Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Lạm phát ở Việt Nam,thực trạng và các giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.87 KB, 25 trang )

Phần mở đầu
Lạm phát là một hiện tợng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị trờng.Nó
là một trong những hiện tợng quan trọng nhất của thế kỷ XXI và đụng chạm tới
mọi hệ thống kinh tế dù phát triển hay không.
Lạm phát đợc coi là một căn bệnh kinh niên của mọi nền kinh tế hàng hoá-
tiền tệ.Nó có tính thờng trực,nếu không thờng xuyên kiểm soát,không có những
giải pháp chống lạm phát thờng trực,đồng bộ và hữu hiểu thì lạm phát có thể xảy
ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế độ xã hội nào.
Trong thế kỷ XIX đợc đánh dấu là không có nạn lạm phát bởi giá cả tơng
đối ổn định(dù có những cơn sốt ngắn ) thì sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất
là thời kỳ gia tăng quá trình lạm phát với quy mô lớn.Từ sau năm 1945,không còn
có hiện tợng giá cả giảm nữa.Các cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 70 đã kéo
theo sự gia tăng trở lại lạm phát rất rõ,sau đó nhờ những cố gắng của các chính
sách ổn định mà một quá trình giảm lạm phát đã bắt đầu trong những năm 80.
Lạm phát gây ra nhiều tác hại cho nền kinh tế nh tình trạng khủng
hoảng,công nhân đình công đòi tăng lơng,giá nguyên liệu tăng đột biến,thảm hoạ
tự nhiên,chi phí sản xuất tăng
Nớc ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang kinh tế thị
trờng,vì vậy nghiên cứu lạm phát đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay để đánh
giá sức khoẻ của nền kinh tế nớc nhà.
Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về vấn đề lạm phát ở Việt Nam,thực
trạng và các giải pháp .
Em chỉ nêu ra đợc một số vấn đề nên không tránh đợc những khiếm
khuyết,rất mong đợc sự góp ý và bổ sung của thầy. Em xin chân thành cảm ơn.
1
Phần nội dung
A-Những vấn đề lí luận về lạm phát
I-Bản chất của lạm phát
Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung nền kinh tế.Nh vậy sự
tăng giá của một vài mặt hàng cá biệt nào đó trong ngắn hạn ngoài thị trờng thì
cũng không có nghĩa đã có lạm phát.Các nhà kinh tế thờng đo lạm phát bằng hai


chỉ tiêu cơ bản là CPI và chỉ số khử lạm phát GDP.Cách tính thứ nhất sẽ dựa trên
một rổ hàng hoá tiêu dùng và giá cả của những hàng hoá trong rổ ở hai thời điểm
khác nhau.Còn cách tính thứ hai thì căn cứ vào toàn bộ khối lợng hàng hoá và dịch
vụ cuối cùng đợc sản xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm khác nhau
thông thờng theo ngôn ngữ thống kê là giá cố định và giá hiện hành.Về cơ bản thì
hai cách tính này này không có sự khác biệt lớn.Phơng pháp GDP sẽ tính lạm phát
chính xác hơn theo định nghĩa của lạm phát.Tuy nhiên CPI sẽ có u điểm là tính đ-
ợc lạm phát tại bất kỳ thời điểm nào căn cứ vảo rổ hàng hoá,còn GDP thì chỉ tính
đợc lạm phát của một năm sau khi có báo cáo về GDP của năm đó.
Nh vậy,những thông tin về thớc đo lạm phát đến dân chúng hàng ngày
chủ yếu đợc tính từ phơng pháp CPI.Nhng CPI lại không thể đo lạm phát một cách
chính xác bởi nó bị tác động bởi hai yếu tố gây sai lệch.Những yếu tố gây sai lệch
này chủ yếu đến từ rổ hàng hoá đợc quy định trớc.Sai lệch cơ cấu vì rổ hàng hoá
chậm thay đổi,nó không bao gồm những hàng hoá tiêu dùng mới phát sinh nhng đ-
ợc đa số ngời tiêu dùng sử dụng.Ví dụ ở thành phố Hồ Chí Minh khi mọi ngời đều
có mobilephone,giá của mặt hàng này đang giảm theo thời gian nhng nó lại không
nằm trong rổ hàng hoá .Sai lệch thứ hai là sai lệch thay thế,khi giá cả một loại
hàng hoá nào đó trong rổ gia tăng dân chúng sẽ chuyển sang tiêu dùng mặt hàng
hoá thay thế với giá rẻ hơn.Ví dụ khi thịt gà trở nên mắc hơn do dịch cúm thì ngời
tiêu dùng sẽ chuyển sang ăn cá biển với mục đích là cung cấp chất đạm cho cơ thể
.Từ hai sai lệch trên chúng ta nhận thấy rằng,nếu tính lạm phát từ CPI thì có thể
2
dẫn đến một dự báo lạm phát quá mức vì những mặt hàng trong rổ đang tăng giá
còn những mặt hàng ngoài rổ thì lại đang giảm giá.
II-Hình thức biểu hiện của lạm phát và các
cấp độ của nó
1-Hình thức biểu hiện của lạm phát
Có ba loại lạm phát chủ yếu trong nền kinh tế : loại lạm phát tiền tệ,lạm
phát cầu kéo,lạm phát chi phí đẩy.
Loại lạm phát thứ nhất là lạm phát tiền tệ.Loại này xảy ra khi tốc độ tăng tr-

ởng cung tiền vợt quá tốc độ tăng trởng thực sự của nền kinh tế.Đơn giản hơn là
tiền trong lu thông tăng nhanh hơn số lợng hàng hoá và dịch vụ đợc sản xuất ra
trong nền kinh tế.Ví dụ nh tốc độ tăng trởng cung tiền là 10% nhng tốc độ tăng tr-
ởng thực của nền kinh tế là 7% thì lạm phát tiền tệ là 3%.Loại lạm phát này thờng
xảy ra tại các nớc đang phát triển khi các nớc này theo đuổi chính sách tiền tệ mở
rộng,áp chế tài chính là tình trạng ngân hàng trung ơng tài trợ cho thâm hụt ngân
sách chính phủ bằng cách in tiền,quá nhiều tiền trong lu thông vợt quá tốc độ tăng
trởng thực sẽ dẫn đến lạm phát.Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ kính thích tổng cầu
hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế,khi tốc độ tăng trởng tổng cầu cao hơn tốc độ
tăng trởng tổng cung thì cũng dẫn đến lạm phát.
Lạm phát thứ hai là lạm phát cầu kéo.Nó xuất phát từ sự thay đổi hành vi
tổng cầu mang tính đột biến trong nền kinh tế.Các nguyên nhân có thể là do chính
phủ chi tiêu quá mức khi thực hiện chính sách thu chi ngân sách mở rộng,hoặc
tăng chi tiêu tiêu dùng quá mức bình thờng do khu vực hộ gia đình quá lạc
quan,hoặc do khu vực hộ gia đình có nguồn thu nhập từ trên trời rơi xuống nh viện
trợ nớc ngoài,thu nhập do giá cả xuất khẩu tăng đột biến.
Loại lạm phát thứ ba là lạm phát chi phí đẩy.Lạm phát chi phí đẩy là loại
lạm phát do thu hẹp tổng cung hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng phải nâng cao
giá bán sản phẩm vì những lí do bất lợi.khác với hai loại lạm phát trên,thì loại lạm
phát này chủ yếu đến từ phía phía cung và nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ hiện
3
tợng tăng chi phí sản xuất không mong đợi từ phía các doanh nghiệp.Tăng chi phí
không mong đợi từ phía doanh nghiệp tạo ra những cú sốc tổng cung bất lợi.Công
nhân đình công đòi tăng lơng ở diện rộng,giá nguyên liệu gia tăng đột biến,thảm
hoạ tự nhiên làm đình trệ hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp là những
ngòi nổ của lạm phát này.
Khi giá dầu thô tăng từ 30USD lên 50USD/thùng sẽ dẫn đến chi phí sản xuất
của hầu hết các doanh nghiệp khác đều tăng theo.Ví dụ nh giá phân bón,thuốc trừ
sâu,giá vận chuyển,giá sắt thép sẽ tăng lên do giá nguyên liệu tăng và chi phí sẳn
xuất lúa của nông dân sẽ tăng lên là điều hiển nhiên.Phản ứng dây chuyền này sẽ

làm cho doanh nghiệp đứng trớc hai lựa chọn,hoặc đóng cửa nếu giữ giá bán nh
cũ,hoặc tăng giá nếu muốn giữ nguyên sản lợng nh cũ.Việc đóng cửa các doanh
nghiệp sẽ làm thiếu hàng hoá so với cầu và kéo theo tăng giá chung trong nền kinh
tế.Việc tăng giá ở nhiều doanh nghiệp sẽ dẫn đến lạm phát vì tăng giá diện rộng sẽ
làm tăng mức giá chung trong nền kinh tế.Hệ quả là nền kinh tế sẽ rơi vào một
tình trạng tồi tệ mà các nhà kinh tế học gọi là đình đốn lạm phát.
2.Các cấp độ của lạm phát.
Trong lịch sử tiền tệ trên thế giới ,ngời ta chia lam phát thành bốn cấp độ
khác nhau để có những giải pháp chống lạm phát thích ứng:các cấp độ của lạm
phát gồm:lạm phát yếu là mức độ lạm phát thấp từ 0% đến vài %-cấp độ lạm
phát này chủ yếu là phản ánh tính khách quan tuyệt đối của hiện tợng lu thông
hàng hoá-tiền tệ trong điều kiện chế độ tiền giấy.Lạm phát này có thể lặp đi lặp lại
trong một chuỗi thời gian dài và nếu chỉ có nó,ngời ta có thể chủ động tính vào
thành các chỉ tiêu cân bằng trung hoà của nền kinh tế-ngời ta chấp nhận và sẵn
sàng chung sống hoà bình với loại lạm phát đợc ví nh căn bệnh kinh niên này của
lu thông hàng hoá và lu thông tiện tệ.
*,Mức độ cao hơn từ trên vài % đến mức lớn hơn không nhiều so với tốc độ
tăng trởng kinh tế hàng năm đợc gọi là lạm phát vừa phải hay lạm phát kiểm soát
đợc.Đối với loại này thì tuỳ theo chiến lợc và chiến thuật phát triển kinh tế mỗi
thời kì mà các chính phủ có thể chủ động định hớng mức khống chế trên cơ sở duy
trì một tỉ lệ lạm phát là bao nhiêu để gắn với một số mục tiêu kinh tế khác:Kích
4
thích tăng trởng kinh tế,tăng cờng xuất khẩu và giảm tỉ lệ thất nghiệp trong các
năm tài khoá nhất định.Tuy nhiên chỉ có thể chấp nhận có lạm phát vừa phải trong
điều kiện nền kinh tế còn cha đạt tới giá trị sản lợng tiềm năng so với điều kiện
hiện tại-khi mà nhân tố của sản xuất vẫn còn nằm trong tình trạng ngủ yên hoặc
cha có phơng án khả thi để phát huy các tiềm năng đó.Khối tiền tệ chung châu Âu
EC và một số nớc Bắc Âu nh Thuỵ Điển,NaUy,Đan Mạch đã điều hành chính
sách thị trờng bằng cơ chế ngân hàng trung ơng đảm bảo lạm phát mục tiêu-Nghĩa
là ngân hàng trung ơng sử dụng công cụ chính sách thị trờng để duy trì và đảm

bảo một mức lạm phát mục tieu dao đông xung quanh một chỉ số CPI đợc xác
định là 2 hoặc 3%/năm và nhỏ hơn tốc độ tăng trởng GDP trong năm.Cơ chế này
đã và đang phát huy nhiều tác dụng tích cực ít nhất trong vòng năm năm qua.
*,Lạm phát phi mã là cấp độ cao thứ 3 có tỉ lệ lạm phát bình quân/năm từ
mức trung bình của hai con số đến đỉnh cao của ba con số. Đây là tỉ lệ lạm phát v-
ợt xa ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ơng.Giải pháp để chống lại
hiện tợng lạm phát này đòi hỏi phải là sự tổng lực của toàn nền kinh tế quốc dân
trong các nỗ lực thắt chặt tiền tệ,đẩy mạnh sản xuất,tăng cờng đầu t,thu hút mạnh
các nguồn vốn,kích thích đầu t trong nớc,cải cách lại cơ cấu kinh tế,nâng cao trình
độ công nghệ,tạo ra môi trờng pháp lý thuận lợi cho lu thông hàng hoá và đẩy
mạnh sản xuất hàng thay thế nhập khẩu để tăng cung cho nội bộ nền kinh tế đang
tràn ngập quá mức tổng phơng diện thanh toán ở n ớc tâ từ 1985 đến 1988 đã
phải chứng kiến và chống đỡ với cấp độ lạm phát này.
*,Cấp độ siêu lạm phát là hiện tợng khủng hoảng kinh tế đã lên đến trên ba
con số-thậm chí ngời ta không thể đo lạm phát bằng số % mà bằng số lần tăng giá
trong năm.Thế giới đã từng kinh hoàng về nạn siêu lạm phát ở Đức trong các năm
1921 đến 1923 sau đại chiến thế giới thứ nhất .Đây là mức siêu lạm phát lớn nhất
trong lịch sử tiền tệ thế giới tính cho đén nay-chỉ số giá trong vòng 22 tháng từ
tháng1 năm 1921 đến tháng 11 năm 1923 tăng tới 10 triệu lần.Kho tiền của Đức
trong 2 năm đó tăng 7 tỷ lần tổng giá trị danh nghĩa.Tính tớc đoạt của cuộc siêu
lạm phát này đợc lợng hoá bằng con số kinh khủng:Nếu ai có một tấm ngân phiếu
300 triệu DM Thì chỉ 2 năm nói trên,giá trị thực của tấm ngân phiếu này hầu nh
5
chỉ còn lại là con số không.Cuộc siêu lạm phát lớn thứ 3 xảy ra ở Mỹ thời kì nội
chiến 1860-Riêng trong năm 1860 giá cả hàng hoá tăng lên 20 lần=2000%.Ngời ta
đã miêu tả bằng hình ảnh về cuộc lạm phát này rằng tiền mang đi chợ phải đựng
bằng sọt,còn hàng hoá mua đợc thì bỏ vào túi-Mọi hàng hoá trên thị trờng trở nên
cực kỳ khan hiếm trừ tiền.Tiền hầu nh đã trút bỏ mọi chức năng vốn có của nó kể
cả chức năng trực tiếp nhất là làm phơng tiện lu thông hàng hoá.Cuộc siêu lạm
phát gần đây nhất và là cuộc lạm phát lớn thứ hai trong lịch sử kinh tế hàng hóa-

tiền tệ thế giới.Tuy nhiên,siêu lạm phát là một hiện tợng kinh tế cực kì hiếm,nó th-
ờng xuất hiện gắn liền với các cuộc chiến tranh thế giới hoặc nội chiến khốc
liệt.Tất nhiên hiếm không có nghĩa là không xảy ra.
III-Tác động của lạm phát đến nền kinh tế.
1-Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế.
Một chút lạm phát là tốt cho nền kinh tế.Trớc hết hãy xem xét về những chi
phí kinh tế của lạm phát.Khi lạm phát ở mức cao,dân chúng nhận thấy rằng việc
phân biệt giữa những thay đổi trong mức giá bình quân và những thay đổi trong
mức giá tuyệt đối là rất khó.Nếu lạm phát tăng sẽ làm kìm hãm tăng trởng kinh
tế,nếu lạm phát giảm sẽ giúp thúc đẩy tăng trởng kinh tế.Nếu chính sách tiền tệ
tập trung vào việc giữ lạm phát ở mức thấp và ổn định,nó sẽ giúp ổn định mức tăng
trởng kinh tế và công ăn việc làm.
Với tỉ lệ lạm phát nhỏ hơn hoặc bằng 2%,hầu hết các nớc giàu đã đạt ít
nhiềusự ổn định giá cả.Theo qui luật kinh tế trớc đây,nếu tỷ lệ thất nghiệp giảm
xuống dới NAIRU(đợc cho vào khoảng 5,5%)thì tỷ lệ lạm phát sẽ bắt đầu
tăng.Điều này,đến lợt nó có hàm ý rằng tỷ lệ tăng trởng tối đa mà nền kinh tế Mỹ
có thể duy trì một cách an toàn (phù hợp với mức tăng trởng của lực lợng lao động
và của năng suất lao động)là khoảng 2,25%-2,5%.Hiện nay,tỷ lệ thất nghiệp của
Mỹ là 4,2% mức thấp nhất trong 30 năm qua và GDP đã tăng với một tốc độ trung
bình là gần 4%/năm trong 3 năm qua.Theo các sách giáo khoa thì lạm phát sẽ tăng
lên trong trờng hợp của Mỹ.Nhng thực tế,tỷ lệ lạm phát của Mỹ vẫn thấp .
6
Một số nhà kinh tế cho rằng lạm phát vừa phải là 3-4% là tốt cho tăng trởng
kinh tế và công ăn việc làm. Họ cho rằng ,mức lơng danh nghĩa có xu hớng khó
giảm xuống.Công nhân có thể đợc chuẩn bị để chịu đựng đợc mức tiền công thấp
khi tỷ lệ lạm phát là 3%,một tỷ lệ tơng đơng với một sự suy giảm của thu nhập
thực tế,nhng họ lại không muốn chấp nhận một sự cắt giảm tiền lơng,họ mang về
nhà sẽ ít hơn.Do vậy nếu tỷ lệ lạm phát là zero thì không thể điều chỉnh giảm mức
lơng thực tế trong những nghành công nghiệp hay khu vực đang suy thoái,mà sự
suy thoái này đồng nghĩa với việc gia tăng trong tỷ lệ thất nghiệp. Những nhà kinh

tế trên cho rằng lạm phát làm bôi trơn những bánh xe của thị trờng lao
động,cho phép tiền lơng thực tế có thể đợc điều chỉnh dễ dàng hơn.
Vì thế để có tốc độ tăng trởng cao hay không thì phải duy trì một tỷ lệ lạm
phát nhất định nào đó.
2-Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế.
Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trởng kinh tế.khi lạm phát xảy ra nó sẽ
làm lệch lạc cơ cấu giá cả,kéo theo là nguồn tài nguyên,vốn và nguồn nhân lực
không đợc phân bố một cách có hiệu quả,kết cục là làm cho tăng trởng chậm lại.
Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trởng và đầu t dài
hạn.Nếu các nhà đầu t không biết chắc chắn hoặc không thể dự đoán đợc mức giá
cả trong tơng lai,kéo theo là không thể biết đợc lãi xuất thực thì không ai trong số
họ dám liều lĩnh đầu t,nhất là đầu t vào các dự án dài hạn,mặc dù có thể các điều
kiện đầu t khác là khá u đãi và hấp dẫn.Tính không chắc chắn của mức độ lạm
phát sẽ đẩy lãi suất thực lên cao bởi chủ nợ muốn có sự bảo đảm cho mức rủi ro
lớn .Mức lãi suất thực cao này sẽ kìm hãm đầu t và làm chậm tốc độ tăng trởng.
Điều này có thể minh hoạ về tình hình lạm phát cao ở Indonesia và Thái Lan trong
giai đoạn 1999-2000 khi lạm phát cao thì tăng trởng thấp.
Lạm phát cao khuyến khích ngời dân quan tâm tới lợi ích trớc mắt. Khi có
lạm phát xẩy ra ở một nớc thay cho việc ký thác tiền trong ngân hàng để hởng lãi
suất hay đầu t vào khu vực sản xuất kinh doanh hòng tìm kiếm lợi nhuận, dân
chúng có thể đổ xô mua hàng để dự trữ vì kỳ vọng giá hàng hoá còn tăng nữa.
7
Điều này vô hình dung làm tăng cầu hàng hoá một cách giả tạo và do vậy càng
làm cho lạm phát có nguy cơ bùng nổ đến mức độ cao hơn.
Lạm phát cao ảnh hởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của
quốc gia. Chính phủ các nớc đã từng trải qua lạm phát cao (Inđônêxia 1967, Anh
1979 ) đều cho rằng không kiểm soát đ ợc lạm phát là điều đáng sợ nhất.Toàn bộ
hoạt động kinh tế bị méo mó,biến dạng nghiêm trọng gây tâm lý xã hội phức tạp
và làm lãng phí ghê gớm trong sản xuất.Đặc biệt khi lạm phát cao xẩy ra, sức mua
đối nội của đồng tiền vào hệ thống ngân hàng và cao hơn nữa là vào chính phủ sẽ

bị xói mòn. Điều này gây tác hại vô cùng lớn lao đến toàn bộ hoạt động của nền
kinh tế đất nớc. Vả lại, từ khi rơi vào tình trạng lạm phát cao đến khi ra khỏi tình
trạng đó nhìn chung đều cần một thời gian dài với sự hao tổn lớn về mặt vật chất
và uy tín.
Lạm phát cao làm giảm các nguồn thu từ thuế cho ngân sách nhà nớc.
Những tác động làm giảm này xét trên cả hai phơng diện trực tiếp và gián tiếp.
Một mặt, lạm phát cao dẫn đến sản xuất bị đình đốn làm cho nguồn thuế bị giảm
sút cả về mặt qui mô và chất lợng. Mặt khác, lạm phát cao đồng nghĩa với việc sự
mất giá của đồng tiền, do đó với cùng một số lợng tiền thu đợc từ thuế thì giá trị
nguồn thu thực tế của nó bị giảm xuống khi có lạm phát cao.Ví dụ,ở Mexico lạm
phát làm giảm nguồn thu thực tế năm 1981 là 2,6% GDP và giai đoạn 1983-1987
là 1,6% GDP.
IV.-Yêu cầu phải kiềm chế và khắc phục
tình trạng lạm phát.
Thực tế hơn 20 năm điều hành nền kinh tế và với những kinh nghiệm thực
tiễn sinh động chống lạm phát đã có thể kết luận rằng lạm phát là một căn bệnh
tiềm ẩn của mọi nền kinh tế theo cơ chế thị trờng. Một khi lạm phát cao xuất hiện
thì tổn thất về kinh tế cũng nh xã hội là rất lớn.
Do vậy, bất cứ nền kinh tế nào khi có lạm phát xuất hiện thì phải có ngay
các giải pháp để chống. Sự thành công trong chống lạm phát là nhờ sự điều hành
thông minh và sáng tạo của chính phủ mỗi nớc. Lạm phát thờng xuất hiện khi mất
8
cân đối nghiêm trọng giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá, mất cân đối giữa cung
tiền tệ và cầu tiền tệ. Tuy nhiên mỗi giai đoạn khi lạm phát xuất hiện với hình thức
và dáng vẻ khác nhau thì lại có nhiều câu hỏi và tranh luận đợc đặt ra : chống lạm
phát bằng giải pháp nào? Có thể chống lạm phát bằng một vài giải pháp riêng lẻ
không? Còn nếu chống lạm phát bằng một tập hợp các giải pháp gì? Lạm phát ở
mức nào thì có thể chấp nhận đợc?Trả lời đợc những câu hỏi đó thì chúng ta sẽ
kiềm chế và khắc phục đợc tình trạng lạm phát.
B Thực trạng tình hình lạm phát trong nền

kinh tế nớc ta
I Lạm phát ở nớc ta trong thời kỳ đổi
mới(1986)
Trớc thời kỳ đổi mới,nền kinh tế nớc ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp nên vấn đề giá cả cha chịu tác động của quy luật thị tr-
ờng,mà đợc định ra theo mệnh lệnh và qui định ,do vậy lạm phát không xuất hiện.
Tuy nhiên bớc vào giai đoạn 1976-1985,nền kinh tế đã có nhiều biểu hiện
suy thoái, khủng hoảng và lạm phát. Lạm phát thời kì này là lạm phát phi mã
700-800%.Lạm phát này phá vỡ hoàn toàn mọi cân đối và hệ thống tài chính-tiền
tệ rối loạn,kinh tế-xã hội có nhiều biến động xấu.Sản xuất đình đốn, kinh doanh
kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, chi phí vật chất cao, thu nhập quốc dân
tăng không đáng kể, đời sống của ngời dân giảm sút, giá cả ở thị trờng chính thức
và thị trờng chợ đen có khoảng cách khá xa. Nông nghiệp với tỷ trọng chiếm trên
40%tổng sản phẩm xã hội và khoảng 50% thu nhập quốc dân nhng giá trị sản xuất
nông nghiệp tăng bình quân chỉ ở mức 3,8%/năm.Độc canh cây lúa với tổng sản l-
ợng lơng thực chỉ đạt 18,2 triệu tấn vào năm 1985 nên tình trạng thiếu lơng thực
và đói ăn của ngời dân kéo dài triền miên,công nghiệp cũng chỉ tăng
5,2%/năm.Dịch vụ hầu nh không phát triển, xuất khẩu thì với số lợng nhỏ bé, chỉ
đạt khoảng 746 triệu USD vào năm 1985, trong khi thâm hụt cán cân thơng mại lại
9
cao(844 triệu USD năm1985) gấp 1,13 lần so với xuất khẩu. Thời kì 1976-1980,
vay nợ và viện trợ nớc ngoài chiếm 38,2% tổng số thu ngân sách Nhà nớc và bằng
61,9% tổng số thu trong nớc. Bội chi ngân sách Nhà nớc vào 1980 là 18,1% và
năm1985 là 36,6% so với GDP. Đây là tình trạng đất nớc làm không đủ ăn, tình
hình kinh tế xã hội khó khăn không thể kể hết.
II-Lạm phát ở nớc ta từ đổi mới đến nay
1-Thời kì bắt đầu đổi mới 1986-1990
Bớc sang thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nớc ta đã đạt đợc nhiều thành tựu
quan trọng.
Sau Đại hội Đảng lần VI, công cuộc đổi mới đã đạt đợc những kết quả bớc

đầu rất đáng khích lệ, nhất là từ năm 1989.Tuy nhiên,nền kinh tế nớc ta vẫn đang
ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội:kinh tế phát triển chậm không ổn
định;bình quân thời kì 86-90 tốc độ tăng trởng của giá trị sản xuất nông nghiệp là
3,5%, công nghiệp là 6,2% và tốc độ tăng trởng kinh tế đạt 3,9%,trong khi dân số
tăng 2,3%. Trong giai đoạn này hầu hết các cân đối lớn đều căng thẳng:thâm hụt
ngân sách ở mức 8% so với GDP, kim nghạch xuất khẩu chỉ đạt ở mức thấp và chỉ
bằng 54% kim nghạch nhập khẩu(1986,kim nghạch xuất khẩu đạt 499 triệu USD
và năm 1990 đạt 1734 triệu USD. Lạm phát phi mã tuy đã đợc đẩy lùi nhng vẫn
còn rất cao(từ 487,2% năm 1986 còn 67,1% năm 1990).
Giai đoạn 1986-1990,mặc dù Đảng và chính phủ đã có nhiều biện pháp đổi
mới về cơ chế chính sách và có nhiều giải pháp điều hành mới nh :đề ra ba chơng
trình kinh tế lớn(chơng trình lơng thực thực phẩm,chơng trình sản xuất hàng
tiêu dùng và chơng trình sản xuất hàng xuất khẩu), nghị quyết 10 của Bộ chính trị
(5/4/1988) về đổi mới trong nông nghiệp, quyết định 217/HĐBT trao quyền tự chủ
trong sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp quốc doanh, luật đầu t nớc ngoài ra
đời(12/1987), thả nổi giá cả đối với tất cả các loại hàng hoá và vật t, xoá bao cấp
qua giá, nhng đời sống nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, số ngời không có
việc làm ngày càng lớn, chiếm trên 10% lực lợng lao động xã hội Thu nhập bình
10

×