Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐINH THỊ GIANG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ
BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ
RA HOA CỦA LAN HỒ ĐIỆP (PHALAENNOPSIS)
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐINH THỊ GIANG
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ
BIỆN PHÁP KỸ THUẬT ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ
RA HOA CỦA LAN HỒ ĐIỆP (PHALAENNOPSIS)
Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số :60.62.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGÔ XUÂN BÌNH
THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa và có nhiều loài hoa
lan quý được thế giới biết đến. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, Việt
Nam có tới trên 1100 loài lan và còn có thể có nhiều hơn nữa.
Ở nước ta, ngành trồng hoa lan đang bước đầu phát triển và vươn lên
chiếm lĩnh thị trường. Trồng hoa lan vừa là một thú chơi tao nhã mà cũng vừa
đem lại lợi ích kinh tế cho người trồng lan để không những phục vụ nhu cầu
trong nước mà còn cả cho xuất khẩu.
Nhưng hiện nay trong thực tế sản xuất hoa ở của chúng còn ít về số
lượng và chủng loại, sản xuất thì nhỏ lẻ, diện tích lại chưa nhiều, thiếu các
giống hoa đẹp, lạ mắt nhất là cây hoa lan Hồ Điệp, các biện pháp kỹ thuật
đồng bộ chưa được áp dụng nhiều vào trong sản xuất. Các loại hoa đẹp lạ mắt
chủ yếu phải nhập từ Trung Quốc với giá thành cao.
Thái Nguyên cũng là một trong những tỉnh có điều kiện tự nhiên để
phát triển ngành trồng lan. Trong quá trình điều tra và nuôi trồng thử nghiệm
các loại lan tại tỉnh Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy lan Hồ Điệp có khả
năng phát triển thuận lợi về điều kiện tự nhiên việc phát triển lan tại tỉnh Thái
Nguyên còn nhiều khó khăn: chưa có đơn vị chuyên sâu nghiên cứu về lan,
chưa cung cấp được nguồn lan tại chỗ, kỹ thuật chăm sóc còn yếu kém, đặc
biệt chưa quan tâm nhiều đến điều kiện nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm làm cho
chất lượng của hoa lan Hồ Điệp chưa cao.
Tình trạng trên đặt ra vấn đề cần giải quyết trước mắt và lâu dài là tìm
hiểu kỹ thuật tác động đến quá trình sinh trưởng và phát triển để tạo cho cây
hoa lan hồ điệp có màu sắc đẹp, có độ bền cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
2
Cần điều tra, phân loại và đánh những biện pháp kỹ thuật phù hợp cho
cây hoa, giống hoa thích hợp với điều kiện sản xuất tại địa phương. Trên cơ
sở đó có thể tìm ra những biện pháp kỹ thuật phù hợp với điều kiện sản xuất,
nhằm nâng cao giá trị kinh tế và tăng thu nhập cho người trồng hoa.
Xuất phát từ tình hình đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu ảnh hƣởng của một số biện pháp kỹ thuật đến sinh trƣởng
và ra hoa của lan Hồ Điệp Phalaennopsis” để đáp ứng nhu cầu về hoa ngày
càng cao của người tiêu dùng.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật đến sinh trưởng và
ra hoa của cây lan Hồ Điệp.
3. Yêu cầu nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng và ra hoa của
cây lan Hồ Điệp.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể đến sinh trưởng và ra hoa của cây
lan Hồ Điệp.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ che ánh sáng đến sinh trưởng và ra
hoa của cây lan Hồ Điệp.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học về khả
năng sinh trưởng và ra hoa của cây lan Hồ Điệp tại Thái Nguyên.
- Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong giảng dạy, nghiên cứu
về hoa lan Hồ Điệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
3
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả đề tài góp phần giải quyết yêu cầu thực tế sản xuất của các hộ
nông dân, các doanh nghiệp trồng hoa lan để lựa chọn các biện pháp kỹ thuật
tốt nhất trong việc nuôi trồng lan Hồ Điệp.
Tạo tiền đề thúc đẩy nghề trồng hoa lan ở Thái Nguyên, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Giới thiệu chung về cây hoa lan
1.1.1 Nguồn gốc của hoa lan
Ở Châu Á, danh từ hoa lan có từ xa xưa trong Tứ Thư, Ngũ Kinh và cả
trong Kinh Dịch của Bách Gia Chư Tử (Trung Quốc 551 - 479 TCN). Khổng
Tử đã hết lời ca ngợi hoa lan và ông cũng là người coi lan là vua của các loài
hoa. Nói tới hoa lan ta không thể không nhắc tới Trung Quốc. Theo
Bretchacidor thì từ đời vua Thần Nông (2800 năm TCN) ngoài sử dụng làm
cây cảnh một số loài lan rừng này còn được dùng làm thuốc chữa bệnh.
Quyển “Dược thảo và phương pháp dưỡng sinh” của Mao Siang ở đời nhà Tống,
Trung Quốc (960 - 1279) đã trình bày rất rõ những công dụng của nhiều loài
lan thuộc chi Dendrobium. Vào đời nhà Minh (1368 - 1644) hoa lan đã được
họa sỹ nổi tiếng của Trung Quốc vẽ tranh tạo nên những tác phẩm nghệ thuật
phục vụ cho trang trí (dẫn theo Nguyễn Tiến Bân, 1997) [4].
Hoa lan đa số mọc tại vùng nhiệt đới, đã được các thuyền trưởng, lái
buôn, các nhà truyền giáo, khách du lịch mang về nên người Châu Âu biết
đến rất muộn (Leonid V. Averyanov, 2003)[25]. Pharatus (376 - 285 TCN) -
cha đẻ của ngành lan học - là người đầu tiên dùng từ Orchid trong tác phẩm
“Nghiên cứu thực vật”. Sau đó Robut Bron (1773 - 1858) (dẫn theo Hoàng
Ngọc Thuận, 2003) [17] là người đầu tiên phân biệt rõ ràng giữa họ lan và các
họ khác. Năm 1794, ở Anh người ta đã biết đến 15 loài lan nhiệt đới.
Tuy nhiên một nghiên cứu đăng trên tạp chí Nature đã chỉ ra rằng
nguồn gốc họ lan có xuất phát lâu đời hơn so với dự tính ban đầu, có lẽ
khoảng 76 - 84 triệu năm trước. Nói cách khác, loài lan có thể cùng tồn tại với
khủng long. Một con ong của loài ong không ngòi tuyệt chủng, với tên khoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
5
học Proplebeia dominicana, được tìm thấy mắc trong hổ phách thế Miocen
khoảng 15 - 20 triệu năm trước. Con ong này mang phấn hoa của một loài lan
trước đây không rõ Meliorchis caribea trên các cánh của nó. Đây là chứng cứ
đầu tiên về lan hóa thạch cho tới nay. Loài lan tuyệt chủng M. caribea này
được đặt trong tông Cranichideae, phân tông Goodyerinae (phân họ
Orchidoideae) [4].
Người Việt Nam biết đến lan từ vẻ đẹp thuần khiết của những bông
hoa, những vị thuốc chữa bệnh được lưu truyền trong dân gian từ đời này
qua đời khác. Vua Trần Anh Tông thích sưu tầm các loài hoa đã lập nên
“Ngũ Bách Viên” với 500 loài lan quý. Vườn lan của Lữ Hồng Chiêu ở
Phương Thanh Hà - Thăng Long gồm toàn những loài lan quý hiếm và có
hương thơm ngào ngạt. Đối với người Việt Nam hoa lan tượng trưng cho sự
trang trọng và thanh cao. Những người chơi lan chủ yếu là những người giàu
có, những Nho sĩ, cụ già nhàn rỗi… Mục “Hoa thảo” trong “Vũ trung tuỳ bút”
của Phạm Đình Hổ đã mô tả nhiều loài hoa như Thạch hoa, Thanh lan, Đông
lan, Kiết lan đồng thời có nói rõ kỹ thuật trồng lan. Đặc biệt trong sách về
cây thuốc của Hải Thượng Lãn Ông có nói đến những cây lan làm thuốc
chữa bệnh (Việt Chương; Nguyễn Việt Thái, 2002) [5]. Tuy nhiên dấu vết về
buổi đầu nghiên cứu lan ở Việt Nam không rõ rệt, có lẽ người đầu tiên khảo
sát về lan ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ 17 là nhà truyền giáo người Bồ
Đào Nha - Joanisde Loureiro. Nhưng chỉ sau khi người Pháp đến Việt Nam
thì mới có những công trình nghiên cứu đáng kể. F. Gagnepain và A.
Ginillaumin mô tả 70 chi gồm 101 loài lan cho cả ba nước Đông Dương
trong cuốn “Thực vật chí Đông Dương” do H. Lecomte chủ biên xuất bản
năm 1932 đến 1934. Đến năm 1972, Phạm Hoàng Hộ trong bộ “Cây cỏ miền
Nam Việt Nam” (Quyển II) [8] đã mô tả kèm hình vẽ 289 loài lan gặp ở Việt
Nam. Năm 1993 ông lại công bố có 755 loài lan ở nước ta trong cuốn “Cây
cỏ Việt Nam” (Quyển III) [8].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
6
1.1.2 Vị trí phân bố cây hoa lan
Họ lan là một họ có tính chất toàn cầu, chúng xuất hiện và có mặt mọi
nơi trên trái đất nhưng có khoảng 4/5 tập trung ở các vùng nhiệt đới. Những
vùng khí hậu khắc nghiệt như khu vực gần các địa cực thuộc Bắc cực và Nam
cực người ta vẫn thấy sự xuất hiện của hoa lan. Tuy nhiên số lượng địa lan ở
đây rất ít ỏi chỉ có một vài loài địa lan với sức sống vô cùng mạnh mẽ. Ở các
vùng Ôn Đới hoa lan bắt đầu phong phú hơn, phân bố nhiều loài địa lan sống
sát mặt đất. Nó phân bố từ 68
0
vĩ Bắc đến 56
0
vĩ Nam, nghĩa là từ gần cực Bắc
như Thụy Điển, Alaska xuống tận các đảo cuối cùng cực Nam ở Australia
(Việt Chương; Nguyễn Việt Thái, 2002)[5].
Ở Châu Á, các nước Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam… có Hoàng
Thảo (Dendrobium), Hồ Điệp (Phalaenopsis), Phượng Vỹ (Renanthera). Các
nước Châu Mỹ như Venezuela, Colombia… có các chi Cattleya, Miltonia…
Theo Presley (1951) thì vùng Châu Á nhiệt đới có 250 chi và 6.800
loài, trong đó chi Dendrobium có 1.400 loài, chi Phalaenopsis có 35 loài, chi
Vanda có 60 loài (dẫn theo Nguyễn Tiến Bân, 1997) [4].
Theo Briger (1971), vùng trung sinh Bắc bán cầu có 75 chi và 900 loài.
Vùng trung sinh Nam bán cầu có 40 chi và 500 loài, toàn Châu Âu có khoảng
120 loài và Bắc Mỹ khoảng 170 loài (dẫn theo Nguyễn Tiến Bân, 1997) [4].
Theo R.L.Dresler (1981) ở Châu Mỹ nhiệt đới có 306 chi và 8.266 loài.
Trên thế giới có một số nước tập trung nhiều loài như Colombia có 1.300 loài
và Tân Ghinê có 1.450 loài (dẫn theo Phan Thúc Huân, 1989)[10].
Vào năm 1981 Presley cho rằng: Châu Á nhiệt đới, đặc biệt Đông Nam
Á có khoảng 250 chi và 6.800 loài chủ yếu là Dendrobium, Vanda Châu Mỹ
nhiệt đới có khoảng 306 chi và 8.266 loài thuộc các loại như Cattleya,
Epidendron Châu Phi có rất ít lan do khí hậu không thích hợp. Châu Đại
Dương có các loại lan phân bố rộng rãi như Dendrobium, Cymbidium Các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
7
vùng Ôn Đới thuộc Châu Âu, Mỹ, Á có số lượng loài cũng không nhiều do
khí hậu khắc nghiệt (dẫn theo Hoàng Ngọc Thuận) [17].
Theo Trần Hợp (1990) [9] hệ thực vật họ Phong lan nước ta vô cùng
phong phú, chúng phân bố từ Bắc vào Nam. Một số loài chỉ xuất hiện ở các
tỉnh phía Bắc, một số khác chỉ phân bố ở các tỉnh phía Nam và một số ít phân
bố rộng từ Bắc vào Nam làm cho sự phân chia về phân bố khá phức tạp. Tuy
nhiên có thể sơ bộ chia sự phân bố đó làm 6 khu vực sau:
- Khu Đông Bắc Bộ: đây là nơi có vĩ độ cao và khí hậu lạnh nhất nước
ta, tập trung một số loài lan Á nhiệt Đới, nhiệt Đới như Cymbidium,
Phalaenopsis, Vanda, Paphiopedium, Dendrobium
- Khu Tây Bắc Bộ: nằm ở vị trí có vĩ độ cao, tuy nhiên có nhiều dãy núi
che chắn và có gió Lào vào mùa hè nên các loài lan ở đây chịu nóng tốt hơn
như: Eria, Bulbophylum, Rhynchostylis, Dendrobium
- Khu Trường Sơn Bắc: đây là vùng chuyển tiếp của khu hệ phong lan
miền Bắc và miền Nam. Một số loài chủ yếu: Habenaria, Phaius,
Flickingeria, Dendrobium
- Khu Trường Sơn Nam: do địa hình chia cắt nhiều nên các loài lan
phân bố ở đây rất phức tạp, có những loài nhiệt Đới và Á nhiệt Đới, đặc biệt
có loài chịu khô, nóng kéo dài như: Eria, Cleisostoma, Liparis , loài chịu ẩm
như Bromheadia, Calanthe
- Khu đồng bằng miền Nam: khí hậu ở đây nhiệt Đới với 2 mùa mưa và
khô rõ rệt. Số lượng loài phong phú, tập trung chủ yếu các loài:
Bulbophyllum, Acampe, Dendrobium, Eria
- Khu đảo: các loài chủ yếu: Bulbophylium, Apostasia, Liparis, Eria
1.1.3 Phân loại hoa lan
Năm 1753, Linnê đã dùng luôn danh từ Orchid để chỉ các loài lan. Đến
năm 1836, John Lindley (1779 - 1865) dùng danh từ Orchid để chỉ chung cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
8
các loài lan và từ đó các loài lan được xếp thành một họ trong hệ thống phân
loại gọi là Orchidaceae. Ông công bố, sắp xếp các tông thuộc họ lan và tên
của họ lan được dùng cho đến ngày nay (dẫn theo Trần Văn Bảo, 2001)[1].
Theo Taktajan (1980) họ lan được chia thành 3 họ phụ, tuy nhiên theo
phân tích đầy đủ và chuyên sâu đặc tính di truyền của các nhà khoa học đã
chia họ lan thành 6 họ phụ (dẫn theo Trần Hợp, 1990) [9].
- Apostasicideae - Orchidadeae
- Cypridicideae - Epidendroideae
- Neottioideae - Vandoideae
Theo Leonid V. Averyanov & Anna L. Averyanova (2003)[25] Việt Nam
hiện nay người ta đã biết được 897 loài thuộc 152 chi. Chúng chiếm khoảng 75 -
80% trong tổng số loài lan ước tính có ở nước ta. Trong đó một số chi có giá trị
kinh tế lớn như Aerides (có 7 loài); Cymbidium (24 loài); Dendrobium (có 107
loài); chi Paphiopedilum (có 18 loài) và Rhychotilis (có 3 loài)
1.1.4 Giá trị kinh tế và sử dụng cây lan
Từ thời xa xưa đến nay, hoa lan luôn được con người ngưỡng mộ nhờ
có vẻ đẹp rực rỡ, quý phái, hương thơm kín đáo nhưng lại rất tao nhã và thanh
cao. Trước đây hoa lan được xem là loài quý hiếm, nên thú chơi hoa lan
thường chỉ dành cho vua chúa hoặc giới thượng lưu. Ngày nay chơi lan đã
được nâng lên thành nghệ thuật và nghề trồng lan đã được phát triển thành
ngành công nghiệp có lợi nhuận cao. Cách sử dụng cũng rất đa dạng, có thể
dùng cắm lọ nhờ cành dài, cứng, hoa đẹp và lâu tàn hoặc dùng để trồng chậu,
trưng bày phòng khách, dưới mái hiên nhà, bên cạnh lồng chim [10].
Ngoài việc phục vụ các nhu cầu giải trí, thưởng thức cái đẹp của con
người, phong lan đồng thời cũng đã tạo ra được một nguồn lợi kinh tế quan
trọng. Theo các chuyên gia về lan, nghề trồng lan đã đem lại lợi nhuận không
nhỏ cho người dân. Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
9
thôn, nếu trồng phong lan cắt cành Dendrobium và Mokara, mỗi ha đất trồng
có thể thu nhập 500 triệu đến 1,0 tỷ đồng/năm, cao hơn nhiều lần so với trồng
lúa và một số hoa màu khác. Ngoài ra, nếu lan được dùng cho xuất khẩu thì
lợi nhuận thu được còn lớn hơn nhiều [6].
Trong những năm gần đây xuất khẩu hoa lan Việt Nam tăng mạnh.
Chín tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hoa phong lan lại tăng 218%
so với tháng 8/2008, đạt 61,0 nghìn USD. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu
hoa lan tiềm năng của chúng ta [6].
1.2 Điều kiện trong nuôi trồng hoa lan
1.2.1 Yêu cầu nhiệt độ
Theo Charles Morden Fitch (1981) căn cứ vào nhiệt độ có thể chia họ
lan thành 3 nhóm (dẫn theo Nguyễn Công Nghiệp, 2000)[15]:
+ Nhóm lan ôn đới: (từ vĩ độ 28 - 40
0
) gồm những loài lan chịu được
nhiệt độ ban ngày trong khoảng 18 - 24
0
C, và ban đêm trong khoảng 13 -
18
0
C. Những cây lan này xuất xứ từ vùng hàn Đới, ôn Đới và khu vực núi cao
vùng nhiệt Đới (Lycaste, Cymbidium ).
+ Nhóm lan cận nhiệt đới: (vĩ độ từ 16 - 21
0
) gồm những loài lan thích
hợp với nhiệt độ ban ngày trong khoảng 21 - 30
0
C, và ban đêm trong khoảng
16 - 21
0
C (Cattleya, Dendrobium, Oncidium ).
+ Nhóm lan nhiệt đới: (vĩ độ từ 12 - 15
0
) gồm những loài lan thích hợp
với nhiệt độ ban ngày trong khoảng 21 - 35
0
C, và ban đêm trong khoảng 18 -
24
0
C. Những loài lan này thường có nguồn gốc từ vùng nhiệt Đới (Vanda,
Aerides, Phalaenopsis ).
Ngoài yêu cầu về nhiệt độ trung bình thì sự chênh lệch nhiệt độ ngày
đêm cũng ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng phát triển của phong lan. Sự chênh
lệch càng lớn là điều kiện lý tưởng để trồng lan vì cây tăng cường độ quang
hợp vào ban ngày và giảm cường độ hô hấp vào ban đêm do đó cây tích lũy
được chất khô nhiều hơn (Hoàng Ngọc Thuận, 2003) [17].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
10
Theo Trần Hợp (1990) [9], căn cứ vào yêu cầu nhiệt độ cũng chia
Phong lan Việt Nam thành 3 nhóm:
+ Lan nhiệt Đới: từ Nam Trung bộ trở vào, nhiệt độ trung bình năm
trên 23
0
C.
+ Lan Á nhiệt Đới: chủ yếu ở vùng núi cao Bắc Việt Nam. Nhiệt độ
trung bình năm chỉ vào khoảng 10 - 12
0
C.
+ Lan trung sinh: phân bố ở vùng núi phía Bắc và Tây nguyên trung
Nam bộ. Nhiệt độ trung bình năm 13 - 15
0
C.
1.2.2 Ánh sáng
Tuỳ theo các loài Phong lan khác nhau mà yêu cầu sống cần ánh sáng
nhiều hay ít. Tuy nhiên không loài phong lan nào không cần ánh sáng vì lá
cây cần ánh sáng để quang hợp, tạo lên chất hữu cơ để nuôi cây. Phong lan có
thể chia thành 3 nhóm (Nguyễn Công Nghiệp, 2000) [15]:
- Nhóm ưa sáng có thể chịu được 90 - 100% ánh sáng trực tiếp như các
loài: Vanda, Arachnis, Renanthera
- Nhóm chịu bóng chỉ cần 30 - 40% cường độ ánh sáng như
Phalaenopsis, Paphiopedilum
- Nhóm trung sinh cần khoảng 50% cường độ ánh sáng như Dendrobium,
Eria, Bulbophyllum
1.2.3 Yêu cầu về độ ẩm
Độ ẩm là yếu tố vô cùng cần thiết cho lan sinh trưởng và phát triển. Độ
ẩm quá thấp cây sẽ cây sẽ còi cọc, sinh trưởng phát triển kém, độ ẩm quá cao
tạo môi trường cho nấm bệnh phát triển. Ẩm độ (của vườn trồng lan) lý tưởng
cho hầu hết các loài lan là từ 40 - 70% (Trần Duy Quý, 2005) [16]. Độ ẩm của
giá thể (chậu trồng) lan cần chú ý 1 ướt 1 khô vì rễ phong lan không chịu
được úng lâu ngày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
11
1.2.4 Yêu cầu về độ thông thoáng
Theo Nguyễn Công Nghiệp (2000) [15] độ thoáng gió là một trong
những đặc tính quan trọng về sinh thái của cây lan. Trong điều kiện tự nhiên,
các loài hoa lan thường mọc trên các cành cao, ở tầng giữa của rừng. Cây lan
ít khi mọc trên các cây của tầng trên và gần mặt đất, bởi lẽ tầng trên thì gió
quá mạnh và độ ẩm thấp, gần mặt đất thì sự thông gió kém và độ ẩm cao, tầng
giữa với độ ẩm, ánh sáng và sự thông gió vừa phải thích hợp cho nhiều loại
lan sinh trưởng phát triển. Vì vậy, đối với nhà vườn, lựa chọn địa điểm thiết
kế vườn thì yếu tố thoáng gió là một trong nhiều yếu tố quan trọng.
1.2.5 Yêu cầu dinh dưỡng
Theo các tác giả Ajchara-Boonrote (1987) [23], dinh dưỡng đối với cây
lan hết sức quan trọng, tuy nó không đòi hỏi số lượng lớn nhưng phải đầy đủ
các thành phần dinh dưỡng. Khi đầy đủ dinh dưỡng cây tươi tốt, ra nhiều hoa,
hoa to đẹp, bền, thiếu dinh dưỡng cây còi cọc, kém phát triển, không ra hoặc
ít có hoa. Lan nói chung và phong lan nói riêng cần 13 chất dinh dưỡng
khoáng, thuộc các nhóm đa, trung và vi lượng. Dinh dưỡng đa lượng gồm:
đạm (N), lân (P), kali (K). Dinh dưỡng trung lượng gồm: lưu huỳnh (S),
magiê (Mg) và canxi (Ca). Dinh dưỡng vi lượng gồm: sắt (Fe), kẽm (Zn),
đồng (Cu), mangan (Mn), bo (B), molypđen (Mo) và clo (Cl.
1.3 Đặc điểm thực vật học của cây hoa lan
1.3.1 Rễ cây
Tùy thuộc vào từng chi, từng loài, điều kiện và môi trường sống mà rễ
của chúng phát triển các dạng thân rễ nạc, dài, ngắn, mập mạp hay nhỏ bé,
phân tán hay tập trung.
Đa số rễ của các loài lan có hình trụ, có trục chính bên trong và mô xốp
bao quanh trên bề mặt rễ có 1 lớp nhung làm nhiệm vụ hút nước. Đầu rễ của
phong lan có màu trắng ngà và có nhiều công dụng khác nhau: hút nước và
muối khoáng, bám chặt vào các vật mà chúng tiếp xúc, đảm bảo cho cây lan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
12
có thể bám chặt trên ngọn cây cao, các sườn núi mà không bị gió mạnh cuốn
đi. Miền chóp rễ có chứa chất diệp lục nên rễ cũng thực hiện một phần chức
năng quang hợp (Nguyễn Công Nghiệp, 2008) [15].
1.3.2 Thân cây
Nhờ khả năng thích nghi cao và sự phong phú đa dạng về chủng loại
mà phong lan có mặt ở khắp nơi trên trái đất. Chúng là những cây thân thảo
sống lâu năm ở dưới đất gọi là địa lan (Terestrials), trong các kẽ đá gọi là
thạch lan (Lithophyte), sống bám trên những thân gỗ lớn với bộ rễ khí sinh gọi
là phong lan (Epiphytes), hoặc sống trên các lớp rêu hay gỗ mục gọi là hoại
lan (Saprophytes) (Trần Duy Quý, 2005) [16].
Mỗi loài phong lan khác nhau sẽ có hình dáng chiều dài, đường kính
thân cũng khác nhau. Có loài trên thân mang rất nhiều lá nhưng cũng có loài
có rất ít hoặc không có lá (Trần Văn Bảo, 2001) [1].
Theo Pfizer (1882) thân lan có thể xếp thành hai nhóm (dẫn theo
Nguyễn Tiến Bân, 1997) [4].
Nhóm lan đa thân (Sympodial): gồm các chi lan Kiếm (Cymbidium),
lan Hài (Paphiopedilum), lan Vũ Nữ (Oncidium), Cát lan (Cattleya), lan
Hoàng Thảo (Dendrobium) cây trong nhóm này thường không tăng trưởng
liên tục mà có thời gian nghỉ sau những mùa tăng trưởng. Thông thường, phần
nhìn thấy của cây lan chỉ có lá, hoa và cuống. Chúng được mọc nên từ một
đoạn phình to, giống như củ hành nên người ta gọi là giả hành. Giả hành rất
phong phú về hình dạng đặc trưng cho loài. Giả hành có thể rất dài như
Hoàng Thảo Phi Điệp (có thể dài tới 1,0m tùy từng loài), có thể ngắn hình
thoi như Hoàng Thảo Vảy Rồng, cũng có thể nhỏ như lan Kiếm [4]
Nhóm lan đơn thân (Monopodial): gồm các chi Vanda, Hồ Điệp
(Phalaenopsis), Phượng Vỹ (Renanthera), Ngọc Điểm (Rhychostylis), Giáng
Hương (Aerides) thân lan đơn thân, phát triển theo chiều thẳng đứng. Khi
đỉnh bị tổn thương, chồi bên xé rách bọc lá để hình thành chồi mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
13
1.3.3 Lá cây
Cũng như thân, lá của họ lan có hình dạng và kích thước rất khác nhau.
Lá dạng đơn nguyên, dày, cứng hay mềm, có gân lá nổi rõ, có loài lá biến
thành vẩy hay tiêu biến hoàn toàn. Lá lan có dạng bầu dục hay hình giáo
thuôn dài, ít khi có cuống và thường có bẹ. Một số loài lan có lá dạng hình trụ
dày nhọn hay phiến lá có rãnh [4].
Đa số các loài phong lan đều là cây tự dưỡng nên hệ thống lá của chúng
phát triển tương đối đầy đủ. Lá lan thường rất bền, nhiều loài lan có lá rất dai
và dày dặn có thể trữ nước và chất dinh dưỡng, nhưng cũng có những loài lá
mềm mại thướt tha, có một số loài rụng lá vào mùa khô hanh để giảm bớt sự
thoát hơi nước. Tùy vào mỗi loài lá có thể mọc đơn độc, xếp dày đặc ở gốc
hoặc xếp đều đặn trên thân, trên giả hành.
Lá thường có màu xanh bóng, đậm và nhẵn, cũng có những loài lá có
điểm những vệt vàng hay xanh nhạt (Nguyễn Tiến Bân, 1997) [4]. Lá lan
thường mọc về hai phía của thân cây. Ở lan đơn thân, lá thường mọc vuông
góc với nhau cùng một đốt trên thân cây như Vanda, Bò Cạp, Phượng Vĩ
riêng lan Tai Trâu mọc từ kẽ lá.
1.3.4 Hoa
Metchnikov (1903) đã coi sự thụ phấn của hoa phong lan là một trong những
mẫu mực kỳ lạ trong những hiện tượng hài hoà của tự nhiên. Do đó, cấu tạo của hoa
phong lan cực kỳ phong phú và hấp dẫn (dẫn theo Trần Hợp, 1990) [9].
Hoa phong lan có cấu trúc cơ bản của hoa mẫu 3, là kiểu hoa đặc trưng
ở lớp một lá mầm nhưng đã biến đổi rất nhiều để hoa có đối xứng qua một
mặt phẳng. Bao hoa có 2 vòng, mỗi vòng 3 mảnh gồm: 3 cánh đài bên ngoài,
3 cánh hoa (2 cánh hoa bên, 1 cánh môi) và trụ hoa.
Cánh đài: có nhiều màu sắc và hình dạng khác nhau, dạng tròn như
Vanda, dạng nhọn như Cattleya cả 3 cánh đài có thể giống nhau hoặc cánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
14
đài lưng hơi khác với 2 cánh đài bên như các loài thuộc chi lan Hài, đôi khi cả
3 cánh đài đều dính lại với nhau như loài Hoàng Thảo Báo Hỉ.
Cánh hoa: là bộ phận quan trọng nhất để tạo nên vẻ đẹp quyến rũ của
hoa lan. Hai cánh hoa bên rất giống về màu sắc, kích thước với cánh đài rời
hay dính với cánh đài bên [9].
Cánh hoa phía dưới (cánh môi) đây là bộ phận quyết định phần lớn giá
trị thẩm mỹ của hoa lan. Cánh môi rất đa dạng, xếp đối diện với cánh đài lưng
và có kích thước thường lớn hơn cả. Cánh môi có thể nguyên, chia thùy, khía
răng, có tua viền, hay chia cắt thành các sợi mảnh. Bề mặt cánh môi hoặc
nhẵn, có nhiều gân hay nổi lên các phần phụ đa dạng. Gốc cánh môi thường
mang tuyến mật.
Trụ hoa: nằm giữa bông hoa, có chứa cả nhị và nhụy. Đầu trụ là nắp
chứa hạt phấn. Ở hoa lan, hạt phấn được kết với nhau bằng một chất sáp tạo
thành những khối phấn, số lượng khối có thể là 2, 4, 6, 8 tuỳ loài. Khi hạt
phấn rơi vào đầu nhụy tạo nên sự thụ phấn, hoa héo đi nhanh chóng, bầu hoa
phình to thành quả lan. Nhụy gồm có một bầu hạ không có ranh giới rõ rệt với
cuống hoa và khi hoa nở bầu có 3 lá noãn dính với nhau thành 1 ô. Vòi nhụy
dính liền với nhị đực và có ba đầu nhụy trong đó có hai đầu bên làm nhiệm vụ
sinh sản (Trần Hợp, 1990) [9].
1.3.5 Quả
Quả lan thuộc dạng quả nang, khi quả chín sẽ nứt dọc theo 3, 6 khe.
Quả có dạng từ dạng quả cải dài đến dạng hình trụ ngắn, phình to ở giữa. Khi
chín, quả mở ra các hạt bị gió cuốn đi còn lại mảnh vỏ đính lại với nhau ở
phía gốc. Ở một số loài khi quả chín vỏ quả không nứt ra, hạt chỉ ra khỏi vỏ
khi vỏ này bị mục nát (Hoàng Ngọc Thuận, 2003)[17].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
15
1.3.6 Hạt
Số lượng hạt trong một quả là rất nhiều, hạt nhỏ li ti và nhẹ. Hầu hết là
không có chất nuôi dưỡng như các loại hạt khác. Có thể bị gió cuốn bay đi
khắp nơi nên khả năng phát tán rộng. Khối lượng toàn bộ hạt ở trong quả chỉ
bằng 1/10 - 1/1000 mg, trong khi không khí chiếm khoảng 76 - 79% thể tích
hạt. (Việt Chương; Nguyễn Việt Thái, 2002) [5].
Hạt cấu tạo bởi một khối chưa phân hoá. Sau 2 - 18 tháng hạt mới chín
tùy từng loài, phần lớn hạt đều chết vì không chứa chất dinh dưỡng, chúng chỉ
sinh sôi nảy nở khi gặp được loài nấm cộng sinh hỗ trợ chất dinh dưỡng. Vì
vậy, khả năng hạt nảy mầm thành cây là rất hiếm, chỉ có thể trong điều kiện
rừng ẩm ướt nhiệt đới (Hoàng Ngọc Thuận, 2003) [17].
1.4 Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1 Tình hình sản xuất hoa lan trên toàn thế giới
Trong những năm gần đây, nhờ các thành tựu khoa học và sự phát triển
về công nghệ sinh học được ứng dụng rộng rãi cùng với phương tiện giao
thông phát triển mạnh mẽ, việc xuất, nhập khẩu hoa lan ngày càng tăng với
quy mô rộng lớn.
Thái Lan là nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu lan với tổng thu nhập
68,20 triệu USD vào năm 1994 và lên đến 110,0 triệu USD năm 2003, chỉ
tính riêng 6 tháng đầu năm 2007, Thái Lan đã thu được hơn 70,0 triệu USD từ
việc xuất khẩu, diện tích trồng loại hoa này chiếm hơn 1/3 tổng diện tích các
loại hoa khác [6]. Vì vậy, trong suốt một thập kỷ qua, Thái Lan luôn giữ vững
vị trí Quốc gia xuất khẩu hoa lan lớn nhất thế giới. Người Thái đã biết biến
loài hoa đẹp và khó tính này thành một nguồn lợi đáng kể đối với thu nhập
Quốc gia. Hoa lan Thái Lan xuất khẩu phần lớn thuộc nhóm lan Dendrobium,
hơn 80% lượng hoa thuộc nhóm này trên thị trường thế giới có xuất xứ từ
Thái Lan. Hiện nay Thái Lan có khoảng hơn 1.000 giống lan với chất lượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
16
rất tốt và được xuất sang nhiều nước trên thế giới trong đó chủ yếu là Hà Lan
và Hoa Kỳ. Chính phủ Thái Lan đang nỗ lực để xúc tiến hoạt động quảng bá
ngành hoa nước này ra thị trường thế giới thông qua hội chợ triển lãm về
hoa[6]
Ở Singapore, nghề trồng hoa lan xuất khẩu trên quy mô lớn bắt đầu
năm 1987. Nhà nước đã thấy rõ tiềm năng xuất khẩu loại hoa này trên thị
trường thế giới nên đã mở rộng các trang trại trồng hoa phong lan. Năm 1992,
xuất khẩu đạt hơn 18 triệu USD, năm 1995 đạt 37,0 triệu USD, chiếm 12,0%
thị trường phong lan trên thế giới (Phan Thúc Huân, 1989) [10]. Chính phủ
Singapore đặt kế hoạch vào năm 2010, xuất khẩu lan đạt 100,0 triệu USD.
Ấn Độ đã đưa tiến bộ kỹ thuật cấy mô vào nghề trồng hoa lan để sản xuất
mỗi năm 10 triệu cây lan các loại. Mặt khác, Ấn Độ được xem là một nước có
nhiều giống lan nguyên thuỷ, khoảng 140 loài với hơn 1.300 giống. Mặc dù bị
khai thác triệt để trước đây, nhưng tới nay nhà nước đã hình thành các khu bảo
tồn bảo vệ các loài lan quí để phục vụ cho ngành trồng lan thương mại.
Hoa lan là loại hoa mới được thương mại hoá ở Mỹ. Tuy nhiên, chúng
đã chiếm được cảm tình của người tiêu dùng, doanh thu của chúng đem lại
tăng lên rất nhanh chóng. Năm 2006 với tổng giá trị thu thập từ một số loại
hoa chính đạt trên 800 triệu USD trong đó hoa lan chậu là một trong những
loại hoa được bán nhiều nhất (đứng thứ 2 sau hoa Trạng Nguyên) đạt 144,0
triệu USD [10]. Theo thống kê từ năm 1996 đến năm 2006 giá trị lan chậu
bán ra tăng 206,4%, Trạng Nguyên chỉ tăng 12,6% trong khi đó nhiều loại
hoa chủ lực trước đó lại không tăng đặc biệt nhiều chủng loại còn đạt giá trị là
-37,20% như hoa Hồng, Violet là -32,90%, Cúc là -18,60% [10]
Hà Lan đã đầu tư 20,0 triệu USD vào Ấn Độ để lắp đặt các thiết bị máy
móc… tạo điều kiện cho việc xuất khẩu hoa tại thị trường này.
Thị trường xuất khẩu hoa lan trên thế giới ngày càng mở rộng. Kim
ngạch thương mại hoa lan cắt cành trên thế giới năm 2000 đạt 150,0 triệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
17
USD, trong đó Nhật Bản là nước nhập khẩu hoa lan cắt cành đứng thứ nhất
thế giới, sau đó là Ý, tiếp theo là Pháp, Đức đứng thứ tư và thứ năm là Mỹ
(Griesbach, R.J, 2002) [24].
Vì có giá trị kinh tế cao nên rất nhiều nước đã tập trung vào việc nghiên
cứu hoa lan chất lượng cao để phục vụ cho thị trường trong nước và xuất
khẩu. Các nước như Thái Lan, Nhật Bản, Inđônêsia, Hà Lan đã đầu tư mạnh
cho các trang trại, công ty để sản xuất hoa chậu và hoa cắt. Họ tập trung chủ
yếu vào việc nhân nhanh lan sạch bệnh, hoa đẹp, có mùi thơm, đa dạng về
màu sắc và hình dạng để cung cấp cho hơn 50 nước trên thế giới. Do đó,
chúng ta có thể nói rằng sản xuất lan đã đem lại lợi nhuận rất cao cho các
nước đang phát triển và phát triển [10].
1.4.2 Tình hình sản xuất hoa lan ở Việt Nam
Theo thống kê năm 1993 tổng cộng diện tích trồng hoa của Việt Nam là
1.585 ha. Tuy nhiên, diện tích sản xuất hoa lan chỉ chiếm xấp xỉ 10,0%. Riêng
hoa lan nhiệt Đới, qua các năm từ 2003 - 2005 đã tăng từ 20,0 ha lên 50,0 ha
(tăng 150%). Xu hướng tiêu dùng hoa lan đã tăng lên đáng kể và dự đoán sẽ
tăng mạnh trong thập niên tới do Việt Nam đã là thành viên của tổ chức
Thương mại Thế giới WTO sẽ là yếu tố tăng mạnh đầu tư nước ngoài làm
tăng các dịch vụ du lịch, tổ chức hội nghị Quốc tế [10].
Hiện nay, mỗi năm Việt Nam vẫn phải chi hàng tỷ đồng để nhập phong
lan từ các nước láng giềng cho nhu cầu nội địa. Theo số liệu thống kê của
Tổng cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu phong lan cắt cành qua đường
chính ngạch của nước ta trong tháng 02/2007 là 26,515 nghìn USD, giảm
20,17% so với tháng 01/2007 nhưng vẫn tăng 51,76% so với tháng 12/2006.
Thị trường nhập khẩu lan cắt cành chính của Việt Nam trong thời gian qua là
Thái Lan với gần 100% lượng lan cắt cành. Chính vì vậy, không chỉ thị
trường xuất khẩu mà thị trường trong nước cũng rất tiềm năng cho người
trồng lan [10].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
18
Trong những năm gần đây xuất khẩu hoa lan Việt Nam tăng mạnh.
Chín tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hoa phong lan lại tăng 218%
so với tháng 8/2008, đạt 61,0 nghìn USD. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu
hoa lan tiềm năng của chúng ta [10].
Theo các chuyên gia, Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng lớn
trong sản xuất phong lan. Nhưng một thực tế hiện nay là: Trong khi nhu cầu
hoa lan nội địa và nhu cầu xuất khẩu đang ở mức cao thì Việt Nam vẫn phải
chi hàng tỷ đồng mỗi năm để nhập khẩu lan. Tìm giải pháp phát huy tiềm
năng của ngành lan Việt Nam là một trong những vấn đề được quan tâm trong
Đề án phát huy tiềm năng xuất khẩu rau hoa quả mà Bộ Thương mại đã và
đang triển khai hiện nay. [6]
Phong lan là giống cây trồng có đặc điểm sinh trưởng rất phù hợp với
điều kiện tự nhiên và khí hậu của Việt Nam. Với khoảng hơn 755 loại lan
hiện có cùng rất nhiều giống lan mới được lai tạo từ công nghệ nuôi cấy mô,
Việt Nam có nhiều tiềm năng trở thành nước sản xuất lan lớn trong khu vực.
Theo thống kê, hiện nhu cầu tiêu thụ hoa lan của Việt Nam là khá cao. Chỉ
tính riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003 doanh thu từ kinh doanh hoa
lan và cây cảnh mới chỉ đạt 200-300 tỷ đồng thì đến quý I năm 2006, con số
này đã tăng lên mức 400 tỷ đồng. Ngoài ra, các cơ sở kinh doanh hoa lan, cây
cảnh cũng tăng từ 264 cơ sở năm 2003 lên trên 1.000 cơ sở, với lương phong
lan tiêu thụ trung bình mỗi năm lên tới 1 triệu cây [10].
Trên thực tế, tình hình sản xuất phong lan hiện nay ở Việt Nam còn chưa
tương xứng với tiềm năng. Qua khảo sát, hiện mới chỉ có một số công ty lớn,
trong đó có những công ty nước ngoài trồng phong lan tại Đà Lạt, TP. Hồ Chí
Minh, Đồng Nai với diện tích khoảng 50-60 ha/doanh nghiệp. Một vài địa phương
khác cũng tiến hành trồng phong lan nhưng mới dừng ở quy mô gia đình, trên
diện tích từ vài m
2
đến vài nghìn m
2
, cá biệt có vài hộ trồng trên 1-2 ha chứ chưa
có các vùng quy hoạch trồng lan tập trung ứng dụng công nghệ hiện đại. [6]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
19
1.5 Một số kết quả nghiên cứu về hoa lan trên thế giới và ở Việt Nam
1.5.1 Một số kết quả nghiên cứu về hoa lan trên thế giới
Về công tác chọn, tạo giống
Trong nhiều năm qua , các nước tiên tiến đã sử dụng các kỹ thuật truyền
thống và hiện đại vào chọn tạo giống hoa nói chung và hoa lan nó i riêng đã
đạt được những kết quả rất khả quan, đặc biệt là trên một số giống lan công
nghiệp như Hồ Điệp, Vũ Nữ, Địa lan , từ đó ngành sản xuất hoa lan đã mang
lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho nền kinh tế của nhiều nước như Hà Lan,
Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan các phương pháp chủ yếu đã được thế giới
áp dụng gồm: lai hữu tính, xử lý đột biến, chuyển gen [10].
Ngoài việc lai tạo , các nhà nghiên cứu cũng quan tâm đến việc tạo các
giố ng hoa lan mớ i bằ ng phương phá p xử lý độ t biế n. Sử dụng tia tử ngoại với
cường độ thích hợp có tác dụng ngăn chặn sự phân chia NST trong quá trình
giảm phân dẫn đến hình thành tế bào không đầy đủ gây nên sự biến dị . Khi sử
dụng tia tử ngoại với cườ ng độ cao [19].
Các nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật
Năm 1844, Newman một nhà vườn người Pháp làm nảy mầm hạt lan
bằng cách rắc hạt lên các cục đất xung quanh gốc cây lan to và sự thành công
này được lan rộng nhưng chưa có lời lý giải cụ thể.
Đến năm 1904, Noel Bernard thực hiện phương pháp gieo hạt cộng sinh
với nấm để gây sự nảy mầm, ông nhận thấy rằng các cây lan con nảy mầm
trong rừng đều bị nhiễm nấm, ông đã cô lập các nấm ở rễ cây lan con và cấy
vào hạt lan, chính bằng phương pháp này ông là người đầu tiên làm cho 100%
hạt lan nảy mầm. Hans Burgff (1909) đã làm nảy mầm hạt lan trên môi trường
dinh dưỡng 0,33% đường saccarose trong điều kiện hoàn toàn bóng tối. Năm
1922, Lewis Krudso một nhà khoa học người Mĩ lại thành công trong việc gieo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
20
hạt ở môi trường thạch và ông nhận thấy rằng sự nảy mầm của hạt còn phụ
thuộc vào thời gian thu hái quả (dẫn theo Ajchara - Boonrote, 1987) [23].
Về biện pháp kỹ thuật bón phân cho lan thì theo công thức của Le
Comfle (1981) để kích thích cây ra rễ dùng phân có hàm lượng lân cao
(10:10:20). Khi cây ra hoa dùng loại phân có hàm lượng các chất là (6:30:30)
để hoa mập và tươi hơn (dẫn theo Trần Văn Bảo, 2001) [1].
Theo Le Coufle (1981) cho rằng: nước mưa, nước suối, nước giếng rất
tốt cho sự phát triển của lan rừng và độ pH thích hợp từ 5 - 6. Tuy nhiên cũng
có sự thay đổi tuỳ từng giống, với lan Hồ Điệp pH = 5,2; lan Hài pH = 6,5 -
7,0 (dẫn theo Nguyễn Công Nghiệp, 2005) [15].
1.5.2 Một số kết quả nghiên cứu về hoa lan ở Việt Nam
Kết quả chọn tạo giống
Hà Thị Thúy và cộng sự (2007) [21] đã đánh giá được các đặc điểm hình
thái và động thái ra hoa của 31 giống lan Hồ Điệp thuộc chi Phalaenopsis ở
Việt Nam và các giống nhập nội. Dựa vào phân tích các đặc điểm ưu việt của
mỗi giống, thiết kế sơ đồ lai và đã lai thành công một số cặp lai giữa lan Hồ
Điệp dại với lan Hồ Điệp truyền thống và lan Hồ Điệp nhập nội, và đã tạo
được vật liệu khởi đầu bằng phương pháp nuôi cây in vitro.
Không chỉ cá c cơ quan khoa họ c nghiên cứ u công tá c lai tạ o giố ng hoa
lan mà cả cá c cá nhân vớ i lò ng say mê và yêu thích hoa lan cũ ng đi sâu nghiê n
cứ u tạ o ra cá c giố ng hoa lan mớ i , điể n hình là Phan Trọng Dũng đã tiến hành
lai tạo các giống hoa lan bản địa với giống lan nhập nội, từ năm 1997 đến năm
2007. Anh đã lai tạo thành công 14 giống hoa lan mới, đã gửi 14 giống mới
mang tên tuổi của Việt Nam sang Hiệp hội lan Quốc tế ở Anh RHS và đã được
tổ chức này chấp nhận đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ 12 giống.
Kết quả nghiên cứu nhân giống, chăm sóc, điều kiện sinh trưởng
Các nghiên cứ u về nhân giố ng hoa lan đã đượ c thự c hiệ n ở nhiề u cơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
21
quan khoa họ c và đã đạ t đượ c nhữ ng thà nh công nhấ t đị nh .
Khi nghiên cứu Quy trình kỹ thuật nuôi trồng Địa lan (Cymbidium spp.)
cấy mô, Nguyễn Quang Thạch và cộng sự (2008) [19] đã xác định được thời
gian đưa cây ra ngoài vườn ươm tốt nhất ở đồng bằng là các tháng 1, 2, 3, 4,
5, 9, 10, 11, 12 và vùng núi là vào các tháng 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Giá thể cho
tỷ lệ sống cao, cây sinh trưởng phát triển tốt khi đưa ra vườn ươm là: dớn - xơ
dừa với tỷ với tỷ lệ 1:1. Chế độ phân bón luân phiên hợp lý có tác dụng tốt
đến sự sinh trưởng của cây so với bón đơn độc 1 loại phân bón. Chế độ bón
phân tốt nhất cho cây vườn ươm là: 5 lần N:P:K (30:10:10) + 1 lần N:P:K
(20:20:20) + 1 lần dinh dưỡng hữu cơ (sữa cá) + 1 lần vitamin tổng hợp.
Trong các công thức phối trộn giá thể thì công thức giá thể 1/2 rễ cây dương
xỉ +1/4 đất mùn + 1/4 phân dê (khô) là tốt nhất. Để cây phát triển hài hòa cân
đối thì công thức phân bón tốt nhất dùng cho cây ngoài vườn sản xuất là: 3
lần N: P: K (20:20:20) + 1 lần dinh dưỡng hữu cơ (sữa cá) + 1 lần vitamin
tổng hợp. Xử lý KH
2
PO
4
có ảnh hưởng tích cực đến sự tăng số lượng ngồng
hoa hình thành so với đối chứng.
1.6 Một số kết quả nghiên cứu về điều kiện để nuôi trồng hoa lan ở Việt Nam
1.6.1 Thiết kế vườn
Nếu chỉ có vài giò trồng để làm cảnh ta có thể treo chúng vào các chỗ
dâm mát, các gốc cây quanh nhà. Tuy nhiên nếu trồng với mục đích kinh
doanh, cần phải thiết kế một nhà lưới chắc chắn với bộ khung giàn có thể làm
bằng sắt hay hợp kim. Trên mái dàn dùng lưới đen che để làm giảm cường độ
ánh sáng chiếu vào cây, tránh ánh sáng trực xạ. Xung quanh phải làm hàng
rào bảo vệ có thể dùng các tấm lưới làm bằng thép để che xung quanh. Khi bố
trí treo lan trong vườn cần chú ý chọn hướng treo để tránh ảnh hưởng của gió
lộng và tránh ánh nắng trực tiếp từ buổi trưa đến khoảng 15h chiếu vào cây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
22
Vườn thường được làm theo hướng Bắc - Nam (Trần Văn Bảo, 2001) [1].
1.6.2 Cây giống
Cần tuyển chọn những giống, loài lan khỏe mạnh, không sâu bệnh.
Hiện nay có một số loài, chi đang có giá trị thương mại cao như chi Aerides,
Rhynchostylis, Dendrobium, Cymbidium, Vanda, Cattleya…[19].
1.6.3 Chậu và giá thể
Các loài lan khác nhau có các đặc tính khác nhau và chúng cũng thích
hợp với các loại giá thể khác nhau. Việc lựa chọn chất liệu và kích thước chậu
phụ thuộc vào độ tuổi và kích cỡ của cây. Tuy nhiên, vẫn có những chuẩn
mực chung để đánh giá một chậu trồng lan lý tưởng.
+ Kích thước chậu phù hợp với kích cỡ cây.
+ Chất liệu chậu phải phù hợp với từng loài, từng chi.
+ Chậu phải đảm bảo độ thoáng và thoát nước.
Các loại giá thể thường dùng để trồng lan như: vỏ cây, than hoa, xơ
dừa, mùn cưa (mùn của các loại cây có nhựa đắng không thể dùng để trồng
lan như: mùn gỗ lim, xà cừ, xoan, rễ bèo tây, rêu…). Ngoài ra còn có thể
trồng trên các gốc cây khô hay khúc gỗ như mít, nhãn, vú sữa, ổi… Tuy nhiên
trước khi cấy lan, các loại giá thể này cần được xử lý thuốc chống nấm để
đảm bảo không gây hại cho phong lan (Nguyễn Công Nghiệp, 2000) [15].
Đối với các loài lan có bộ rễ lớn như Tai Trâu, Đuôi Cáo… giá thể có
thể là những thân cây gỗ đã chết, chậu đất nung có các lỗ thoáng có bổ xung
vỏ cây hoặc than hoa vào chậu để giữ ẩm (Nguyễn Công Nghiệp, 2000) [15].
Với một số loài rễ nhỏ hơn như Phi Điệp, Kiều Vàng có thể ghép trên những
miếng dương xỉ, thân cây gỗ hoặc trồng trong chậu với những vật liệu thoáng
và có khả năng giữ ẩm.
1.6.4 Tưới nước
Cây hoa lan có thể còi cọc, kém phát triển khi không được cung cấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
23
đầy đủ các chất dinh dưỡng nhưng nó sẽ khô héo và chết khi thiếu nước. Nếu
thừa nước thì chúng cũng dễ bị thối, phát sinh bệnh tật và chết. Vậy, tùy loài,
tùy giá thể để điều chỉnh lượng nước tưới đảm bảo đủ độ ẩm cho phong lan
phát triển. Như các loại lan trồng trong chậu với vỏ cây hay than có thể tưới 2
- 3 lần 1 tuần. Nhưng nếu trồng trên miếng gỗ thì vào mùa hè cần tưới 2 - 3
lần/ngày. Cần ngưng tưới hoặc tưới rất ít vào mùa đông và cần đảm bảo khô
rễ trước khi trời tối (Nguyễn Thị Kim Lý, 2009)[13].
Mỗi loài lan khác nhau thì lại thích hợp với một độ ẩm khác nhau. Vì
vậy chế độ tưới cho chúng cũng phải khác nhau. Theo Goh và Arditti (1985)
đối với lan Hồ Điệp (Phalaenopsis), lan Hài (Paphiopedilum) cần tưới 2 ngày
1 lần. Tuy nhiên, nguyên tắc chung khi tưới cho cây phong lan cần chú ý phải
có lúc ướt, lúc khô (vì rễ lan thuộc loại khí sinh nếu để ướt lâu rễ cây không
hô hấp được sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây. Ngoài ra, tưới
nước cũng cần phải xem xét đến thời tiết và loại giá thể trồng [13].
1.6.5 Bón phân
Có hai cách để bón phân cho lan đó là sử dụng phân bón khô (phân chậm
tan) và sử dụng phân bón lỏng (phân bón lá). Trong đó phân bón lỏng thường
được sử dụng nhiều hơn bởi nó có nhiều ưu điểm hơn so với phân bón khô
(Trần Hợp, 1990) [9].
Hiện nay có các loại phân bón qua lá được sử dụng là phân vô cơ, phân
hữu cơ, phân phức hữu cơ có nguồn gốc từ EDTA và các aminoacid thủy
phân từ các chất hữu cơ giàu prôtêin.
- Cách sử dụng phân vô cơ: các loài khác nhau ở các giai đoạn sinh
trưởng khác nhau sẽ phù hợp với phân có thành phần và tỷ lệ khác nhau.
+ Ở thời kỳ cây con, những cây đang nảy chồi và những cây sau khi cắt
hoa nên sử dụng loại phân có hàm lượng đạm cao (30:10:10).
+ Bón theo công thức của Le Comfle (1981): để kích thích cây ra rễ