Đề tài: Tài phán hành chính Việt nam
MỤCLỤC
PHẦNMỞĐẦU.
1. Lý do làm đề tài.
2. Ý nghĩa.
3. Phân tích đối tượng và phạm vi, mục đích để nghiên cứu.
CHƯƠNG I: NHỮNGVẤNĐỀLÝLUẬNVỀTÀIPHÁNHÀNHCHÍNH VIỆTNAM.
1. 1 Khái quát chungvề Tài phán hành chính và vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền.
1. 1. 1 Khái niệm Tài phán hành chính.
1. 1. 1. 1 Khái niệm Tài phán .
1. 1. 1. 2 Khái niệm Tài phán hành chính.
1. 1. 2 Vai trò và vị trí của Tài phán trong bộ máy Nhà nước.
1. 2 Một số cơ quan Tài phán hành chính trên Thế giới.
1. 2. 1. 1 Hệ thống Tài phán hành chính Anh - Mỹ.
1. 2. 1. 2 Hệ thống Tài phán hành chính Pháp.
1. 2. 2 Tổ chức cơ quan Tài phán hành chính ở một số nước trên thế giớí.
1. 2. 3 Quan điểm về Tài phán hành chính ở các nước XHCN
1. 2. 3. 1 Nhà nước thống nhất phân công quyền lực giữa quyền lập pháp
hành pháp tư pháp .
1. 2. 3. 2 Thiết lập Tài phán hành chính , một thiết chế quan trọngtrong tiến
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền.
1. 3 Nghành Tài phán hành chính ở Việt nam.
1. 3. 1 Khiếu nại tố cáo và thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt
nam.
1. 3. 2 Việc thiết lập cơ quan Tài phán hành chính:
CHƯƠNG II: CƠCẤU, TỔCHỨCVÀĐỐITƯỢNG,
THẨMQUYỀNCỦACƠQUANTÀIPHÁNHÀNHCHÍNH VIỆTNAM.
- Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Tài phán hành chính.
- Tổ chức hoạt động của toàán tối cao ở Việt nam.
+ Cấp quận huyện.
+ Cấp thành phố.
+ Cấp Toàán tối cao.
- Thẩm quyền xét xử.
- Các giai đoạn, thủ tục về toàán hành chính.
CHƯƠNG III. NHỮNGVẤNĐỀHOÀNTHIỆNTÀIPHÁNHÀNHCHÍNHỞ VIỆTNAM.
+ Nêu mở rộng một số thẩm quyền của toàán trong việc giải quyết khiếu nại
tố cáo
+ Hoàn thiện Pháp luật hành chính
+ Kiện toàn tổ chức vàđội ngũ cán bộ thẩm phán hành chính
+ Cải cánh cách thức tổ chức xét xử hành chính
PHẦNMỞĐẦU.
1. Tính cấp bách của đề tài
Từ những năm 1990 trở lại đây, từ khi Việt nam mở cửa hội nhập Thế
giới thì tình hình kinh tế và mọi mặt của đời sống nâng cao. Thế giới Nhất
làý thức về mặt Pháp luật được nâng cao rõ rệt. Trên tinh thần đổi mới
đóĐảng và Nhà nước ta thông qua quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền
đã ban hành nhiều văn bản Pháp luật quan trọng và có tính thiết yếu để thiết
lập Tài phán hành chính góp phần ngày càng hoàn thiện các chếđịnh giải
quyết khiếu nại, khiếu kiện của Nhân dân . Ngay từ nghị quyếtVIII của ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, một vấn đề mới, cấp bách đãđược đặt
ra: Đẩy mạnh giải quyết các khiếu kiện hành chính và xúc tiến việc thiết lập
hệ thống toàán hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với quyết
định hành chính.
Trong các văn bản đều mang tính tập trung liên quan trức tiếp đến hoạt
động tổ chức của Tài phán hành chính và xác định lại thẩm quyền giải quyết
các khiếu kiện hành chính được ghi nhận trong luật khiếu kiện tố cáo, năm
1998 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụán hành chính năm 1996 vàđược
bổ sung sửa đổi năm 1998.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VIII tiếp
tục khẳng định: củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định
thẩm quyền xét xữ của toàán.
Do đó Tài phán hành chính là một vấn đề hết sức mới mẻ, từ chỗ Tài
phán còn rất xa lạ nhưng đến nay vấn đề Tài phán hành chính đãđược tiếp
cận. Vì vậy toà hành chính đãđược thành lập vàđi vào hoạt động ở các
Toàán. nhưng xung quanh vấn đề hoàn thiện Pháp luật về Tài phán hành
chính ở Việt nam luôn luôn được sự quan tâm bởi các cấp các nghành, trong
giới luật gia, các nhà nghiên cứu khoa học quản lý và pháp lý. Chính vì vậy,
để nhận thức và nêu rõ tầm quan trọng của Tài phán hành chính vàđề tài :
Tài phán hành chính ở Việt nam được chọn làm đối tượng nghiên cứu của
khoá luận tốt nghiệp này.
2. Mục đích để nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích của việc thực hiện khoá luận như sau:
- Thứ 1: Hệ thống, tổng hợp cơ sở lý luận về Tài phán hành chính ở Việt
nam.
- Thứ 2: Nghiên cứu nội dung, tính chất của Tài phán hành chính Việt nam.
- Thứ 3: Những phương hướng , đề xuất nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức về
mặt Pháp luật về Tài phán hành chính Việt nam.
Từ những mục đích trên, nhiệm vụ của khoá luận này là tập trung để giải
quyết những vấn đề sau:
- Trên cơ sở lý luận qua các khái niệm quan điểm khoa học về Tài phán
hành chính để làm cơ sở và xây dựng và thiết lập lên 1 cơ quan Tài phán
hành chính ở Việt nam.
- Nêu rõ cơ cấu, tổ chức hoạt động xét xử.
- Nêu rõ và phân tích những đối tượng khiếu kiện và thẩm quyền xét xử
khiếu kiện hành chính Việt nam. Như vậy ta đối chiếu từ những thực
trạng giải quyết khiếu kiện hành chính trong những năm qua để thấy được
những khó khăn, vướng mắc, thiếu sót về mặy pháp lý nói chung tổ chức
thực hiện Tài phán hành chính nói riêng.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng của Tài phán hành chính có những điềm
tích cực và những hạn chế trong công việc tổ chức và hoạt động.
- Qua đó khoá luận có nhiệm vụ nêu ra một số phương hướng đổi mới
hoàn thiện và này càng được hoàn thiện trong công tác tổ chức góp phần
tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyềnViệt nam xã hội chủ nghĩavà
dân chủ hoáđời sống Nhà nước, xã hội.
3. Ý nghĩa .
Từ cơ sở ly luận và thực tiễn đựơc trình bày trong khoá luận bước đầu là
tổng quát những vấn đề cần thiết đề cập đến để hoàn thiện Pháp luật, hoàn
thiện thể chế về Tài phán hành chính trong đó toàán với tư cách là một thiết
chế quyền lực Nhà nước (quyền tư pháp trong hệ thống quyền lực Nhà
nước). Toàán là công cụ tối ưu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, việc xác định phạm vi quyết định hành chính và hành vi hành chính
thuộc đối tượng xét xử của toàán là cóý nghĩa rất lớn về mặt lý luận cũng
như thực tiễn trong công việc đấu tranh phòng ngừa cac vi phạm Pháp luật
bảo vệ quyền, tư do và lợi ích hợp pháp của công dân.
Vì vậy, khoá luận góp phần nhằm làm sáng tỏ các quan điểm của Nhà
nước và Pháp luật đối với sự phát triển của đất nước và tiến bộ của toàn xã
hội đặc biệt làm rõ vị trí, vai trò của Nhà nước với tư cách là công cụ chủ
yếu thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân và là công cụ chủ yếu bảo vệ,
bảo đảm quyền con người, quyền tư do, lợi ích của công dân. Khoá luận
cũng đóng góp quan trọng vào công cuộc cải cách thủ tục hành chính, cải
cách nền hành chính Nhà nước của dân - do dân- dân vì theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa
CHƯƠNG I.
NHỮNGVẤNĐỀLÝLUẬNVỀTÀIPHÁNHÀNHCHÍNH
Ở VIỆTNAM.
1. 1 Tài phán hành chính và những vấn đề xây dựng một Nhà nước
pháp quyền.
1. 1. 1 Khái niệm về Tài phán hành chính.
1. 1. 1. 1 Quan điểm về Tài phán .
Tài phán được hiểu theo nghĩa hẹp là toàn bộ các vụ kiện tụng và xét xử
vềđối tượng nào đó như Tài phán hình sự, Tài phán hành chính, Tài phán
kinh tế. . . Việc thành lập toàán hành chính trong toàán Nhân dân làđáp ứng
nhu cầu phù hợp với hiện nay.
Tài phán theo nghĩa rộng có nghĩa là tổng thể những quyền hạn của
toàán hoặc cơ quan hành chính trong đó có việc giải quyết những tranh chấp
vàáp dụng những chế tài theo luật định. Trong khoa học pháp lý quốc tế
cũng thường sử dụng khái niệm: quyền Tài phán quốc gia đối với những sự
kiện trên biển, trên không và trên đất liền, tòa án quốc tế ( Vd: Toàán la
hay ). Nhưng nhìn chung cơ quan Tài phán điền hình nhất là hoạt động xét
xử của toàán.
Trên cơ sở hoạt động của Tài phán là khi phát hiện ra hành vi vi phạm
Pháp luật hoặc có dấu hiệu cho rằng hành vi đó là vi phạm Pháp luật và các
tranh chấp pháp lý, giữa các chủ thể khi tham gia vào đời sống Pháp luật của
Nhà nước.
Sự xuất hiện các cơ quan Tài phán và hoạt động Tài phán gắn liền với sự
xuất hiện của Nhà nước và Pháp luật. Vì vậy Tài phán hành chính là sự kết
hợp giữa công quyền và pháp lý. Qua đó các cơ quan thức hiện chức năng
Tài phán nhân danh quyền lực Nhà nước dựa trên cơ sở lấy các quy định của
Pháp luật là căn cứđể phán xử một vụ việc nào đấy. Sự phán quyết của các
cơ quan Tài phán chỉđược đưa ra sau khi đã xem xét trên thực tế cho rằng
hành vi đó vi phạm Pháp luật, các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể với
nhau khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ Pháp luật
trước khi phán xử xem xét, kiểm tra đánh giá một vụ việc nào đó trên cơ sở
tuân thủ các quy định Pháp luật.
Trên cơ sở phân tích Tài phán là một hoạt động mang tính quyền lực và
khi phán quyết của các hành vi của chủ thể trong quan hệ Pháp luật nhằm
xác định dấu hiệu pháp lý cảu một vấn đề cụ thể dẫn tới mối quan hệ nhân
quả làm phát sinh thay đổi, chấm dứt các quan hệ Pháp luật.
Chính vì vậy, hoạt động Tài phán và cơ quan Tài phán ngày càng củng cố
hoàn thiện dần dần. Khi màđời sống Pháp luật của Nhà nước cần đến sự
công bằng và dân chủ, khách quan.
1. 1. 1. 2 khái niệm Tài phán hành chính.
Tài phán hành chính là toàn bộ những quy định về tổ chức, hoạt động xét
xử những vi phạm Pháp luật hành chính với chức năng kiểm tra bảo vệ
quyền lợi của công dân và công chức trước những hoạt động của các cơ
quan và các nhà chức trách hành chính. Đó là phương hướng đảm bảo thể
chế kỷ luật trong nền hành chính Nhà nước, là biện pháp kiểm tra, giám sát
hữu hiệu hoạt động với cơ quan hành chính công chức, viên chức tránh các
hiện tượng lạm quyền, lộng quyền loại trừ những tiêu cực cửa quyền quan
liêu trong bộ máy hành chính. Vì vậy Tài phán hành chính trước hết là 1
trong những phương thức bảo đảm sự tuân thủ Pháp luật của các chủ thể khi
tham gia vào quản lý Nhà nước. Trong quá trình thực hiện hoạt động chấp
hành vàđiều hành các cơ quan hành chính Nhà nước và công dân cùng tham
gia và chu trình quản lý Nhà nước. Nhờđó mà các cơ quan hành chính có
quyền ban hành các quy định có tính chủđạo, tính quy phạm và các quyết
định có tính cá biệt cụ thểđể thi hành luật. Để thực hiện các quyết định ấy
các công chức, viên chức đều thực hiện các hành vi theo chức trách của
mình khi được Nhà nước trao quyền và công dân có nghĩa vụ phải chấp
hành.
Tài phán hành chính được thực hiện ở hai cấp độ khác nhau, khi quyền
Tài phán được thực hiện bởi bản thân cơ quan hành chính thì nóđược tiến
hành theo thủ tục hành chính , còn ngược lại khi Tài phán được coi là chức
năng của toàán thì nóđược tiến hành theo thủ tục tố tụng hành chính. Tuy
nhiên việc không tránh khỏi một số trường hợp các quy định hành chính và
các hành vi hành chính vượt quá thẩm quyền, không còn phù hợp với Pháp
luật hoặc từ chối không thực hiện theo đúng chức trách của mình dẫn đến
xâm phạm đến các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân làm phát sinh
các tranh chấp hành chính và khiếu kiện hành chính. Tài phán hành chính có
nhiệm vụ và trách nhiệm để giải quyết các tranh chấp và khiếu kiện hành
chính.
Khi đó cơ quan Tài phán hành chính giải quyết các tranh chấp đó bằng
cách kiểm tra các quyết định hành chính và các hành vi hành vi hành chính
đãđược ban hành hoặc thực hiện từđó trên cơ sở phán xét đúng hay sai hợp
pháp hay không hợp pháp của quyết định.
Như vậy, hoạt động của Tài phán hành chính là toàn bộ các hoạt động
phán quyết mang tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành
chính của các cơ quan Nhà nước.
1. 1. 2Vị trí vai trò Tài phán trong bộ máy Nhà nước.
Trong cải cách nền hành chính Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta khẳng
định phải thiết lập các cơ quan Tài phán hành chính. Điều này đãđược thực
hiện trên thực tế.
Tài phán hành chính là 1 hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước và
toàán hành chính, Tài phán hành chính là 1 bộ phận của 1 bộ máy Nhà nước
là cơ quan thực hiện quyền lực của Nhà nước. Tài phán hành chính có 1 vị
tríđặc biệt trong nền hành chính quốc gia. Một mặt Tài phán hành chính đảm
bảo, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân một mặt khác Tài phán hành
chính là 1 thiết chế góp phần tích cực vào việc củng cố pháp chế, trật tự
Pháp luật và là công cụ hữu hiệu nhằm bảo đảm kỹ luật, kỷ cương trong
quản lý Nhà nước.
Địa vị pháp lý của Tài phán hành chính được xác định bợi địa vị chính
trị pháp lý của hệ thống toà hành chính trong hệ thống toàán Nhân dân . Toà
hành chính là 1 bộ phận của bộ máy Nhà nước, là tổ chức của quyền lực Nhà
nước trong lĩnh vực xét xử.
Vai trò vị trí của toàán hành chính được quyết định . . . chức năng của
toàán hành chính là xét xử về hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo các
tranh chấp, phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước giữa công
dân, cơ quan, tổ chức chính trị xã hội và cơ quan hành chính Nhà nước và
các cơ quan khác khi thực hiện hoạt động chấp hành vàđiều hành khi xét xử
toà hành chính có quyền và nghĩa vụ. Kiểm tra quyết định hành chính có
hợp pháp hay không hợp pháp, các hành vi hành chính bị khiếu kiện, xét xử
các vụ kiện liên quan đến quản lý hành chính Nhà nước.
Trong khi chúng ta từng bước xây dựng một Nhà nước mới pháp quyền
việc thiết lập hệ thống toàán hành chính là sựđáp ứng nhu cầu cần thiết
khách quan nhằm đảm bảo pháp chế kỷ luật trong hoạt động hành chính Nhà
nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, công chức và
viên chức.
Tài phán hành chính là phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong
nền hành chính Nhà nước là biện pháp kiểm tra, giám sát hữu hiệu việc hoạt
động của cơ quan hành chính và các cán bộ hành chính và công chức, viên
chức tránh được các hiện tượng lạm quyền, lộng quyền, trốn tránh trách
nhiệm, loại trừ những hiện tượng tiêu cực, cửa quyền quan liêu trong bộ máy
hành chính, góp phần xây dựng nền hành chính Nhà nước trong sạch, năng
động, có hiệu quả, đểđáp ứng ngày một tốt hơn. .
Tài phán hành chính là một phương thức bảo vệ quyền tự do hợp pháp
của công dân khỏi sự xâm hại từ phía cơ quan hành chính, những người có
chức vụ, công chức cán bộ. Thông qua hoạt động xét xử hành chính. Toàán
góp phần giáo dục ý thức Pháp luật của các nhân viên Nhà nước, cũng như
mọi công dân, nâng cao tính tích cực chính trị của họ trong đấu tranh với vi
phạm Pháp luật, tạo niềm tin của Nhân dân đối với Pháp luật nói chung và
hệ thống hành chính nói riêng. Toàán hành chính là cơ quan hữu hiệu giải
quyết các khiếu nại tố cáo của công dân .
Như vậy, Tài phán hành chính như là một thanh kiếm lá chắn đấu tranh
với mọi vi phạm Pháp luật phát sinh trong hoạt động chấp hành vàđiều hành
của bộ máy hành chính, bảo vệ quyền tự do lợi ích hợp pháp của Nhân dân .
Tài phán hành chính sẽ làm bộ máy hành chính Nhà nước nâng cao trách
nhiệm, tăng cường kỷ cương, tăng cường pháp chếXHCN trong quản lý
hành chính Nhà nước, nâng cao trách nhiệm làm việc của công chức viên
chức trong khi thực thi, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do, dân chủ, lợi ích hợp
pháp của Nhân dân , góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước
của dân do dân và vì dân.
1. 2 Quan điểm và sự hình thành Tài phán hành chính ở một số nước
trên Thế giới hiện nay.
1. 2. 1. 1 Tài phán hành chính Anh-Mỹ.
Các cơ quan hành chính Nhà nước này nhìn chung không có quyền
quyền uy trong quan hệ với công dân. chỉ có nguyên tắc bình đẳng thoả
thuận về công dân được đề cao, còn sự phân công giữa luật công và luật tư
không rõ ràng. Nhiều người cho rằng hệ thống Pháp luật cóđủđiều kiện
đểđáp ứng cho các mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. từđó dẫn đến
việc thiết lập các cơ quan Tài phán hành chính chuyên trách. Các tranh chấp
hành chính thông thường được giải quyết trong nội bộ các cơ quan hành
chính và theo thứ bậc hành chính. Nếu không thoả mãn với sự trả lời của cơ
quan hành chính thì công dân mới gửi đơn kiện nên toàán ( thông thường
toàán cao cấp mới có thẩm quyền thụ lý và xét xử các vụ kiện hành chính.
Do nhu cầu giải quyết các tranh chấp hành chính và do tính phức tạp của các
vụ kiện hành chính, cho nên một số nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ bắt
đầu nghĩđến và thiết lập một cơ quan Tài phán hành chính, toàán chuyên
trách.
1. 2. 1. 2Tài phán hành chính ở Pháp.
Cộng hoà Pháp là nước có lịch sử khá lâu dài trong việc tổ chức các cơ
quan Tài phán hành chính có Khoảng gần 200 năm nay. Dưới chếđộ các Đại
pháp viện, một loại các cơ quan cao cấp có thẩm quyền xét xử tất cả các
vụán, kể cả xem xét tính hợp pháp, các hành vi của cơ quan quản lý. Các
thẩm phán can thiệp sâu vào hoạt động của các cơ quan quản lý vì hệ thống
của cơ quan quản lý bị tê liệt. Vì vậy, những người đi theo đường lối cách
mạng đã phản đối cơ chế này vì nó vi phạm nguyên tắc phân chia quyền lực
quyền tư pháp của TA đã vượt ra khỏi phạm vi của mình và lấn sang quyền
hành pháp ( Đại Pháp viện không còn được trao quyền xét xử các hành vi
hành chính nữa mà việc này thuộc cơ quan hành chính. Việc trao quyền xét
xử các tranh chấp hành chính cho bản thân cơ quan hành chính dẫn đến một
hậu quả và thể hiện ở những điểm bất lợi.
+ Các cơ quan hành chính vừa là bên bị kiện, vừa là người xử kiện, vừa là
thầm phán, vừa làđương sự ( có sự giàng buộc giữa hành pháp và tư pháp ).
+ Sự phán quyết của cơ quan hành chính càng không phải lúc nào cũng đúng
về phương diện pháp lý ( không phải là luật gia ).
Từđó, ởđây rõ ràng là không thểđảm bảo được tính công và tư trong quá
trình xét xử. Xuất phát từ quan điểm độc đáo về phân chia quyền lực mà
trong đó quyền tư pháp không được lấn sang quyền hành pháp. cũng chính
từ quan điểm như vậy, từ chỗ việc giải quyết các khiếu kiện hành chính do
các cơ quan hành chính đảm nhiệm ở Pháp đã xuất hiện một hệ thống các cơ
quan Tài phán hành chính độc lập với hành chính điều hành và Tài phán tư
pháp trên cơ sở các tranh chấp nảy sinh khi áp dụng luật công sẽ do toà hành
chính Nhà nước giải quyết và những tranh chấp luật tư sẽ do toàán tư pháp
giải quyết.
Như vậy nền hành chính pháp dựa trên nguyên tắc, phân chia hành chính
quản lý và hành chính Tài phán với lý lẽ. Nền hành chính quốc gia thống
nhất trên 2 phương diện hoạt động hành chính quản lý và hành chính Tài
phán .
1. 2. 2 Tổ chưc cơ quan Tài phán hành chính ở một số nước trên Thế
giới.
Xuất phát tự yêu cầu khách quan của hoạt động quản lý Nhà nước và việc
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực hành chính, hầu hết các nước trên Thế
giới đều nghiên cứu và xây dựng hệ thống Tài phán hành chính. Từ truyền
thống pháp lý, trình độ dân trí, tình hình kinh tế xã hội nên mỗi nước có một
giải pháp khác nhau, nhưng cũng có sự khảo sát kinh nghiệm và kế thừa của
nhau về tổ chức cơ quan Tài phán hành chính. .
Qua nghiên cứu cho thấy hiện nay trên Thế giới có một số loại hình tổ
chức Tài phán hành chính như sau:
a. Tổ chức theo chếđộ lưỡng hệ Tài phán ( Tài phán tư pháp và Tài phán
hành chính) độc lập nhau: Tài phán tư pháp xét xử những việc về hình sự,
dân sự. . . trên cơ sởáp dụng Pháp luật. Tài phán hành chính xét xử các khiếu
kiện hành chính trên cơ sởáp dụng luật công. Cách tổ chức này được chia
làm 2 loại:
+ Cơ quan Tài phán hành chính cấp cao ( Hội đồng Nhà nước ) có hai chức
năng : tư vấn về pháp lý và xét xử hành chính. Cơ quan Tài phán hành
chính cấp dưới chỉ xét xử hành chính ( Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ , Hi lạp, Ai cập,
Thái lan . . )
+ Cơ quan Tài phán hành chính chỉ xét xử hành chính ( CHLB Đức,
Thuỵđiển, Phần Lan, áo, BồĐào Nha, Costarica. . . )
b. Tổ chức theo chếđộ nhất hệ Tài phán ( Angloxacxon ). Cách tổ chức này
cũng được chia làm 2 loại :
+ Toàán tư pháp có thẩm quyền xét xử các khiếu kiện hành chính ( Anh,
aixolen, Nauy, Sip, Nigieria, ixaren ).
+ Toàán hành chính là phân toà trong toà tư pháp ( Trung Quốc, Inđonexia,
Benanh, Conggo).
1. 2. 3 Quan điểm về Tài phán hành chính ở các nước XHCN.
Nhìn chung trước đây các nước theo hệ thống Pháp luật XHCN không có
toàán hành chính quyền lợi của Nhà nước và ngưòi dân là hoàn toàn nhất trí,
không có sự mâu thuẫn đối lập. Vì vậy không có sự nảy sinh tranh chấp giữa
cơ quan Nhà nước và công dân. nếu trong quá trình quản lýđiều hành, các cơ
quan Nhà nước có sự sai lầm, làm trái quy tắc và bị người dân phản đối,
khiếu nại thì cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp giám sát hướng dẫn và
sữa chữa.
Trên thực tế hệ thống cơ quan hành chính đó chính là hệ thống thứ bậc
thiếu một cơ chếđảm bảo cho công dân có thể tranh luận với cơ quan hành
chính khi có một tranh chấp nào đấy, thiếu một cơ chế hữu hiệu để kiểm tra
tính hợp pháp trong quản lý hành chính Nhà nước. ở một số nước có hệ
thống cơ quan gọi là viện kiểm sát được giao nhiệm vụ kiểm sát các văn bản
và các hành vi hành chính của cơ quan hành chính. Những hoạt động này chỉ
giới hạn ở việc kiểm tra , phát hiện và kiến nghị với cơ quan hành chính chứ
không có quyền xét xử phán quyết. Như vậy, ởđây viện kiểm sát không có
chức năng Tài phán hành chính. Cho đến vài thập niên trở lại đây sự cần
thiết phải kiểm tra hoạt động của các cơ quan hành chính dưới hình thức Tài
phán được đặt ra và thẩm quyền được giao cho toàán giải quyết.
1. 2. 4 Nhà nước thống nhất quyền lực và phân công phối hợp giữa quền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong công cuộc cải cách hiện nay, đểđáp ứng nhu cầu của sự nghiệp
cách mạng Đảng và Nhà nước ta cần phải xây dựng một bộ máy Nhà nước
trong sạch, vững mạnh và Nhà nước của dân do dân và vì dân tạo nên 1 Nhà
nước pháp quyền xhcn và xuất phát từ nguyên tắc và quan điểm: Tất cả
quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân “ vì vậy, không có sự phân lập
giữa các quyền lập pháp quyền hành pháp và quyền tư pháp ( Điều 2 Hiến
pháp 92).
Sự phối hợp giữa 3 quyền này cóđối trọng và chếước lẫn nhau được thể
hiện ở việc kiểm tra và giám sát lẫn nhau. Từđóđối với việc xây dựng bộ
máy Nhà nước ta được thể hiện qua sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp hành pháp tư pháp
để hoàn thiện phù hợp với việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền hiện
nay.
Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước thực hiện
quyền lực của Nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản
nhất là Nhân dân thông qua bầu cử lập ra cơ quan đại diện quyền lực của
mình. Điều 6 HP 92 Quy định “Nhân dân sử dụng quyền lực của Nhà nước
thông qua Quốc hội và hội đồng Nhân dân các cấp, là cơ quan đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của Nhân dân , do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
Nhân dân . . . ”
Thông qua ý chí nguyện vọng của Nhân dân hoạt động lập pháp của
Quốc hội là ban hành văn bản quy phạm Pháp luật có hiệu lực cao nhất đó là
Hiến pháp, các bộ luật, đạo luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản
và quan trọng nhất. Các quy phạm Pháp luật của cơ quan Nhà nước phải
được ban hành cụ thể hoá dựa trên hiến pháp và luật. Theo đó hoạt động lập
hiến và lập pháp là hoạt động cơ bản nhất của Quốc hội nhằm điều chỉnh
quan hệ xã hội được diễn ra giữa con người với con người, con người với
thiên nhiên, con người với Nhà nước. Quốc hội là cơ quan cao nhất của
quyền lực , ấn định thống nhất các quyền nhưng không thực thì tất cả các
quyền Quốc hội làm chức năng lập pháp nhưng không thực hiện chức năng
hành pháp - tư pháp. chính vì vậy hoạt động lập pháp chi phối mạnh và trực
tiếp tới hoạt động hành pháp tư pháp nên nóđược coi làđỉnh cao của quyền
lực Nhà nước. Quốc hội còn được thể hiện rõ nét của mối tương quan giữa
quyền lực Nhà nước.
- Theo Hiếp Pháp , bộ máy quản lý Nhà nước là 1 trong 4 hệ thống cơ quan,
các cơ quan quản lý Nhà nước là những bộ máy hợp thành của bộ máy quản
lýđược thành lập để chuyên thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. ( Hoạt
động và chấp hành ).
- Cơ quan quản lý Nhà nước có những đặc điểm chung của cơ quan Nhà
nước. Đó là tập hợp những con người có tính độc lập tương đối về tổ chức,
cơ cấu, mỗi cơ quan đều có thẩm quyền do Pháp luật quy định.
Để thực hiện quyền hành pháp thực chất là việc quản lý vàđiều hành xã
hội theo Pháp luật, đưa Pháp luật vào đời sống xã hội trên cơ sở phù hợp với
đường lối chính sách của Đảng, được thể hiện ý chí và nguyện vọng của
Nhân dân .
Cơ quan hành chính Nhà nước do cơ quan quyền lực Nhà nước lập ra
màđứng đầu là chính phủ, cơ quan chấp hành quốc hội. Đây là yếu tố quan
trọng nhằm bảo đảm tính thống nhất của quyền lực.
Chính phủ là cơ quan cao nhất của nước CHXHCNVN ( HP 92), thực
hiện quyền hành pháp đểđiều hành đất nước, các cơ quan hành chính Nhà
nước luôn luôn phải thường xuyên tiếp xúc với quần chúng Nhân dân , liên
quan trực tiếp tới quyền và lợi ích cụ thể của Nhân dân . Vì vậy, trên cơ sở
phân công rõ ràng, chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội về
hoạt động của mình, quốc hội chất vấn vàđề ra nghị quyết về công việc
chính phủ còn với Uỷ bản thường vụ quốc hội và chủ tịch nước thì chỉ phải
báo cáo tình hình mà thôi.
Ởđịa phương các UBND là cơ quan chấp hành của hội đồng Nhân dân ,
do Nhân dân bầu ra và là cơ quan hành chính Nhà nước ởđịa phương, chịu
trách nhiệm chấp hành hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước
cấp trên và nghị quyết của Hội đồng Nhân dân .
Khi thực hiện quyền hành pháp đểđiều hành và quản lý các cơ quan hành
chính có quyền ban hành các quyết định cá biệt, có quan hệđến từng công
dân . Nói chung thẩm quyền ra các quyết định hành chính cá biệt phải liên
quan đến lĩnh vực đời sống của công dân vàđểđảm bảo hoạt động quản lý
Nhà nước được diễn ra có hiệu quả ngoài việc thực hiện ban hành các văn
bản pháp quy, các cơ quan hành chính có quyền tiến hành kiểm tra thanh tra
vàáp dụng các biện pháp xử lý cần thiết. Khi thực hiện hoạt động chấp hành
vàđiều hành của các cơ quan hành chính Nhà nước có quyền ban hành các
văn bản, quy định chi tiết hướng dẫn thực hiện Pháp luật sao cho phù hợp
với từng lĩnh vực, từng lãnh thô trên cơ sở không trái với Hiến pháp và Luật.
Quyền tư pháp được thực hiện bằng hoạt động xét xử, công tố. . . các
chức năng trên được thực hiện bởi toàán, viện kiểm sát và một số cơ quan
Nhà nước khác. sự hiện diện của quyền tư pháp thông qua chức năng xét xử
của Toàán, chính nguyên tắc xét xử của Toàán giữa thẩm phán và Hội đồng
thẩm phán là một trong những biểu hiện rõ nét trong sự phân công rõ rệt
giữa các quyền lực.
Khi xét xử, thẩm phán và hội đồng Nhân dân chỉ tuân theo Pháp luật
( Luật tổ chức TAND ). Thẩm phán và Hội đồng Nhân dân có quyền áp
dụng Pháp luật vào từng trường hợp cá biệt, nhưđịnh tội danh, khung hình,
tăng nặng giảm nhẹ, phán xét các tranh chấp, với năng lực của mình thẩm
phán và Hội thẩm Nhân dân chịu trách nhiệm trước Pháp luật. Tính độc lập
trong tổ chức và hoạt động xét xử của Toàán chính là không chịu sự can
thiệp từ bên ngoài vào. Các toàán xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, Giám đốc
thẩm được tổ chức không phụ thuộc lẫn nhau giữa các toàán có mối quan hệ
tố tụng.
Do đó toáán hành chính được tổ chức độc lập với quản lý hành chính thúc
đẩy hoạt động quản lý phát triển theo đúng Pháp luật,
Sự phân công quyền lực Nhà nước được thể hiện ở chỗ:
- quyền lập hiến, lập pháp, tập trung vào quốc hội.
- quyền hành pháp tập trung vào chính phủ.
- quyền tư pháp tập trung vào Toàán.
Sự phối hợp giữa 3 quyền được thể hiện ở các mặt.
- sự phối hợp giữa Quốc hội và chính phủ. Chính phủ báo cáo cáo dựán luật
trước Quốc hội để quốc hội thông qua, phê chuẩn, bầu ra quan chức cao
cấp đứng đầu chính phủ, chính phủ quyết định những vấn đề: chương trình
hàng năm của chính phủ, Dự toán, quyết toán ngân sách Nhà nước.
Quốc hội giám sát hoạt động của chính phủ bằng cách chất vấn và tỏ thái
độ tín nhiệm hay không tín nhiệm.
- Sự phối hợp giữa lập pháp và tư pháp, quốc hội bầu ra những nhân sự cao
cấp của Toàán, quốc hội . . . định tổ chức và hoạt động tư pháp. toáán có
trách nhiệm báo cáo trước quốc hội.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan hỗ trợ tư pháp của chính phủ và toàán trong
việc thực hiện quyền tư pháp.
Như vậy quyền lực Nhà nước đãđược rõ ràng ( đó không phải là phân quyền
trong bộ máy tư sản ) màđó là sự phân công lao động hợp lý giữa các cơ
quan Nhà nước, bảo đảm mỗi cơ quan thực hiện đúng chức năng của mình,
sựđảm bảo hoạt động của bộ máy Nhà nước phản ánh đúng được lợi ích của
Nhân dân .
1. 2. 5 Thiết lập Tài phán hành chính, một thiết chế quan trọng trong
tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thiết lập Tài phán hành chính, một thiết chế quan trọng trong tiến trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nếu như chức năng của Tài phán hành
chính là xem xét và giải quyết các khiếu kiện của công dân đối với giải
quyết hành chính hay hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước và nhân
viên công chức, viên chức Nhà nước khi ban hành hoặc thực hiện trong quá
trình điều hành công việc. Việc thiết lập một nền Tài phán hành chính. Đây
là cơ sở và tiền đề, một bước phát triển mạnh mẽ trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền ( một Nhà nước mà trong đó mọi chủ thể- kể cả Nhà
nước đều tuân thủ nghiêm chỉnh chấp hành Pháp luật ).
Nếu Nhà nước pháp quyền là Nhà nước màởđó các chủ thểđều phải tuân
thủ và bình đẳng trước Pháp luật, điều đó khẳng định tính tối thượng của các
đạo luật. Thông qua cơ quan kiểm soát cơ quan Tài phán hành chính sẽđảm
bảo sự tuân thủ Pháp luật của các cơ quan hành chính Nhà nước nói chung
và nhân viên nói riêng, bảo đảm tính dưới luật của hoạt động chấp hành
vàđiều hành trên cơ sở luật quy định , để thực thi luật và không trái với quy
định của Pháp luật. Nêu rõ quyền bình đẳng trước Pháp luật.
Nếu Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó không chỉ có công
dân có trách nhiệm với Nhà nước mà Nhà nước phải có trách nhiệm với
công dân mình thì thực hiện Tài phán hành chính sẽ làm cho các cơ quan
hành chính nâng cao trách nhiệm , tăng cường kỷ luật kỷ cương tuân thủ
pháp chế trong việc quản lý Nhà nước nâng cao trách nhiệm của viên chức
Nhà nước trong việc thực thi công vụ, tôn trọng và bảo vệ các quyền lợi và
lợi ích hợp pháp của Nhân dân .
Nếu Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó các quyền tự do dân
chủ cơ bản của công dân được Pháp luật bảo đảm và bảo vệ thì Tài phán
hành chính là phương thức để thực hiện và bảo vệ thuộc các hành vi cửa
quyền của cơ quan Nhà nước. Tài phán hành chính sẽđóng góp một vai trò
kiểm tra, giám sát hoạt động hành chính, tránh được các hiện tượng lạm
dụng quyền tiêu cực trong bộ máy chính quyền. Vì vậy cơ quan Tài phán
hành chính là cơ quan nhằm bảo vệ quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công
dân.
Xây dựng một Nhà nước pháp quyền có liên quan đến việc đổi mới tổ
chức và hoạt động lập pháp hành pháp và tư pháp. ba cơ quan này có sự
phân công và phối hợp chặt chẽ 3 quyền trên nguyên tắc tập trung thống
nhất quyền lực. Nhưng điều đầu tiên và quan trọng vẫn là các nhà hành
chính đểđảm bảo thực hiện nhiệm vụ của mình. Vì một trong những nguyên
tắc cao nhất của Nhà nước pháp quyền làđặt mình dưới Pháp luật và phải
tuân thủ nghiêm túc Pháp luật và phải chịu sự kiểm soát của Nhân dân .
Từđó việc thiết lập cơ quan Tài phán hành chính chuyên trách độc lập
thực hiện chức năng Tài phán hành chính. Đây là một thiết chế quan trọng
trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, một điểm tựa của xây dựng
Nhà nước pháp quyền, không thực hiện tốt Tài phán hành chính thì không
xây dựng được một Nhà nước pháp quyền.
1. 3Tài phán hành chính ở Việt nam.
1. 3. 1Khiếu nại tố cáo và thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt
nam.
Khiếu nại là một hiện tượng phát sinh trong đời sống XH , như là phản
ánh có tính tự nhiên của con người trước một quyết định một hành vi nào đó
mà người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi đó không phù hợp, có
thể là không hợp lý, không phù hợp với các quy tắc chuẩn mực trong đời
sống cộng đồng, xâm phạm tới quyền , tự do, lợi ích của mình đặt trong mối
quan hệ công dân với Nhà nước có quan niệm cho rằng: “ khiếu nại là một
hình thức công dân hướng đến cơ quan Nhà nước , hay tổ chức xã hội tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ trang khi thấy quyết định hay hành vi xâm phạm tới
quyền và lợi ích của mình “
1
.
Từ triết lý “ dùng quyền để bảo vệ quyền “ thì “khiếu nại được sử dụng
khi quyền chủ thể của bản thân công dân khiếu nại hoặc củangười do mình
bảo hộ bị vi phạm do quyết định hoặc hành vi trái Pháp luật thuộc phạm vi
quản lý Nhà nước của các cơ quan Nhà nước hoặc nhân viên Nhà nước “
2
Qua sự phân tích ở trên cho thấy, khiếu nại là một phản ứng tất yếu khi
quyền, tự do lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan tổ chức bị xâm hại. Vì
vậy việc ghi nhận khiếu nại trở thành một quyền của các nhân, cơ quan tổ
chức là một điều cần thiết.
Điều 74 Hiến Pháp 92 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố
cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái Pháp luật
của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang Nhân
dân hoặc bất cứ cá nhân nào. . . ”
Cụ thể hoáĐiều 74 Hiến Pháp 92, Luật khiếu nại tố cáo quy định: “ Công
dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền
trong cơ quan Nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hành vi đó là trái
Pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. cán bộ công chức có
quyền khiếu nại quyết định kỷ luật của người có thẩm quyền khi có căn cứ
cho rằng quyết định đó là trái Pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. ”
Khoản 2 Điều 2 Luật “2- "Tố cáo" là việc công dân theo thủ tục do Luật
này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành
vi vi phạm Pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức. ”
Như vậy tố cáo thực chất là việc công dân phát hiện thông báo chính thức
với cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những hành vi vi phạm Pháp
luật nào đó diễn ra trong đời sống xã hội có thể hoặc không liên quan đến
trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc những người cụ thể
khác. Tố cáo thể hiện sự phản ánh của công dân trước hành vi vi phạm Pháp
luật của chủ thể khác trong xã hội.
Trong hệ thống bộ máy Nhà nước, các cơ quan hành chính Nhà nước có
một hệ thống sâu rộng vàđồ sộ. Hoạt động của hệ thống này là thường xuyên
trực tiếp tác động đến các quan hệ trên mọi đời sống xã hội, động chạm đến
quyền, nghĩa vụ, lợi ích của mọi người dân do đó khó có thể tránh khỏi
những “ va chạm “, những thiếu xót gây tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức gây nên những tranh chấp, những mâu thuẫn .
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thực hiện dân chủ hoá xã
hội chủ nghĩa, Nhà nước đã quy định khiếu nại, tố cáo là một trong các
quyền cơ bản của công dân vàđược ghi nhận trong hiến pháp: “ Công dân có
quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về
những việc làm trái Pháp luật của cơ quan Nhà nước. . việc khiếu nại, tố cáo
được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời gian Pháp luật quy
định. . . ” Điều 74 Hiến pháp 92 )
Trong các văn bản Pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước thường sử
dụng thuật ngữ: nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng. Thuật ngữ thẩm quyền
thường được sử dụng trong các văn bản Pháp luật có quy định về xử phát vi
phạm hành chính, về xét xử hành chính, xét xử hình sự. . .
Thẩm quyền theo một nghĩa nhất định được hiểu là quyền xem xét để kết
luận và quyết định một vấn đề nào đó theo Pháp luật. Theo cách hiểu như
vậy thẩm quyền được hiểu như là quyền và giới hạn của quyền bởi Pháp
luật, thẩm quyền của cơ quan tổ chức các nhân gắn với quyền lực.
Từ phương tiện pháp lý, thẩm quyền của cơ quan Nhà nước, người có
chức vụ có thể hiểu đó là quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực pháp lý
của cơ quan Nhà nước, ngưới có chức vụđược Pháp luật quy định, một mặt
nhân danh công quyền phán xét, quyết định về một vấn đề nào đó do Pháp
luật quy định, mặt khác có nghĩa vụ phải phán quyết. ởđây có hai yếu tố tạo
thành thẩm quyền của cơ quan, tổ chức, người có chức vụ là quyền và nghĩa
vụ, trong đó yếu tố quyền có tính quyết định, còn yếu tố nghĩa vụđược xem
xét như là bổn phận, trách nhiệm phải thực hiện. Như vậy, thẩm quyền của
cơ quan Nhà nước chính là quyền xem xét phán quyết những vụ việc, vấn đề
có tính pháp lý nào đó theo quy định của Pháp luật, đồng thời đó cũng là
nghĩa vụ của cơ quan đó phải phán xét, giải quyết vụ việc.
Từ những vấn đề có tính lý luận nêu trên, thẩm quyền giải quyết khiếu nại
tố cáo của cơ quan Nhà nước có thểđược hiểu là quyền xem xét giải quyết
khiếu nại, tố cáo và nghĩa vụ phải xem xét giải quyết khiếu nại tố cáo của
cơquan Nhà nước nào đó do Pháp luật quy định. Hai yếu tố này đan xen,
thẩm thấu vào nhau không nên đặt chúng một cách biệt lập, đó là hai mặt
của một vấn đề mâu thuẫn nhưng thống nhất, cùng xác định trách nhiệm của
cơ quan Nhà nước trong giải quyết khiếu nại tố cáo.
a). Thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan hành chính Nhà nước trong giải
quyết khiếu nại
- Chủ tịch uỷ ban Nhân dân xã, phường thị trấn ( gọi chung là cấp xã, thủ
trưởng cơ quan thuộc uy bản Nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuốc
tỉnh ( gọi chung là cấp huyện ) có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách
nhiệm do mình quản lý trực tiếp ( Điều 19 Luật khiếu nại tố cáo ).
- Chủ tịch uỷ ban cấp huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của mình và giải quyết khiếu nại mà chủ tịch uỷ ban Nhân dân cấp xã,
thủ trưởng cơ quan UBND cấp huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại
( Điều 20 Luật khiếu nại tố cáo).
- Thủ trưởng cơ quan thuộc sở và cấp tương đương có thẩm quyết giải
quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình,
của cán bộ công chức do mình quản lý trực tiếp.
-Giám đốc sở và cấp tương đương trực thuộc UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc TW có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính,
hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình trực tiếp quản
lý và giải quyết khiếu nại mà thủ trưởng cơ quan thuộc sở hoặc cấp tương
đương giải quyết nhưng còn có khiếu nại ( Điều 22 Luật khiếu nại, tố cáo ).
- Thủ trưởng cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan
thuộc chính phủ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành
chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình quản lý
trực tiếp. ( Điều 24 Luật Khiếu nại, tố cáo ).
- Thẩm quyền của thủ tướng chính phủ trong giải quyết khiếu nại.
Thủ tướng chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành chính Nhà nước
cao nhất. Với tư cách đó thủ tướng chính phủ có trách nhiệm tổ chức, chỉđạo
quản lý hoạt động của các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà nước
nhằm đảm bảo cho các quy định của Pháp luật được thi hành thống nhất từ
TW đến địa phương. Theo Hiến pháp 1992 và luật tổ chức chính phủ còn
quy định trách nhiệm của thủ tướng chính phủ trong việc tổ chức và chỉđạo
công tác giải quyết khiếu nại , tố cáo. trên cơ sở quy định này, luật khiếu nại
tố cáo năm 1998 đã quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ tướng
chính phủ tại điều 28 như sau:
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đối với:
Khiếu nại mà Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộđã giải quyết
nhưng còn có khiếu nại, trừ khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại
cuối cùng;
Khiếu nại đặc biệt phức tạp, liên quan đến nhiều địa phương, nhiều lĩnh
vực quản lý Nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền xem xét lại quyết định giải quyết
khiếu nại cuối cùng có vi phạm Pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
b) thẩm quyền và trách nhiệm của tổ chức thanh tra Nhà nước trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
- Tham mưu cho thủ trưởng cùng cấp giải quyết những khiếu nại của thủ
trưởng cùng cấp.
- Giải quyết các khiếu nại mà cấp dưới trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp đã
giải quyết nhưng còn khiếu nại.
- Kháng nghị các quyết định, khiếu nại của tổ chức thanh tra cấp dưới trực
tiếp khi phát hiện vi phạm pháp luật.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 1999 Các tổ chức thanh tra Nhà
nước đã giúp lãnh đạo cùng tiếp nhận, phân loại và xử lý 180. 92 vụ việc
gồm 152. 825 khiếu nại, 25. 909 tố cáo, 1785 kiến nghị phản ánh. Riêng cơ
quan thanh tra Nhà nước tiếp nhận xử lý 31. 292 đơn thư vượt cấp lên trung
ương trong đó có 12. 774 vụ việc đủđiều kiện xem xét gồm 10. 041 khiếu
nại và 945 tố cáo, 1. 042 kiến nghị và 716 phản ánh.
Theo báo cáo của nghành thanh tra. Năm 2000 cơ quan hành chính đã thụ
lý 204. 436 vụ thuộc thẩm quyền trong đó có 168. 741 khiếu nại và 35. 695
tố cáo. Tổng số vụ khiếu lại tố cáo tăng 13% so với năm 1999, các cơ quan
hành chính Nhà nước cũng đã xử lý kỷ luật hàng trăm cán bộ công chức có
sai phạm và một số vụ việc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự (Thanh tra
Nhà nước, báo cáo tổng kế năm 2000). Tình hình khiếu nại chủ yếu tập
trung vào các vấn đềđất đai, nhà cửa, giải phóng mặt bằng, các chính sách xã
hội, việc làm. . .
Gần đây tình hình khiếu nại, tố cáo tiếp tục gia tăng, có biểu hiện không
bình thường, có nhiều đoàn đông người ởđịa phương lên trung ương, đến
nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nơi hội họp khiếu nại
với thái độ gay gắt. một số người ở nhiều cơ sở khác nhau, tổ chức liên kết
với nhau để kéo đi khiếu kiện.
Trước tình hình khiếu kiện diễn biến như trên, thi hành Pháp lệnh khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1991; Nghị quyết Trung Ương 8 Khoá VII;
Nghị Trung Ương 3 khoá VIII; chỉ thị 21/CT-TW ngày 10/10/1997 của Bộ
Chính trị, chính phủđã ra nhiều chủ trương và tập trung chỉđạo các cấp các
nghành xem xét giải quyết vừa khẩn trương vừa thận trọng, nhất là những vụ
khiếu kiện đông người, phức tạp; đã ban hành Nghịđịnh 38/HĐBT ngày