.75 KB, 31 trang )

BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ BÁO CHÍ - TRUYỀN THÔNG

Đề bài
BÀI TẬP 1: Những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay đang tác
động, ảnh hưởng đến hoạt động báo chí, truyền thơng và hoạt động lãnh đạo,
quản lý nhà nước về báo chí, truyền thơng như thế nào?.
BÀI TẬP 2: Nếu anh/chị là Tổng biên tập trong cơ quan báo chí,
anh/chị có kỹ năng quản trị như thế nào để tòa soạn hoạt động hiệu quả trong
bối cảnh báo chí và truyền thơng hiện nay?


BÀI LÀM
BÀI TẬP 1:
1.

Những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay

1.1- Những thành tựu cơ bản
Lịch sử báo chí truyền thơng Việt Nam tính từ năm 1865 khi tờ “Gia
Định báo” ra đời đến nay đã được 155 năm. So với lịch sử báo chí thế giới
tương đối muộn nhưng với điều kiện Việt Nam chừng ấy năm cũng là một
dấu mốc lớn.
Trong dịng chảy chung ấy có nhiều khuynh hướng báo chí khác nhau:
Báo chí của thực dân đế quốc xâm lược; báo chí của những người Việt Nam
yêu nước, báo chí cách mạng, đặc biệt từ khi Báo Thanh niên ra đời
(21/6/1925) tại Quảng Châu - Trung Quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập.
Báo chí cách mạng Việt Nam là một bộ phận khơng thể tách rời của
cách mạng và dân tộc, và đồng hành, phục vụ cách mạng và dân tộc để giành
chính quyền năm 1945, giải phóng Miền Bắc năm l945, giải phóng Miền
Nam, thống nhất đất nước năm 1975, tiến hành sự nghiệp Đổi mới đất nước


năm 1986 và hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế hiện nay.
Trong tiến trình phát triển do điều kiện khách quan và chủ quan nên
báo chí truyền thơng cũng có sự phát triển ở các mức độ khác nhau. Tuy
nhiên từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới (năm 1986) tới nay, báo
chí truyền thơng Việt Nam có bước phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng và tồn
diện nhất, đó là:
Quy mơ, số lượng, chất 1ượng loại hình báo chí phát triển nhanh
Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến ngày 30/11/2019
cả nước có 850 cơ quan báo chí, trong đó có 179 cơ quan báo, 648 tạp chí, 23
cơ quan báo chí điện tử độc lập; có 72 cơ quan có giấy phép hoạt động phát
thanh-truyền hình với 2 đài Quốc gia, 64 đài địa phương, 5 kênh truyền hình.
1


Số trang thông tin điện tử tổng hợp Bộ đã cấp phép đến hết tháng
6/2018 là 1.510. Số mạng xã hội trong nước được cấp phép là 228.
Đối với các chỉ tiêu về kết quả sản xuất kinh doanh, trong lĩnh vực viễn
thơng, internet, đến năm 2018 có 75 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn
thông và 71 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ internet đang hoạt động. Số thuê
bao di động phát sinh lưu lượng tính đến thời điểm đó là gần 124 triệu thuê
bao, trong đó thuê bao 3G, 4G tăng hơn 29%.
Việt Nam hiện có trên 60 triệu người sử dụng Internet, chiếm hơn 60%
dân số, đứng thứ 16 trên thế giới về số lượng người sử dụng internet. Ngồi ra
có khoảng 55 triệu người sử dụng các nền tảng mạng xã hội, nằm trong nhóm
nước có lượng người dùng lớn nhất thế giới.
Báo chí và truyền thơng Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, sôi
động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin, giải trí và nhiều hiểu biết khác của
người dân trong nước và cộng đồng quốc tế. Bức tranh hiện thực khách quan,
chân thật của đất nước và thế giới được phản ánh khá đầy đủ và tồn diện,
nhanh chóng trên báo chí truyền thơng Việt Nam. Nhờ vậy, mà người dân

Việt Nam có hiểu biết nhiều hơn về tình hình thế giới để tiếp tục giao lưu, hội
nhập; bạn bè quốc tế cũng hiểu nhiều và đúng hơn đất nước và con người Việt
Nam để thúc đấy hợp tác, đầu tư, đơi bên cùng có lợi.
Đội ngũ người làm báo chí truyền thông ngày càng đông đảo và lớn
mạnh
Cả nước hiện có trên 41.000 người đang cơng tác tại các cơ quan báo
chí (cả 4 loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử), trong đó có 20.407
người đã được cấp thẻ nhà báo. Đội ngũ này ngày càng trẻ hóa, được đào tạo
bài bản, hệ thống, có chất lượng và trình độ.
Đa số nhà báo được cấp thẻ có trình độ đại học trở lên, số nhà báo có 1
- 2 bằng đại học, sử dụng 1-2 ngoại ngữ ngày càng tăng. Đội ngũ người làm
báo giữ vai trị quyết định về nội dung, hình thức và chất lượng báo chí, vì
vậy càng được quan tâm thường xun.
2


Cơng chúng tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động báo chí
truyền thơng
Với trên 95 triệu dân, Việt Nam là một trong những thị trường cơng
chúng báo chí lớn, hấp dẫn và nhiều tiềm năng. Đây là điều kiện tốt cho báo
chí truyền thơng phát triển, đồng thời cũng khó khăn, phức tạp và thách thức
lớn đối với báo chí truyền thơng.
Cơng chúng hiện nay có trình độ, bản lĩnh, chính kiến, địi hỏi cao về
chất lượng thơng tin từ báo in, phát thanh, truyền hình, hãng tin tức, báo mạng
điện tử, báo ảnh...
Đồng thời họ cịn tích cực tham gia trao đổi, thảo luận, phản biện
những vấn đề của đất nước và báo chí tạo khơng khí dân chủ cơng khai, minh
bạch trong thơng tin hai chiều góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Báo chí truyền thơng Việt Nam tham gia tích cực, chủ động các
hoạt động báo chí khu vực và thế giới

Báo chí truyền thơng Việt Nam là một bộ phận của báo chí khu vực và
thế giới. Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá đa
phương hoá của Đảng và Nhà nước Việt Nam, báo chí truyền thơng Việt Nam
cũng tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động của báo chí khu vực và
thế giới góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển chung cua báo chí
truyền thơng hiện đại.
Hội Nhà báo Việt Nam là thành viên của Tổ chức quốc tế các nhà báo
(OIJ); Liên đồn báo chí ASEAN (CAJ). Hội và các cơ quan báo chí thường
xuyên đẩy mạnh giao lưu, hợp tác với các tố chức, cơ quan báo chí của Trung
Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào, Pháp, Thụy Điển, Hàn Quốc... Đài Truyền
hình Việt Nam (VTV), Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) mở rộng phạm vi phủ
sóng ra nhiều khu vực trên thế giới nhất, là khu vực Bắc Mỹ, Châu Á, Châu
Âu, Châu Phi. Thông tấn xã Việt Nam cử trên 70 phóng viên thường trú ở gần
30 nước trên thế giới. Các báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Thanh niên,
VTV, VOV cũng cử phóng viên thường trú ở các nước.
3


Báo chí truyền thơng Việt Nam cũng hợp tác chặt chẽ, hiệu quả với các
phóng viên, văn phịng đại diện, phân xã của hàng chục hãng thơng tấn, báo
chí quốc tế thường trú tại Việt Nam như AP, AFP, Reuters, Kyodo, Tân Hoa
xã, Itar-TASS, NHK, BBC… Sự hợp tác này đã mang lại nhiều hiệu quả và
tác động tích cực trong việc đưa thông tin trong nước ra thế giới và thu nhận
thông tin quốc tế cho người dân trong nước, tạo sự hiểu biết, hữu nghị và hợp
tác lẫn nhau.
Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí truyền thông được đẩy
mạnh.
Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực báo chí truyền thơng là
việc làm quan trọng. Mặc dù ngành báo chí, truyền thơng sử dụng nhân lực từ
nhiều nguồn khác nhau (văn học, lịch sử, ngôn ngữ, triết học, xã hội học, vật

lý, kinh tế, luật...) nhưng để làm báo chuyên nghiệp thì phải đào tạo bồi
dưỡng bài bản và hệ thống. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều cơ sở đào tạo là:
Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; Đại học Khoa học Huế; Học viện Quan hệ
quốc tế đào tạo cán bộ báo chí truyền thơng trình độ cử nhân, thạc sĩ và tiến
sĩ. Các trường Cao đẳng Phát thanh-Truyền hình Trung ương 1 (Phủ Lý - Hà
Nam) và Trung ương 2 (TPHCM), Cao đẳng Truyền hình Trung ương
(Thường Tín - Hà Nội) đào tạo cán bộ phóng viên, biên tập viên trình độ cao
đẳng.
Bên cạnh đó, các Trung tâm bồi dưỡng của Hội Nhà báo Việt Nam,
Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thơng cũng tổ chức các lớp,
khố bồi dưỡng ngắn hạn cho các nhà báo (thường có sự tài trợ hoặc hợp tác
với nước ngoài).
Các cơ sở đào tạo hàng năm thu nhận khoảng 1.000 sinh viên và học
viên cho hệ đại học và sau đại học và cũng cho tốt nghiệp ra trường số lượng
tương ứng như vậy. Đội ngũ này được bổ sung thường xuyên cho các cơ quan

4


báo chí góp phần khơng nhỏ vào sự nghiệp phát triển thơng tin báo chí và
nâng cao tính chun nghiệp cho nhà báo Việt Nam.
Cơ sở vật chất và tài chính được nâng lên rõ rệt
Kinh tế - xã hội của đất nước phát triển, quá trình hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, các cơ quan báo chí cũng có điều kiện tăng nguồn thu từ
các hoạt động quảng cáo, phát hành, dịch vụ... Nhiều cơ quan báo chí có
nguồn thu hàng chục, hàng trăm tỷ đồng mỗi năm như: Đài Truyền hình Việt
Nam từng cơng bố số liệu là 900 tỷ đồng, Đài Truyền hình TPHCM là 600 tỷ
đồng, Đài Tiếng nói Việt Nam là 122 tỷ đồng, Đài Tiếng nói Nhân dân
TPHCM hơn 30 tỷ đồng, Báo Tuổi trẻ TPHCM hơn 450 tỷ đồng, Báo Thanh

niên là 246 tỷ đồng, Báo Tiền Phong 50 tỷ đồng, Báo Cơng an TPHCM 128
tỷ đồng, Báo Sài Gịn Giải phóng 121 tỷ đồng...
Nhờ đó, các cơ quan báo chí có điều kiện nâng cấp máy móc thiết bị,
đổi mới cơng nghệ làm báo, đầu tư nhiều hơn cho hoạt động nghiệp vụ, cải
thiện và nâng cao đời sống cán bộ, phóng viên, nhân viên, mở rộng các hoạt
động nhân đạo, từ thiện.
Đặc biệt với việc Việt Nam phóng thành cơng vệ tinh Vinasat-l vào
tháng 4/2008 và sử dụng từ tháng 6/2008 đã góp phần hồn chỉnh cơ sở hạ
tầng kỹ thuật hiện đại với cả 3 phương tiện là: Vệ tinh (Vinasat- l); Internet và
Cáp quang (cable). Nhờ các phương tiện tiên tiến này mà việc thu - phát
thông tin của báo chí truyền thơng Việt Nam nhanh chóng, chất lượng và hiệu
qua hơn rất nhiều so với trước đây.
1.2- Hạn chế, khuyết điểm chính
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, báo chí truyền thơng là cơ quan
ngơn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, đồng thời là diễn
đàn của nhân dân.
Báo chí truyền thơng hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước và trong khn khổ pháp luật. Báo chí hoạt động theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đó là những nét đặc trưng của Báo chí truyền thơng Việt
5


Nam. Tuy vậy, thời gian qua, bên cạnh những thành tích, ưu điểm đã đạt được
như nêu trên, báo chí truyền thông Việt Nam cũng bộc lộ những yếu kém.
khuyết điểm đáng lo ngại. Đó là:
Một số nhà báo kể cả một số lãnh đạo cơ quan báo chí truyền thơng
chưa qn triệt đầy đủ sâu sắc đường lối, chính sách và pháp luật Việt
Nam về báo chí, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của người làm
báo
Đã xuất hiện trên báo chí những tác phẩm vơ tình hay cố ý đi chệch

định hướng, hoài nghi hoặc phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, địi xem xét lại
hoặc xoá bỏ điều 4 của Hiến pháp (tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam); tán thành, cổ vũ quan điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập; đòi lật lại một số vấn đề lịch sử đã được kết luận, xuyên tạc lịch sử, kiến
nghị “khôi phục quy chế độc lập cho báo chí”.
Tình trạng thơng tin không trung thực, áp đặt vô lối, suy diễn chủ
quan, viết ẩu, viết sai, bịa đặt có xu hướng gia tăng
Việc cải chính thơng tin sai trên báo chỉ chưa nghiêm túc và đúng luật
báo chí. Số nhà báo, người làm cơng tác trong lĩnh vực báo chí truyền thông
yếu kém đạo đức, vi phạm pháp luật, lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi có xu
hướng tăng đáng lo ngại. Nhiều nhà báo bất chấp các quy định hành nghề,
tống tiền doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đã bị cơ quan công an bắt giam, truy
tố trước pháp luật.
Một số cơ quan báo chí và nhà báo chưa bám sát nhiệm vụ của đất
nước của ngành - địa phương, đoàn thể
Chưa quan tâm đúng mức việc nêu gương, biểu dương cổ vũ nhân tố
mới, điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt để tạo khơng khí, niềm tin cho xã
hội. Sa đà ưa thích đăng tải những tin, bài, ảnh về các vụ án, mặt tiêu cực, mặt
trái và non yếu của xã hội, tiết lộ bí mật Nhà nước, xâm phạm đời tư, thiếu
nhạy cảm khi thông tin các vấn đề dân chú nhân quyền tự do - tơn giáo, dân
tộc... làm “nóng” các vấn đề kinh tế - xã hội một cách thiếu ý thức và trách
6


nhiệm. Khi thể hiện không chú ý cân nhắc liều lượng mức độ, thời điềm tiêu
đề, mặt lợi hại của thơng tin chỉ vì mục đích câu khách, giật gân để bán được
nhiều báo.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về báo chí truyền
thơng chưa theo kịp thực tiễn sơi động, nhanh chóng và phức tạp của báo
chí truyền thơng hiện nay.

Lĩnh vực đào tạo bồi dưỡng nhân lực báo chí truyền thơng chưa đáp
ứng nhu cầu xã hội, chất lượng chưa cao, luật báo chí và hành lang pháp lý
nói chung chậm đổi mới, bổ sung; cơ chế chính sách cịn lạc hậu, xa rời thực
tiễn.
Như vậy, những hạn chế, khuyết điểm nói trên là khơng thể coi thường.
Nếu không ngăn chặn, điều chỉnh kịp thời sẽ bất lợi cho xã hội, cho đất nước
và chính báo chí truyền thơng Việt Nam.
1.3 - Cơ hội và thách thức của báo chí, truyền thơng Việt Nam
trong tiến trình hội nhập
Cơ hội và vận hội cho báo chí truyền thông Việc Nam khi trên thế
giới đang diễn ra q trình tồn cầu hố.
Nền kinh tế trí thức, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin,
mạng lnternet phát triển mạnh mẽ đang làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt thể
giới hiện đại, mà theo cách nói của Thomas L. Friedman là “Thế giới phẳng”.
Trong bối cảnh đó, các trào lưu, khuynh hướng tư tưởng và báo chí truyền
thơng mới mẽ của thế giới tác động và ảnh hưởng nhanh chóng, mạnh mẽ vào
từng nước; tác động trực tiếp vào tư tường tình cảm tâm lý, lối sống và đạo
đức của con người.
Trong đời sống quốc tế xuất hiện những vấn đề mới về lý luận và thực
tiễn về con đường phát triển khác nhau của các nước. Các ý kiến, quan điểm,
chính kiến, tư tưởng cọ xát diễn ra hàng ngày. Đây là những điều kiện để báo
chí truyền thơng mỗi nước, trong đó có Việt Nam, phát triển, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu thông tin đa dạng, phong phú, kịp thời, chính xác của cơng chúng.
7


Qua giao lưu quốc tế, báo chí truyền thơng ngày càng hồn thiện, đóng góp
nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước và sự nghiệp hồ bình, hợp tác và
phát triển của thế giới.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh

được xác định rõ và đang nỗ lực thực thi. Kinh tế - xã hội tuy có lúc khó khăn
nhưng tổng thể phát triển khá, đời sống người dân được cải thiện. Theo đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hố, tháng 11/2007, Việt
Nam chính thức gia nhập WTO, đánh dấu bước hội nhập sâu, rộng và đầy đủ
của Việt Nam vào đời sống quốc tế, mở ra cơ hội và cả thách thức mới cho
đất nước.
Trên cơ sở đó, báo chí truyền thơng Việt Nam cũng tự đổi mới và phát
triển, mở rộng quan hệ quốc tế, bước đầu thu nhiều thành tựu đáng kể. Tham
gia vào đời sống quốc tế, các nhà báo Việt Nam có môi trường rộng hơn,
thuận lợi hơn trong việc khơi dậy những tiềm năng và sáng tạo to lớn. Có điều
kiện và thời cơ để khai thác, xứ lý và cung cấp thơng tin nhanh chóng, kịp
thời, đa dạng cho cơng chúng. Học hỏi, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp và
tư duy, phương pháp làm báo hiện đại. Sử dụng được các phương tiện kỹ
thuật tiên tiến cho tác nghiệp. Công chúng Việt Nam có thêm sự lựa chọn
thơng tin trong và ngồi nước cho nhu cầu của mình. Báo chí truyền thơng
Việt Nam cũng có cơ hội mở rộng giao lưu quốc tế, vừa tự mình phát triển
vừa đóng góp chung cho sự nghiệp báo chí thế giới.
Khó khăn và thách thức Việt Nam mới bước vào hội nhập
Nền kinh tế thị trường đang dẫn đến phân hoá xã hội về thu nhập lợi
ích và phân tầng xã hội thành các nhóm khác nhau. Việc giải quyết hài hồ
giữa lợi ích đất nước và quốc tế, bảo vệ tư tưởng và giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc với các tư tưởng khuynh hướng mới của thế giới là không đơn giản.
Hội nhập quốc tế, báo chí truyền thơng Việt Nam phải chịu sức ép cạnh
tranh gay gắt hơn giữa báo chí trong nước và báo chí nước ngồi, mà đa phần
là vượt trội về công nghệ, kỹ thuật, tài chính, tính chuyên nghiệp... cạnh tranh
8


về sản phẩm báo chí, cơ quan quản lý và cấp độ báo chí Trung ương - địa
phương trong nước, có thể dẫn tới sự phân hố - tạo ra sự khơng đồng đều,

thậm chí một bộ phận cơ quan báo chí bị phá sản, phóng viên thất nghiệp.
Báo chí truyền thơng nước ngồi (chủ yếu là các nước G.8) với những
ưu thế nhiều mặt sẽ tác động mạnh hơn, nhanh hơn đến nhu cầu báo chí trong
nước, có thể gây ra rối loạn, chèn ép và áp đặt thông tin, ảnh hưởng tiêu cực
đến sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước và báo chí truyền thơng
Việt Nam. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên cịn khơng ít người yếu và thiếu
tính chun nghiệp, trình độ tin học ngoại ngữ, hiểu biết thông lệ và luật pháp
quốc tế cịn yếu; kỹ thuật thu - phát thơng tin chưa tốt; lực lượng phóng viên,
biên tập viên tuy được đào tạo nhưng giao lưu quốc tệ rất hạn chế.
Những yếu kém đó gây khó khăn, bất cập cho q trình hội nhập quốc
tế của nhà báo nói riêng và báo chí truyền thơng Việt Nam nói chung. Cùng
với những thách thức trên, quá trình hội nhập quốc tế còn đặt ra những thách
thức khác như lập trường, bản lĩnh của nhà báo, giữ vững định hướng phát
triển đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phịng, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc
bảo vệ mơi trường độc lập dân tộc và phát triển bền vững đất nước... là những
vấn đề cần được giải quyết hài hoà và tỉnh táo, đòi hỏi mỗi nhà báo phải phấn
đấu, tu dưỡng rèn luyện toàn diện để đáp ứng yêu cầu mới.
Như vậy, trong q trình phát triển và hội nhập có cả thời cơ và thách
thức. Thời cơ đi cùng thách thức và đan xen nhau. Tuy nhiên, nếu có thời cơ
mà khơng tận dụng thì cũng bị tuột và thách thức nếu được xử lý tốt có thể
thành thời cơ. Mặc dù có khó khăn thách thức nhưng thuận lợi và thời cơ vẫn
nhiều hơn. Vì vậy báo chí truyền thông Việt Nam cũng phải biết tận dụng thời
cơ vượt qua thách thức để tiếp tục phát triển ổn định và bền vững.
1.4

- Tác động đến hoạt động lãnh đạo quản lý báo chí truyền

thơng
Trong thời kỳ cơng nghệ số hiện nay, khơng chỉ các cơ quan báo chí
hay nhà báo gặp khó, ngay cả các cơ quan chức năng, nhà quản lý, hoạch định

9


chính sách về phát triển báo chí cũng gặp khơng ít những trở ngại cần vượt
qua.
Bảo đảm báo chí phát triển đúng định hướng
Là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về báo chí, Bộ Thơng
tin và Truyền thông đã triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm tăng cường
quản lý thơng tin trên báo chí và mạng xã hội, nhằm đấu tranh ngăn chặn các
thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật.
Cụ thể, Bộ đã tham mưu với Chính phủ trình Quốc hội ban hành các
luật như: Luật Báo chí, Luật An tồn thơng tin, Luật An ninh mạng...; ban
hành, sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật; tham mưu Chính
phủ ban hành Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 1/3/2018 sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet
và thông tin trên mạng, Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản...
Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí tồn quốc đến năm 2025 đã
được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký ban hành tại Quyết định số
362-QĐ/TTg, ngày 3/4/2019 với lộ trình thực hiện là đến hết năm 2020, các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hồn thành việc sắp xếp theo
đúng quy hoạch. Trong đó, quy hoạch khẳng định quan điểm: Báo chí phải
bảo đảm đúng tơn chỉ, mục đích, khơng chạy theo lợi nhuận thuần túy, không
để tư nhân sở hữu báo chí, khơng để nhóm lợi ích chi phối báo chí. Một trong
những mục tiêu của việc quy hoạch, phát triển báo chí là sắp xếp hệ thống báo
chí, khắc phục tình trạng chồng chéo, đầu tư dàn trải, buông lỏng quản lý,
hoạt động xa rời tôn chỉ mục đích...
Lý giải về việc cần thiết phải quy hoạch báo chí, Thứ trưởng Bộ Thơng
tin và Truyền thơng Hồng Vĩnh Bảo cho rằng là do báo chí đang phát triển
hết sức mạnh mẽ. Quy hoạch báo chí nằm trong tổng thể quy hoạch chung của

cả nước, hướng tới xây dựng một nền báo chí chuyên nghiệp, hiện đại hơn,
xây dựng các cơ quan báo chí Việt Nam mang tầm quốc gia, khu vực.
10


Hiện, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý báo chí đã
có tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển của khoa học cơng
nghệ và báo chí như hiện nay, đơi khi có những văn bản vừa mới ban hành ra
đã trở nên khơng phù hợp với hiện tại. Điển hình như Luật Báo chí có hiệu
lực từ 1/1/2017 đến nay đã có những biểu hiện lạc hậu, bởi nhiều quy định
chưa rõ ràng, như: Tạp chí điện tử là như thế nào? Báo điện tử là như thế nào?
Những quy định trong nội dung liên kết sản xuất chương trình là như thế
nào?... dẫn đến có hiện tượng lách luật, gây khó khăn trong công tác quản lý.
Tới đây, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ đề xuất sửa đổi Luật Báo chí cho
phù hợp với xu thế...
Mặt khác, cơng tác quản lý thơng tin trên mạng xã hội cũng cịn những
khó khăn. Mạng xã hội giờ đây đã trở thành kênh thơng tin quan trọng trong
đời sống xã hội, có tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến suy nghĩ, nhận thức,
hành động của người dân, trong khi đó mơ hình quản lý thông tin trên mạng
vẫn theo cách thức quản lý báo chí truyền thống.
Quy trình sửa đổi, bổ sung, hồn thiện các văn bản quy phạm pháp luật
trên lĩnh vực này theo quy định hiện hành mất khá nhiều thời gian, dẫn đến
việc quy định vừa sửa đổi, bổ sung xong đã bắt đầu lạc hậu, gây khó khăn cho
cơng tác quản lý...
Nghiên cứu, xác định mơ hình thực hiện
Lộ trình, kế hoạch thực hiện quy hoạch phát triển và quản lý báo chí
tồn quốc đến năm 2025 đã được xây dựng cụ thể, rõ ràng; điều quan trọng
nhất là việc thực hiện. Theo PGS.TS Hà Huy Phượng (Học viện Báo chí và
Tuyên truyền), việc quy hoạch báo chí phải triển khai lâu dài bởi nếu không
quản lý tốt sẽ tạo ra sự phát triển báo chí một cách tùy tiện, dẫn đến tình trạng

thừa - thiếu, mất cân đối trong hệ thống báo chí.
Việc Chính phủ quyết liệt trong việc quy hoạch báo chí là hồn tồn
phù hợp, tuy nhiên việc quy hoạch báo chí cũng cần xem xét trong nhiều
trường hợp khác nhau để có mơ hình hoạt động thích hợp. Ví dụ như mơ hình
11


tổ chức cơ quan báo chí trong bối cảnh phát triển truyền thơng hiện đại hiện
nay cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể ra được hình mẫu tốt, từ đó
hướng dẫn các cơ quan báo chí có thể học tập, phát triển theo đặc thù cơ quan
báo chí của mình.
PGS.TS Hà Huy Phượng dẫn chứng Quảng Ninh là tỉnh đi đầu trong
việc thực hiện mơ hình trung tâm truyền thông và đến nay đã đạt được một số
kết quả. Mơ hình này cần sớm được tổng kết, rút kinh nghiệm, đánh giá; nếu
hiệu quả, có thể triển khai áp dụng cho báo chí địa phương và thậm chí quy
hoạch cho báo chí của các tổ chức chính trị - xã hội.
Quyết định 362-QĐ/TTg quy định giảm bớt triệt để đầu mối cơ quan
báo chí, đơn vị báo chí của Hà Nội và Thành phố Hồ Minh. Điều này cũng
đặt ra khó khăn, điển hình như Thành phố Hồ Chí Minh hiện có gần 30 cơ
quan báo chí, tới đây sẽ giảm bớt xuống 5 và dần dần là một đơn vị báo chí.
Vậy trường hợp Báo Tuổi trẻ - cơ quan báo chí thuộc Thành đồn Thành phố
Hồ Chí Minh - tờ báo được ví như “đứa bé đã phát triển thành người khổng
lồ” - sẽ được giải quyết như thếnào?
Thêm nữa, sự kiện báo chí diễn ra hàng ngày, hàng giờ với nhiều nhà
báo đến tác nghiệp; nếu một cơ quan báo chí đa phương tiện cử nhiều phóng
viên với nhiều loại hình khác nhau đến tác nghiệp, sau đó, nội dung của các
thơng tin này lại khơng ăn nhập gì với nhau, sẽ được giải quyết như thế nào?
Việc giảm bớt, thu gọn đầu mối cơ quan báo chí là việc làm cần thiết
nhưng cũng cần xem xét tính hợp lý. Những gì đã phát triển tốt, nên giữ
ngun, cái gì khơng tốt, cần mạnh dạn xóa bỏ; thậm chí cần loại bỏ một số

cơ quan báo chí khơng phù hợp. Khi đã có sự quy hoạch hợp lý, cần có một
mơ hình quản lý để triển khai. Lúc này cần sự vào cuộc của ba nhà: nhà khoa
học (nghiên cứu báo chí truyền thơng), nhà hoạt động thực tiễn báo chí, nhà
hoạch định chính sách để bàn thảo ra một mơ hình chung cho hoạt động báo
chí và các cơ quan báo chí áp dụng linh hoạt theo tính đặc thù.

12


Phát biểu tại Lớp “Bồi dưỡng nâng cao kiến thức quản lý nhà nước về
báo chí” do Bộ Thơng tin và truyền thông tổ chức, Bộ trưởng Bộ Thông tin và
Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, với tinh thần tăng cường quản
lý, kỷ cương để báo chí phát triển tốt hơn, đóng góp nhiều hơn cho sự phát
triển của đất nước, cần đổi mới cách quản lý, theo kịp sự phát triển của xã hội,
công nghệ cũng như các quan điểm mới của Đảng, Nhà nước về quản lý báo
chí.
Các cơ quan báo chí, người làm báo cần chủ động là đơn vị, người đầu
tiên đưa thông tin ra mạng; phân biệt rõ tai nạn nghề nghiệp và sự chống phá
Đảng và Nhà nước để kịp thời xử lý.
Quy hoạch Báo chí đã được thơng qua, việc làm này khơng phải để
“siết” báo chí mà là làm cho báo chí phát triển lành mạnh, bền vững, vì mục
tiêu phụng sự Tổ quốc phát triển. Việc quy hoạch cũng không thể làm một
cách q hành chính. Lộ trình đã được xác định rõ ràng.
Báo chí đang đứng trước các thách thức lớn chưa từng có, nhưng thách
thức cũng chính là cơ hội, cơ hội để đổi mới chính mình. Việt Nam muốn
sánh vai cường quốc năm châu, muốn hùng cường để khơng kẻ thù nào dám
đến xâm lược, để hịa bình mãi hiện hữu phải khai phóng được nguồn tài
ngun vơ hạn của đất nước, đó là năng lượng, trí tuệ trong não mỗi người
Việt Nam.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý nhà nước

về báo chí
Thứ nhất, Đảng đề ra chủ trương giải pháp đúng đắn nhằm phát
huy tốt vai trị của báo chí
Đảng cần nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vai trò to lớn, ảnh hưởng
ngày càng sâu sắc, mạnh mẽ của báo chí, truyền thơng đối với xã hội, đối với
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Đây chính là cơ sở để Đảng
đưa ra những chủ trương, giải pháp nhằm phát huy tốt nhất vai trò báo chí

13


như một động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước nói chung, của mỗi địa
phương, ngành nghề nói riêng.
Trong đó, Đảng cần đặc biệt quan tâm đến cơng tác tổ chức, cán bộ,
công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực báo chí, truyền thơng. Hệ
thống tổ chức các cơ quan báo chí, truyền thơng phải được xây dựng khoa
học, hợp lý, từng bước hoàn thiện về cơ chế vận hành. Đảng cần chăm lo
công tác đào tạo, bồi dưỡng, thường xuyên cập nhật, nâng cao nhận thức
chính trị, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân và đạo đức nghề nghiệp
cho đội ngũ người làm báo, những người hoạt động trong lĩnh vực truyền
thông, đào luyện họ thành những chiến sỹ đáng tin cậy trên mặt trận tư tưởngvăn hóa.
Các cấp ủy đảng phải đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong hệ thống báo chí, truyền thơng, bồi dưỡng, rèn luyện, đánh giá,
sắp xếp cán bộ hợp lý; kịp thời phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi vị trí lãnh
đạo, quản lý đối với những người không đủ bản lĩnh chính trị, năng lực
chun mơn, những người có biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống.
Tăng cường vai trò, trách nhiệm, năng lực của các cấp ủy trong việc
lãnh đạo, quản lý, phát triển hệ thống báo chí, truyền thơng nhằm phát huy tốt
nhất vai trị của báo chí, truyền thơng trong thơng tin, tun truyền, thực hiện

các nhiệm vụ công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận
của xã hội. 
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế quản lý, đổi mới phương thức quản lý
báo chí của cơ quan chủ quản
Trong thực tế, việc tổ chức thực thi pháp luật báo chí của các cơ quan
Nhà nước vẫn cịn chồng chéo, chưa có sự thống nhất. Vì vậy, cần bổ sung
các quy định nhằm cải tiến phương thức, lề lối làm việc, cơ chế phối hợp
thống nhất giữa các cơ quan trong quản lý Nhà nước về báo chí.

14


Cần xác định rõ các nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp trong sự
vận hành của bộ máy quản lý nhà nước về báo chí. Xác định rõ thẩm quyền
và trách nhiệm giữa cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan chỉ đạo, cơ quan chủ
quản, người đứng đầu cơ quan báo chí. Việc điều chỉnh hoạt động báo chí
thơng qua định hướng của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước, vừa bảo
đảm sự chặt chẽ trong quy định, chế tài, vừa bảo đảm sự thông thống cho
nhà báo và các cơ quan báo chí phát huy tính năng động, sáng tạo.
Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật về báo chí,
nâng cao nhận thức về pháp luật báo chí
Để thực hiện có hiệu quả, cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về báo chí với nhiều hình thức và nhiều đối tượng khác nhau.
Ngoài việc nâng cao ý thức pháp luật báo chí của các cá nhân, tổ chức thuộc
khối các cơ quan Đảng, Nhà nước cần chú ý nâng cao ý thức pháp luật về báo
chí cho các tầng lớp người dân trong xã hội để người dân tự giác và tích cực
tham gia vào việc xây dựng và thực hiện pháp luật báo chí, bảo đảm các chủ
thể biết cách sử dụng đúng đắn phương tiện pháp luật trong hoạt động của
mình.
Thứ tư, xây dựng quy hoạch phát triển báo chí phù hợp

Hoạt động báo chí trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, trong
q trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và nhất là sự bùng nổ của
thơng tin tồn cầu... đang đặt ra những u cầu mới về quy hoạch báo chí; địi
hỏi chúng ta phải xây dựng chiến lược phát triển thông tin lâu dài cho đất
nước. Phương châm chỉ đạo quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt
động báo chí là “phát triển đi đơi với quản lý tốt”. Sự phát triển này không chỉ
đơn thuần là tăng về mặt số lượng mà còn bao gồm cả mở rộng quy mô, phạm
vi tác động và nâng cao chất lượng thông tin.
Việc tiếp tục mở rộng quy mô của báo chí trong phạm vi tồn xã hội là
một u cầu tất yếu. Xã hội ln phát triển, dân trí ngày càng cao, nhu cầu
thông tin, giao tiếp tăng lên. Chính thực tiễn xã hội địi hỏi mở rộng quy mô
15


thơng tin của từng cơ quan báo chí cũng như sự ra đời của những tờ báo, bản
tin, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình mới. Tuy nhiên, việc mở
rộng quy mô này phải phù hợp với quy hoạch, chiến lược phát triển báo chí,
tránh tình trạng chồng chéo, lãng phí cả về nguồn lực và tài chính.
Thứ năm, nâng cao chất lượng và hiệu quả bộ máy quản lý
Cần xây dựng các quy định cụ thể, rõ ràng nhằm điều chỉnh tốt hơn
chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa Bộ Thông tin và Truyền thông với
các bộ, ngành hữu quan. Ở địa phương, cần xây dựng các quy định mới để tổ
chức lại bộ máy quản lý nhà nước cũng như nâng cao vai trò của các Sở
Thông tin và Truyền thông. Triển khai áp dụng phương tiện kỹ thuật và công
nghệ quản lý hiện đại vào hệ thống quản lý nhà nước về báo chí.
Với một đội ngũ cán bộ, nhân viên thiếu, trình độ có hạn, đầu việc
nhiều thì đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin, phương pháp quản lý
hiện đại vào hệ thống quản lý báo chí là việc làm cấp thiết. Điều đó vừa tinh
giản được biên chế theo chủ trương chung của Đảng, Nhà nước, vừa quán
xuyến công việcmột cách có hiệu quả.

Thứ sáu, tăng cường thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm trong hoạt
động báo chí
Đây là một phương thức để cơ quan quản lý Nhà nước xác định việc
chấp hành quy định pháp luật báo chí của cá nhân, cơ quan, tổ chức, qua đó
có những điều chỉnh phù hợp với thực tiễn. Đây là nhiệm vụ mà các các cơ
quan quản lý báo chí ở các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện chưa hiệu quả,
chưa nghiêm, cịn có biểu hiện bao che, nể nang trong việc xử lý những sai
phạm (phần lớn chỉ dừng ở mức độ nhắc nhở). Vì vậy, việc tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm của cơ quan chủ quản là một biện pháp
rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội
và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản
lí của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính
16


tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của
hoạt động báo chí. Hệ thống báo chí ở Việt Nam là cơ quan của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và quản lý của Nhà nước. Hiện nay việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo chí,
truyền thơng trong tình hình mới là một địi hỏi khách quan trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, truyền thơng trong thời gian tới
không chỉ là điều kiện, là động lực quan trọng để làm tốt công tác tư tưởng,
tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị
của đất nước, mà cịn bảo đảm quyền sáng tạo của các cơ quan báo báo chí,
truyền thơng, giúp báo chí, truyền thơng hồn thành trách nhiệm nặng nề, sứ
mệnh cao cả của mình đối với đất nước, nhân dân và xã hội.
Thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp,

khó lường. Xu thế truyền thơng đa phương tiện, truyền thông hội tụ phát triển
thông tin đa dịch vụ, thơng tin có tính tương tác, cá nhân hóa thơng tin… tiếp
tục làm thay đổi sâu sắc lối sống và các mối quan hệ xã hội, thúc đẩy sự đổi
mới mạnh mẽ phương thức chỉ đạo, quản lý, phương thức hoạt động, tổ chức
sản xuất, trao đổi, xử lý thông tin của các cơ quan, tổ chức hoạt động trong
lĩnh vực báo chí, truyền thơng.
Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng gay gắt hơn với các thách
thức an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng.
An tồn, an ninh thơng tin mạng ngày càng trở thành vấn đề quan trọng, nóng
bỏng, bức xúc đối với mọi quốc gia, dân tộc, đối với từng gia đình, từng cá
nhân con người.
Những năm tới là thời kỳ Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển
mới, phải thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO,
triển khai thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập
quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn so với giai đoạn trước. Tình hình kinh tế 17


xã hội đã có nhiều cải thiện tích cực, nhưng cũng đang đứng trước khơng ít
khó khăn, thách thức về nhiều mặt. Nhu cầu tiếp cận thông tin của nhân dân
ngày càng phát triển, đa dạng, phong phú hơn. Những nhiệm vụ đặt ra cho sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế
trong giai đoạn mới là rất to lớn.
Bên cạnh đó, sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin, của mạng
xã hội và của phương tiện truyền thông khác trên internet cũng mang tới cả
những hệ lụy, mặt trái, mặt phức tạp; các thế lực thù địch, phản động chống
phá Ðảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng tinh
vi, xảo quyệt.
Trong tình hình, điều kiện ấy, việc đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của
Ðảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí, truyền thơng là một u cầu
khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.

Đảng lãnh đạo hoạt động báo chí ở Việt Nam là một tất yếu mang tính
lịch sử - xã hội và vấn đề Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí hoạt động báo chí
là gắn chặt với nhau, khơng tách rời nhau. Đó là trụ cột chính đảm bảo báo
chí nước ta hoạt động đúng định hướng tư tưởng chính trị, phụng sự dân tộc,
phục vụ nhân dân. Trong giai đoạn mới, đòi hỏi những người cầm bút chân
chính cần nỗ lực phấn đấu hết mình vì một nền báo chí cách mạng, phục vụ
ngày một tốt hơn nhu cầu thông tin, tuyên truyền, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, phát triển.

18


BÀI TẬP 2:
1.Khái niệm Tổng Biên tập
Điều 13 Luật Báo chí quy định rõ: “Người đứng đầu cơ quan báo chí
là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ thường trú ở Việt Nam, có đủ các
tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do Nhà nước quy định.
Người đứng đầu cơ quan báo chí lãnh đạo và quản lý cơ quan báo chí về mọi
mặt, đảm bảo thực hiện tơn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách
nhiệm trước thủ trưởng cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt
động của cơ quan báo chí”.
Báo chí Việt Nam là báo chí cách mạng. Tổng biên tập là người đứng
đầu một cơ quan báo chí cách mạng, phải có phẩm chất người cán bộ lãnh đạo
cách mạng mới hoàn thành bổn phận và trách nhiệm cao cả của mình.
2.Chức năng, nhiệm vụ của Tổng Biên tập
Tổng biên tập là người đứng đầu cơ quan báo chí là người quyết định
cuối cùng trên tất cả mọi phương diện, trong đó quan trọng nhất là việc quyết
định xuất bản ấn phẩm báo chí.
Tởng biên tập có nhiệm vụ cơ bản gờm: hoạch định kế hoạch; quản lý,
giám sát, tổ chức thực hiện kế hoạch; hoạt động chuyên môn nghiệp vụ (biên

tập/duyệt bài vở); các hoạt động giao tiếp, củng cố kỷ luật toà soạn.
3.Để quản lý tòa soạn hiệu quả, việc đầu tiên Tổng Biên tập phải là
người làm báo có khả năng viết thì mới hiểu được nghiệp vụ báo chí.
Tổng biên tập phải có kiến thức văn hóa cơ bản, có kiến thức quản lý
kinh tế - xã hội, am hiểu pháp luật… mới mong thực hiện tốt nhiệm vụ “là
người đứng đầu cơ quan báo chí, lãnh đạo và quản lý cơ quan báo chí về mọi
mặt, đảm bảo thực hiện tơn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách
nhiệm trước thủ trưởng cơ quan và pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan
báo chí như luật định”
Đồng thời, Tổng biên tập là người điều hành, tổ chức tờ báo, giữ vai trò
thẩm định quan trọng nhất các bài viết; là người quy tụ và phát huy khả năng
19



×