Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Quản lý đấu thầu Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.16 KB, 70 trang )

viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ơng





Quản lý đấu thầu
Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
các dự án đầu t và hoạt động mua sắm công tại Việt Nam


Tác giả: ts.ngô minh hải









hà nội - 2004



3 4




Lời nói đầu



Cơ chế kinh tế kinh tế thị trờng xuất hiện cùng với công
cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam đã đợc trên 10 năm. Nhờ đó
nền kinh tế Việt Nam đã thu đợc những thành tựu bớc đầu
quan trọng, tốc độ tăng trởng đợc duy trì ở mức độ tơng đối
cao trong một thời gian dài. Hoạt động đấu thầu mới đợc áp
dụng rộng rãi trong thời gian vài năm qua, nhng đã đóng góp
một phần không nhỏ vào những thành tích này. Tuy vậy, đấu
thầu là một lĩnh vực tơng đối mới đối với Việt Nam, trong quá
trình thực hiện không tránh khỏi những lúng túng, thậm chí sai
lầm gây thất thoát tài lực của Nhà nớc, đòi hỏi Nhà nớc phải
có sự nghiên cứu, cập nhật, đổi mới phơng thức phù hợp trong
quản lý và điều hành công tác đấu thầu nói chung.
Đại hội đảng lần thứ IX đã thông qua một số văn kiện quan
trọng và đề ra các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong những
năm đầu của thiên niên kỷ mới, thực hiện chiến lợc đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hớng XHCN, xây
dựng nền tảng để đến năm 2020 nớc ta cơ bản thành một
nớc công nghiệp
(1)
.

1
Văn kiện Đại hội IX , Phơng hớng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh
tế, xã hội 5 năm 2001-2005
Để đạt đợc mục tiêu này, Nhà nớc cần xây dựng và thực
hiện một hệ thống biện pháp cơ chế chính sách nhằm phát huy
nội lực của dân tộc Việt Nam đồng thời phù hợp với các cam kết
quốc tế của nớc ta trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Công việc này đòi hỏi quá trình cải cách kinh tế Việt Nam phải

có những đổi mới cơ bản về chất, thay đổi phơng thức điều
hành nền kinh tế nhằm đáp ứng với những thách thức mới, thích
ứng một cách linh hoạt những biến động của môi trờng trong
nớc cũng nh môi trờng quốc tế.
Đấu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan
trong nền kinh tế thị trờng, đòi hỏi Nhà nớc phải nắm bắt và
vận dụng có hiệu quả trong quá trình quản lý và điều hành nền
kinh tế quốc dân. Trong cơ chế kinh tế thị trờng, hoạt động đấu
thầu là một mắt xích vô cùng quan trọng trong toàn bộ quá trình
mua sắm của Chính phủ nói chung và trong việc thực hiện các
dự án đầu t nói riêng. Vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện chính sách
về đấu thầu là việc làm hết sức cần thiết nhằm thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta.
Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu với
các hình thức khác nhau (đề tài, dự án) về việc khảo sát, đánh
giá, xây dựng cơ chế chính sách về đấu thầu ở Việt Nam. Đáng
chú ý nhất là các dự án xây dựng Quy chế Đấu thầu và Pháp lệnh
Đấu thầu do Bộ Kế hoạch và Đầu t chủ trì (hiện đang thực
hiện). Ngoài ra còn có một số luận án, chuyên đề nghiên cứu về
công tác đấu thầu ở một số ngành và địa phơng.
Tuy nhiên cha có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện
và tổng thể với mục tiêu đánh giá một cách khách quan tình hình
5 6

thực hiện công tác đấu thầu trong thời gian qua để xây dựng một
chính sách tơng đối hoàn chỉnh và đồng bộ cho công tác này.
Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu thực trạng công tác đấu
thầu ở Việt Nam hiện nay, cũng nh kinh nghiệm đấu thầu của
một số tổ chức và quốc gia trên thế giới để từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện một bớc cơ chế quản lý đấu thầu

phục vụ cho quá trình hội nhập, đồng thời góp phần lành mạnh
hoá môi trờng đầu t, chống thất thoát vốn Nhà nớc.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Phần 1 bao gồm những nội dung mang tính lý thuyết về công
tác đấu thầu và nội dung kinh tế của công tác đấu thầu nh: Các
khái niệm, thuật ngữ liên quan đến công tác đấu thầu, phân loại
đấu thầu và vai trò quản lý nhà nớc về đấu thầu của Chính phủ.
Phần 2 mô tả thực trạng công tác đấu thầu ở Việt Nam hiện
nay, những vớng mắc thờng gặp, một số bài học kinh nghiệm
quốc tế, bao gồm các nội dung sau:
- Sự ra đời và hình thành hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật về đấu thầu ở Việt Nam hiện nay.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nớc về đấu thầu, quy
trình đấu thầu chung.
- Thực trạng hoạt động đấu thầu ở Việt Nam, kết quả và
những tồn tại thực tế.
- Một số vấn đề phát sinh thờng gặp trong công tác đấu
thầu. Những vớng mắc cơ bản và phổ biến trong công tác đấu
thầu ở Việt Nam.
- Kinh nghiệm quản lý đấu thầu ở một số tổ chức và quốc gia
trên thế giới.
Phần 3 bao gồm các ý kiến đề xuất nhằm tăng cờng hiệu quả
quản lý trong công tác đấu thầu ở Việt Nam, gồm các nội dung
cụ thể nh sau:
- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về đấu thầu (các quy
định mang tính pháp lý).
- Cải cách bộ máy quản lý nhà nớc về đấu thầu.
- Nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ điều
hành trực tiếp công tác đấu thầu.
Phần kết luận nhắc lại những nội dung hết sức cơ bản của đề

tài, đó là:
- Tầm quan trọng của công tác đấu thầu trong nền kinh tế thị
trờng. Những đóng góp của việc áp dụng các hình thức lựa
chọn nhà thầu trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất
nớc.
- Những bài học thực tế trong công tác đấu thầu ở Việt Nam
cũng nh công tác quản lý đấu thầu ở một số tổ chức và quốc gia
trên thế giới để từ đó đề xuất những biện pháp thiết thực cho
công việc quản lý đấu thầu mua sắm công.
Đề tài có sử dụng thông tin trong các báo cáo về công tác đấu
thầu của Bộ Kế hoạch và Đầu t trong các năm từ 1998 đến
2002 và bài viết của Tiến sỹ Nguyễn Việt Hùng, Vụ trởng Vụ
Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu t.



7 8




Chơng 1
Sự cần thiết khách quan của đấu thầu trong nền kinh tế
thị trờng và Vai trò của chính phủ trong việc quản lý
nhà nớc về đấu thầu
1.1. Một số khái niệm về đấu thầu và nội dung công tác
đấu thầu
1.1.1. Đấu thầu (trờng hợp cung > cầu)
Trong nền kinh tế hàng hoá, hầu nh không tồn tại sự độc
quyền cung cấp cho bất kỳ một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó

(trừ một vài loại hàng hoá đặc biệt dùng cho các dịch vụ công,
chẳng hạn nh phòng thủ đất nớc). Có nhiều nhà sản xuất, nhà
cung cấp cho cùng một loại hàng hoá và dịch vụ. Trong cơ chế
kinh tế thị trờng ngời tiêu dùng (bao gồm các nhà đầu t - sau
đây gọi chung là ngời mua) luôn mong muốn có đợc hàng hoá
và dịch vụ tốt nhất với chi phí thấp nhất. Vì vậy, mỗi khi có nhu
cầu mua sắm một hàng hoá hay dịch vụ nào đó, họ thờng tổ
chức các cuộc đấu thầu để các nhà thầu (bao gồm các nhà cung
cấp hàng hoá và dịch vụ) cạnh tranh nhau về kỹ thuật, công
nghệ, chất lợng và giá cả. Trong các cuộc đấu nh vậy, nhà
thầu nào đa ra đợc mẫu hàng hoá và dịch vụ phù hợp với yêu
cầu của ngời mua và với giá cả thấp nhất sẽ đợc ngời mua
chấp nhận trao hợp đồng. Không phải lúc nào ngời mua cũng
yêu cầu chất lợng hàng hoá và dịch vụ tốt nhất. Tuỳ theo nhu
cầu sử dụng, ngời mua sẽ đa ra các thông tin cơ bản về yêu
cầu chất lợng hàng hoá, điều kiện thanh toán và các yêu cầu
khác của hợp đồng. Nhà thầu căn cứ vào nội dung yêu cầu ghi
trong đề nghị chào hàng để gửi hồ sơ dự thầu đến cho ngời
mua. Trong trờng hợp có 2 hoặc nhiều đơn dự thầu đều có chất
lợng chào hàng đáp ứng các yêu cầu của ngời mua, thì nhà
thầu nào (trong số các chào hàng đáp ứng các yêu cầu về chất
lợng) có giá dự thầu thấp nhất sẽ đợc chọn trao hợp đồng. Nh
vậy, đấu thầu là cuộc chơi do ngời mua tổ chức và ngời chơi là
những nhà thầu. Nếu có luật chơi tốt (công bằng và minh bạch)
sẽ thu hút đợc nhiều ngời chơi, làm cho tính cạnh tranh cao
hơn. Trong tr
ờng hợp đó, ngời mua sẽ có nhiều cơ hội chọn
mua đợc hàng hoá và dịch vụ thoả mãn yêu cầu của mình với
giá cả thấp nhất có thể.
Tóm lại, Đấu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại trong nền kinh

tế thị trờng. Trong đó, ngời mua đóng vai trò tổ chức để các
nhà thầu (những ngời bán) cạnh tranh nhau. Mục tiêu của
ngời mua là có đợc hàng hoá và dịch vụ thoả mãn các yêu cầu
của mình về kỹ thuật, chất lợng với chi phí thấp nhất. Mục tiêu
của nhà thầu là giành đợc quyền cung cấp hàng hoá hoặc dịch
vụ đó với giá cả đủ bù đắp các chi phí đầu vào đồng thời đảm
bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể.
1.1.2. Đấu giá (trờng hợp cung < cầu)
Ngợc với đấu thầu, đấu giá là cuộc đấu do ngời bán đứng ra
tổ chức. Có những loại hàng hoá ngoài giá trị về vật chất còn
chứa đựng các giá trị tiềm tàng khác, nhiều khi không thể đo
đếm đợc, hoặc có những loại hàng hoá do có số lợng ít mà
9 10

nhu cầu của ngời mua lại lớn hơn nhiều. Trong trờng hợp này
ngời bán phải tổ chức cho những ngời có nhu cầu mua đấu giá
với nhau. Tại thời điểm cuộc chơi có hiệu lực, ngời nào trả giá
cao nhất sẽ mua đợc hàng hoá đó.
Nh vậy, Đấu giá là phạm trù kinh tế tồn tại trong nền kinh
tế thị trờng. Trong đó, ngời bán đóng vai trò tổ chức để những
ngời mua cạnh tranh với nhau về giá một cách công khai tại
một thời điểm nhất định. Ngời mua nào có giá đề nghị cao nhất
sẽ là ngời chiến thắng và giành đợc quyền mua hàng hoá đó.
1.1.3. Nhà thầu (trong đấu thầu)
Tất cả các tổ chức, cá nhân khi tham gia đấu thầu để giành
quyền ký kết và thực hiện hợp đồng đầu t, cung cấp hàng hoá
và dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ t vấn, xây lắp ) cho bên mời
thầu hoặc chủ đầu t đều gọi là nhà thầu. Tuỳ theo tính chất của
nguồn vốn, ngời ta có thể quy định t cách hợp lệ của nhà thầu
theo các chỉ tiêu cụ thể khác nhau. Nhng nhà thầu đều phải

đảm bảo đáp ứng các nguyên tắc tối thiểu có tính pháp lý. Nhà
thầu có thể tham gia dự thầu độc lập hoặc liên danh với một
hoặc nhiều nhà thầu khác để liên danh dự thầu.
Nh vậy, Nhà thầu là các tổ chức kinh tế, cá nhân độc lập về
tài chính có năng lực pháp luật dân sự (nếu là tổ chức) hoặc
năng lực hành vi dân sự (nếu là cá nhân) để ký kết và thực hiện
hợp đồng theo các quy định của pháp luật.
1.1.4. Bên mời thầu
Theo nghĩa thông thờng, bên mời thầu là bên đứng ra tổ
chức đấu thầu. Các chủ dự án, chủ đầu t hoặc đại diện của họ tổ
chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu thực hiện một phần hoặc
toàn bộ dự án. Bên mời thầu thờng là chủ sở hữu vốn (nguồn để
chi trả cho nhà thầu theo giá trị hợp đồng) và là một bên đứng ra
ký kết hợp đồng với nhà thầu. Tuy nhiên, trong trờng hợp đại
diện của chủ dự án, chủ đầu t đứng ra tổ chức đấu thầu, thì họ
có thể không phải là một bên đứng ra ký kết hợp đồng với nhà
thầu. Trong trờng hợp đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu t, bên
mời thầu chỉ đóng vai trò chủ dự án, khi đó nhà thầu trúng thầu
sẽ là chủ đầu t.
Nh vậy, Bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu t hoặc đại diện
hợp pháp của chủ dự án, chủ đầu t
đứng ra tổ chức đấu thầu.
1.1.5. Hồ sơ mời thầu
Trớc khi tổ chức đấu thầu, bên mời thầu phải tập hợp toàn
bộ các yêu cầu của gói thầu (về chất lợng, số lợng, kỹ thuật,
các điều kiện hợp đồng, tài chính, thơng mại ) thành một bộ
tài liệu thống nhất và không thay đổi trong suốt quá trình đấu
thầu để làm căn cứ cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu, đồng
thời làm cơ sở để bên mời thầu đánh giá các hồ sơ dự thầu và
xem xét, quyết định nhà thầu trúng thầu. Hồ sơ mời thầu là toàn

bộ tài liệu do bên mời thầu lập, bao gồm các yêu cầu cho một
gói thầu đợc dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự
thầu và bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu.
1.1.6. Hồ sơ dự thầu
Trên cơ sở nghiên cứu các yêu cầu của bên mời thầu nêu
trong hồ sơ mời thầu, cũng nh kết quả khảo sát thực địa và các
thông tin liên quan khác, nhà thầu lập bộ hồ sơ dự thầu bao gồm
11 12

toàn bộ các tài liệu về kỹ thuật, tài chính, thơng mại liên quan
đến gói thầu để nộp cho bên mời thầu trong thời gian có hiệu lực
(trớc thời điểm đóng thầu). Nhà thầu có hồ sơ dự thầu hợp lệ,
đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu và có giá đánh giá thấp
nhất sẽ đợc xem xét, đề nghị trúng thầu.
Hồ sơ dự thầu là các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu
của hồ sơ mời thầu.
1.1.7. Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu phổ biến đợc
áp dụng cho mọi lĩnh vực (lựa chọn đối tác, mua sắm hàng hoá,
chọn nhà thầu xây lắp, chọn nhà t vấn và nhà cung cấp các dịch
vụ khác). Đây là hình thức tận dụng triệt để học thuyết bàn tay vô
hình trong cơ chế kinh tế thị trờng. Để cuộc cạnh tranh giữa các
nhà thầu đợc bình đẳng, công khai, minh bạch, bên mời thầu
phải thông báo công khai trên các phơng tiện thông tin đại chúng
về các điều kiện, thời gian tổ chức đấu thầu và tham dự thầu. Tuỳ
theo tính chất và quy mô của gói thầu, việc thông báo phải đợc
thực hiện trớc khi tổ chức đấu thầu một thời gian thích hợp đủ để
các nhà thầu tiếp nhận đủ thông tin và kịp xử lý các thông tin cần
thiết cho việc quyết định tham gia dự thầu.
Đấu thầu rộng rãi là hình thức không hạn chế số lợng nhà

thầu tham gia.
1.1.8. Đấu thầu hạn chế
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ
cho phép một số lợng nhất định các nhà thầu tham dự thầu. Đây
là hình thức đợc sử dụng khi cần tranh thủ thời gian đánh giá
hồ sơ dự thầu, bởi vì ngời ta đã biết chắc chắn rằng chỉ có một
số nhà thầu cụ thể có khả năng thực hiện gói thầu. Vì vậy bên
mời thầu chỉ mời các nhà thầu đợc coi là có đủ năng lực tham
gia dự thầu. Tuy nhiên, cần cân nhắc kỹ các trờng hợp phải áp
dụng hình thức này, vì rằng càng hạn chế số lợng nhà thầu
tham gia, tính cạnh tranh càng giảm, làm cho tính hiệu quả của
công tác đấu thầu sẽ giảm theo.
Đấu thầu hạn chế là hình thức lựa chọn nhà thầu thông qua
sự cạnh tranh của một số nhà thầu nhất định đợc bên mời thầu
cho phép tham dự thầu.
1.1.9. Hiệu quả trong đấu thầu
Thực hiện đấu thầu nhằm tận dụng lợi thế của các quy luật
kinh tế khách quan trong cơ chế kinh tế thị trờng là việc làm
mà không một nhà đầu t nào đợc phép bỏ qua. Bởi vì, thông
qua đấu thầu, chủ đầu t sẽ có nhiều cơ hội hơn hết để chọn
đợc hàng hoá và dịch vụ đảm bảo chất lợng mong muốn với
giá cả hợp lý nhất có thể. Mặt khác, cũng thông qua đấu thầu mà
các nhà thầu phải luôn tìm tòi, sáng tạo để không ngừng cải tiến
quy trình, công nghệ sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Nh vậy, đấu thầu không những đem lại lợi ích kinh tế cho các
bên tham gia, mà còn có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển,
đồng thời ngày càng hoàn thiện về pháp lý một sân chơi công
bằng, bình đẳng cho các nhà thầu.
Hiệu quả của đấu thầu là đem lại lợi ích kinh tế cho bên mời
thầu, đồng thời không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh cho

các nhà thầu trong sự hoàn thiện về pháp lý của các quy định
trong đấu thầu.
13 14

1.1.10. Nội dung của công tác đấu thầu
Công tác đấu thầu ở nớc ta thực chất là hoạt động lựa chọn
nhà thầu (lựa chọn ngời bán) trong công việc mua sắm trên cơ sở
tuân theo 1 quy định chung. Quy định mua sắm đợc ban hành
dới dạng văn bản quy phạm pháp luật theo các hình thức khác
nhau, có thể là hình thức kiểu nh Nghị định do Chính phủ ban
hành nh ở nớc ta hoặc thông thờng nhất là ban hành dới hình
thức Luật Đấu thầu. Trên cơ sở quy định pháp luật, ngời mua
(Bên mời thầu) tổ chức các cuộc lựa chọn ngời bán (là các nhà
thầu) phù hợp nhất đáp ứng các yêu cầu của mình, dới sự giám
sát của các cơ quan có trách nhiệm liên quan và của công luận.
Nh vậy, nói một cách tổng quát, hoạt động đấu thầu (công
tác lựa chọn nhà thầu trong mua sắm công) đợc hình thành từ 4
thành tố sau:
1.1.10.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu
Một hệ thống văn bản hoàn chỉnh có thể sẽ bao gồm từ Luật,
Pháp lệnh, cho đến Nghị định hớng dẫn hoặc là một Bộ luật
thống nhất và các mẫu chuẩn về đấu thầu (bao gồm mẫu hồ sơ
mời thầu, mẫu hợp đồng ). Hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về đấu thầu là cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động đấu
thầu, nó quy định các đối tợng phải áp dụng, quy định về quy
trình, thủ tục thực hiện quá trình lựa chọn nhà thầu. Đồng thời
đây cũng là cơ sở để xử lý các sai phạm trong quá trình thực hiện
đấu thầu từ phía ngời mua đến các nhà thầu cũng nh các cá
nhân và tổ chức liên quan. Thông qua việc thực hiện theo các
quy định pháp luật về đấu thầu, các mục tiêu cơ bản của hoạt

động đấu thầu là sự cạnh tranh công bằng, công khai, minh bạch
và hiệu quả kinh tế sẽ có cơ hội cao nhất để đạt đợc.
1.1.10.2. Đơn vị thực hiện mua sắm (Bên mời thầu) và các cơ
quan liên quan của Chính phủ:
Các đơn vị thực hiện việc mua sắm là các đơn vị đợc Chính
phủ giao cho trách nhiệm thực hiện công việc của Bên mời thầu
trong việc sử dụng các nguồn tiền của Nhà nớc sao cho đạt
đợc các yêu cầu đặt ra với chi phí thấp nhất. Các đơn vị này là
đối tợng đầu tiên, trực tiếp cần thông hiểu và quán triệt các quy
định pháp luật về đấu thầu. Họ cần phải có đủ năng lực và trách
nhiệm trớc công việc đợc giao. Bởi vì các đơn vị này tham gia
vào tất cả các khâu của quá trình đấu thầu, bắt đầu từ khi xây
dựng kế hoạch đấu thầu mua sắm, xây dựng các yêu cầu trong
hồ sơ mời thầu (bao gồm cả tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu),
đánh giá hồ sơ dự thầu và trình duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.
Tiếp đó, đơn vị thực hiện mua sắm còn có trách nhiệm thơng
thảo hoàn thiện hợp đồng với nhà thầu trúng thầu. Sự thành công
của một cuộc đấu thầu đứng về phía ngời mua là phụ thuộc vào
chất lợng của đơn vị thực hiện mua sắm. Tính khách quan
(không thiên vị) của đơn vị này (nói đúng hơn là các thành viên
của đơn vị mua sắm) cũng là 1 yếu tố cấu thành chất lợng của
đơn vị mua sắm.
1.1.10.3. Các nhà thầu:
Nếu các đơn vị thực hiện mua sắm là đối t
ợng đầu tiên
chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động đấu thầu thì các nhà
thầu đợc coi là đối tợng quan trọng thứ 2. Thiếu sự tham gia
của các nhà thầu thì sẽ không có các cuộc đấu thầu. Sự cạnh
15 16


tranh của các nhà thầu trong các cuộc đấu thầu là yếu tố quan
trọng nhất mang lại hiệu quả kinh tế cho chủ thể thực hiện mua
sắm, đồng thời là động lực phát triển của toàn xã hội. Tuỳ từng
lĩnh vực mua sắm mà sự cạnh tranh của các nhà thầu có những
đặc điểm riêng.
1.1.10.4. Cộng đồng xã hội:
Hoạt động đấu thầu không chỉ dành cho các đơn vị mua sắm
và các nhà thầu, mà bởi vì nó liên quan tới việc sử dụng các
nguồn tiền của Nhà nớc, của toàn xã hội, nó lại phải tuân thủ
các quy định pháp luật về đấu thầu nên nó không thể tách rời sự
giám sát cuả cộng đồng xã hội.
áp lực của cộng đồng xã hội có tác dụng làm cho các đối
tợng tham gia trong các hoạt động đấu thầu phải thực hiện theo
đúng những điều đã quy định. Với hệ thống các phơng tiện
thông tin đại chúng nh: Các tờ báo của Trung ơng, địa phơng,
các tạp chí chuyên ngành, các chơng trình phát thanh, truyền
hình luôn phản ảnh đầy đủ các thắc mắc, khiếu nại của công dân
trong hoạt động đấu thầu. Điều đó có tác dụng rất lớn trong việc
hớng các công việc diễn ra trong quá trình đấu thầu đợc thể
hiện một cách rõ ràng, minh bạch và theo đúng quy định.
Trong một số trờng hợp, thực tế do công luận nêu ra chính là
cơ sở để hoàn thiện các quy định pháp luật về đấu thầu. Vì vậy,
việc hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung, nâng cấp một quy định pháp
luật về đấu thầu luôn luôn là yêu cầu khách quan và chính đáng.
1.2. Sự cần thiết khách quan của đấu thầu trong nền kinh
tế thị trờng
Ngay từ năm 1776 Adam Smith đã nói rằng bàn tay vô
hình sẽ xác định việc sản xuất cái gì, nh thế nào, cho ai.
Bàn tay vô hình nh Adam Smith nói chính là biểu thị đặc
điểm phơng thức hoạt động của thị trờng.

Trên đất nớc có nền kinh tế thị trờng hoàn hảo, không có
một cá nhân, tổ chức cụ thể nào quyết định đợc việc phải sản
xuất bao nhiêu sản phẩm hàng hoá cụ thể nào đó, mà chính thị
trờng sẽ quyết định điều đó. Chẳng hạn mặt hàng ô tô, hàng
triệu cá nhân phát đi tín hiệu về ớc muốn có một chiếc ô tô của
họ qua các cuộc viếng thăm các gian trng bày và việc mua ô tô
của họ sẽ bật đèn xanh cho các nhà sản xuất, những ngời thấy
đợc tiềm năng thu đợc lợi nhuận nhiều hơn. Làm nh vậy họ
sẽ tăng đợc sản lợng ô tô. Nếu khách hàng không còn tiếp tục
mua ô tô thì sẽ không có lợi nhuận nữa. Các nhà sản xuất sẽ
phản ứng bằng cách giảm sản lợng, sa thải công nhân và thậm
chí sẽ đóng cửa xí nghiệp. Mối liên hệ t
ơng hỗ giữa khách hàng
và nhà sản xuất rút cục sẽ quyết định vấn đề sản xuất bao nhiêu
ô tô. Nếu khách hàng yêu cầu thêm ô tô, hỗn hợp sản lợng sẽ
gồm nhiều ô tô và ít hàng hoá khác hơn. Nếu sản xuất ô tô giảm
xuống, các công nhân sản xuất ô tô bị sa thải sẽ chuyển sang sản
xuất hàng hoá và dịch vụ khác. Tình huống đó sẽ thay đổi hỗn
hợp sản lợng theo hớng ngợc lại.
Bàn tay vô hình của Adam Smith ngày nay đợc gọi là cơ chế
thị trờng. Cơ chế thị trờng không đòi hỏi bất kỳ một sự tiếp
xúc trực tiếp nào giữa khách hàng và nhà sản xuất. Sự tiếp xúc
giữa họ là gián tiếp thông qua giá cả thị trờng và việc bán hàng.
Bởi vì đặc trng cơ bản của cơ chế thị trờng là tín hiệu giá cả.
17 18

Một khi bạn muốn gì và nếu bạn có thu nhập vừa đủ, bạn có thể
mua nó. Nếu có đủ dân c cùng hành động nh vậy, tổng sản
phẩm bán ra sẽ tăng lên và có lẽ giá cả cũng tăng theo. Các nhà
sản xuất khi nhận thấy việc mua bán và giá cả tăng lên, sẽ muốn

khai thác tiềm năng lợi nhuận này. Để làm đợc điều này, họ sẽ
cố gắng giành đợc phần lớn hơn các nguồn lực sẵn có và sử
dụng chúng để sản xuất các hàng hoá mà xã hội mong muốn.
Hoàn toàn không cần có sự tiếp xúc trực tiếp giữa khách hàng và
nhà sản xuất. Việc bán hàng và giá cả thị trờng sẽ phát tín hiệu
và định hớng cho thị trờng, giống nh một bàn tay vô hình.
Cơ chế thị trờng cũng giải quyết vấn đề sản xuất cho ai. Thị
trờng sẽ phân phối hiệu quả hàng hoá tới ngời chào giá cao
nhất. Các cá nhân sẵn sàng và có năng lực trả tiền nhiều nhất cho
một hàng hoá sẽ có xu hớng tham gia vào một nền kinh tế thị
trờng thuần nhất.
Tính tối u của kết quả trên thị trờng là một lý lẽ rất thuyết
phục cho việc thả nổi thị trờng. Thực chất học thuyết thả nổi thị
trờng công nhận rằng các thị trờng riêng rẽ không chỉ hoạt
động hiệu quả, mà còn giúp mỗi ngời có thể đạt đợc sự hài
lòng tối đa. Trong khung cảnh này, sự can thiệp của Chính phủ
đợc xem nh một sự đe doạ cho việc đạt đợc hỗn hợp sản
lợng đúng và những mục đích kinh tế khác. Tính hiệu quả rõ
ràng của cơ chế thị trờng trong việc phân phối số nguồn lực
hiếm hoi có vẻ phủ nhận sự can thiệp của Chính phủ. Kể từ khi
Adam Smith phát triển khái niệm thả nổi thị trờng (năm 1776),
học thuyết này đã có ảnh hởng sâu sắc đến cách hoạt động của
nền kinh tế và đến những quyết định của Chính phủ.
Cơ chế thị trờng sẽ hoạt động tốt nhất trong hoàn cảnh khi
có sự co lại của lợi nhuận và giá cả. Việc tồn tại lợi nhuận kinh
tế chỉ ra rằng ngời tiêu dùng đánh giá cao một sản phẩm nào đó
và sẽ sẵn lòng trả một giá tơng đối cao để có thứ sản phẩm đó.
Giá và lợi nhuận cao gửi thông tin này đến các nhà doanh nghiệp
háo lợi nhất và họ sẽ nhanh chóng thoả mãn nhu cầu của ngời
tiêu dùng. Nh vậy, lợi nhuận cao ở một ngành cụ thể chỉ ra rằng

ngời tiêu dùng muốn có một sự thay đổi trong tỷ trọng sản
l
ợng (nhiều thêm sản phẩm của ngành đó). Việc lợi nhuận co
lại một cách tơng đối chỉ ra rằng những nguồn lực đang đợc
bố trí lại để cho ra một tỷ trọng mong muốn. Trong một thị
trờng cạnh tranh, ngời tiêu dùng sẽ đợc một số hàng hoá
nhiều hơn với giá hạ hơn.
Khi sức ép cạnh tranh lên giá cả đạt đỉnh điểm, sản phẩm
đợc làm ra với mức chi phí sản xuất thấp nhất, đó là một khía
cạnh khác của hiệu quả kinh tế. Điều này có thể đợc chứng
minh thông qua quá trình chuyển từ cân bằng ngắn hạn sang cân
bằng dài hạn. Một khi cân bằng dài hạn đợc xác lập, xã hội sẽ
nhận đợc nhiều nhất từ những nguồn lực (khan hiếm) sẵn có.
Với cân bằng dài hạn, tất cả các lợi nhuận kinh tế bị thủ tiêu.
Điều đó không có nghĩa là các nhà sản xuất sẽ trắng tay. Lý do
thứ nhất là tình trạng lợi nhuận bằng không hiếm khi xảy ra bởi vì
các sản phẩm mới đợc đa vào thị trờng một cách liên tiếp, nhu
cầu ngời tiêu dùng thay đổi và các quy trình sản xuất hữu hiệu
hơn đợc phát hiện. Thực tế, quá trình cạnh tranh tạo ra một áp
lực lớn cho việc đổi mới sản phẩm và công nghệ. Trong thị trờng
cạnh tranh câu châm ngôn trâu chậm uống nớc đục thật là xác
19 20

đáng. Chẳng hạn, trong thị trờng máy tính, những hãng đầu tiên
nhận biết và đáp ứng cái lợi tiềm năng của việc sản xuất máy tính
chính là những ngời kiếm đợc nhiều lợi nhuận nhất.
Thứ tự các sự kiện thờng xảy ra trong thị trờng cạnh tranh
bao gồm:
- Giá cả và lợi nhuận cao đánh tín hiệu về nhu cầu có một sản
lợng lớn hơn từ phía ngời tiêu dùng.

- Lợi nhuận kinh tế hấp dẫn thêm các nhà cung cấp.
- Một cân bằng mới đạt đợc trong đó sản lợng của sản
phẩm có nhu cầu gia tăng và giá giảm đi. Chi phí sản xuất trung
bình nằm tại điểm tối thiểu (hay gần đó), sản phẩm đợc sản
xuất và tiêu thụ nhiều hơn và lợi nhuận kinh tế tiến gần đến
không.
- Trong suốt quá trình, các nhà sản xuất luôn phải đối phó với
áp lực của việc suy giảm lợi nhuận bằng cách giảm chi phí sản
xuất đổi mới sản phẩm và đổi mới công nghệ.
Một điều cốt yếu cần lu ý về quá trình cạnh tranh là mối đe
dọa tiềm tàng của việc mở rộng sản xuất của những hãng đã có
mặt và sự tham gia của các hãng mới làm cho các hãng trong thị
trờng luôn phải cảnh giác. Thậm chí những hãng thành đạt
cũng không thể tự mãn. Để tiếp tục tham gia trò chơi, các hãng
cạnh tranh phải thờng xuyên cải tiến công nghệ, sản phẩm và
giảm chi phí.
Tuy nhiên, không thể để cho cơ chế thị trờng ra mọi quyết
định. Một trong những điều mà Karl Marx lu ý là những ngời
giàu sẽ nắm phần lớn sản phẩm xã hội khi cơ chế thị trờng xử
lý các vấn đề sản xuất cho ai. Karl Marx cho rằng Chính phủ
phải can thiệp để uốn nắn sự bất công này. Bởi vì, trong khi bàn
tay vô hình xây dựng lâu đài cho các triệu phú nhng đã bỏ mặc
hàng ngàn ngời vô gia c. Thị trờng phân phối phần lớn các
nguồn lực cho tiêu dùng hữu hình, trong khi lại bỏ qua các nhu
cầu xã hội về cán bộ và vốn. Marx cho rằng các nhà lập kế
hoạch trung ơng có thể sản xuất ra một hỗn hợp sản phẩm đáng
mong muốn hơn.
Nh vậy, có thể nói bàn tay vô hình của Adam Smith và bàn
tay hữu hình của cơ chế kế hoạch hoá tập trung là hai cách giải
quyết kinh tế cơ bản khác nhau. Không có quốc gia nào chỉ dựa

hoàn toàn vào một cơ chế. Thay vào đó, hầu hết các nền kinh tế
đều sử dụng một sự phối hợp giữa các tín hiệu thị trờng và sự
điều tiết của Chính phủ để lựa chọn hiệu quả kinh tế. Những thoả
hiệp do đó đợc gọi là các nền kinh tế hỗn hợp.
Có những sự khác biệt lớn trong những hỗn hợp cụ thể đợc
lựa chọn. Chẳng hạn Hoa Kỳ dựa vào các tín hiệu thị trờng
nhiều hơn so với Vơng quốc Anh. ở
Nga, cơ chế thị trờng mới
chỉ thay thế đợc một phần cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Điều
tiết tập trung vẫn còn bộc lộ rõ trong khi giải quyết các vấn đề
sản xuất gì? Nh thế nào? Và cho ai? Singapore là một nền kinh
tế thị trờng đang lên, nhng Chính phủ cũng điều tiết nhiều ứng
xử của ngời tiêu dùng (chẳng hạn nh cấm kẹo cao su). ở Châu
Mỹ Latinh, các xí nghiệp Nhà nớc vẫn kiểm soát những ngành
công nghiệp then chốt ở nhiều quốc gia cho dù các thị trờng t
nhân khá phát triển.
21 22

Việc các nớc trên thế giới không muốn dựa hẳn vào hoặc là
các tín hiệu thị trờng hoặc là sự điều tiết của Chính phủ là do
nhận thức đợc cả hai loại cơ chế này đều tiềm ẩn sự thất bại bất
cứ lúc nào.
Mục đích của mọi xã hội là đạt đợc hiệu quả kinh tế tối u
nhất có thể, một lỗn hợp sản phẩm đáng mong muốn nhất và một
sự phân phối thu nhập công bằng. Nh chúng ta đã thấy, các tín
hiệu của thị trờng có khả năng trả lời cơ bản câu hỏi này.
Nhng những câu trả lời này không thể là tối u nhất. Nếu điều
đó sảy ra thì chúng ta nói rằng cơ chế thị trờng đã thất bại. nói
một cách cụ thể hơn thì sự thất bại của thị trờng có nghĩa là bàn
tay vô hình đã không đạt đợc hiệu quả tối u. Nếu thị trờng

thất bại, chúng ta sẽ không thu đợc một hỗn hợp sản phẩm tối
u. Vì sẽ có quá nhiều ngời thất nghiệp, không khí bị ô nhiễm,
hoặc phân phối thu nhập không công bằng.
Chẳng hạn, trong một nền kinh tế theo định hớng thị trờng,
các nhà sản xuất sẽ lựa chọn các phơng pháp sản xuất dựa trên
cơ sở chi phí. Song các quyết định sản xuất dựa vào chi phí có
thể dẫn một xí nghiệp tới việc làm môi trờng ô nhiễm hơn là sử
dụng những phơng thức sản xuất sạch nhng lại tốn kém hơn.
Hậu quả của ô nhiễm có thể xấu tới mức xã hội phải trả giá đắt
do sản xuất quá mức. Trong trờng hợp này chúng ta cần đến sự
can thiệp của Chính phủ để buộc phải có những giải pháp tốt hơn
cho các vấn đề sản xuất cái gì và nh thế nào.
Sự can thiệp của Chính phủ có thể dẫn chúng ta đến gần mục
tiêu kinh tế. Nh vậy thì sự hỗn hợp giữa tín các hiệu thị trờng
và sự điều tiết của Chính phủ sẽ là một sự cải thiện so với một
nền kinh tế hớng thị trờng thuần tuý. Song sự can thiệp của
Chính phủ cũng có thể thất bại. Sự thất bại của Chính phủ xảy ra
khi sự can thiệp của Chính phủ không cải thiện đợc hiệu quả thị
trờng hay thực tế còn làm cho nó xấu hơn. Sự sụp đổ của hàng
loạt quốc gia Đông Âu cho thấy sự điều tiết của Chính phủ có
thể thất bại đến mức nào. Nhng sự thất bại của Chính phủ cũng
xảy ra theo những cách ít ngoạn mục hơn. Ví dụ, Chính phủ có
thể can thiệp để buộc ngành công nghiệp phải làm sạch môi
trờng. Song, sự điều tiết của Chính phủ có thể gây ra mức chi
phí cao đến mức ngành công nghiệp ấy phải đóng cửa và sa thải
công nhân. Việc cắt giảm sản lợng ở mức nhất định có thể là
thích hợp, nhng cũng có khi là quá đáng. Chính phủ cũng có
thể yêu cầu sử dụng những công nghệ kiểm soát môi trờng quá
đắt hoặc thậm chí đã lỗi thời. Nếu thực tế có nh vậy thì sẽ làm
cho hiệu quả kinh tế tồi tệ hơn.

Chính phủ còn có thể thất bại nếu nó gây trở ngại cho giải
pháp của thị trờng đối với vấn đề sản xuất cho ai? Nếu Chính
phủ tăng thuế đối với tầng lớp giàu để trang trải phúc lợi cho
ngời nghèo, thì cả ngời giàu lẫn ngời nghèo đều không nhận
thấy mục đích làm việc để làm gì. Trong trờng hợp này, cố
gắng giành cho mọi ngời một phần công bằng trong chiếc bánh
có thể làm giảm kích thớc của chiếc bánh. Nếu điều đó xảy ra,
xã hội sẽ trở nên tồi tệ hơn.
Chúng ta đều mong muốn không có bất kỳ thất bại nào trong
số này xảy ra, nhng chúng vẫn có thể xảy ra. Sự thách thức đối
với xã hội là phải tối thiểu hoá những thất bại bằng cách lựa
chọn sự cân bằng hợp lý giữa các tín hiệu thị trờng và sự điều
23 24

tiết của Chính phủ. Đây hoàn toàn không phải là công việc dễ
dàng. Nó đòi hỏi chúng ta là phải tìm hiểu thị trờng sẽ vận
động ra sao, cũng nh đôi lúc tại sao nó lại bị trục trặc. Chúng ta
cũng cần phải biết xem Chính phủ cần lựa chọn chính sách nào
và cần thực thi những chính sách ấy ra sao và khi nào.
Theo lý thuyết về thị trờng, hàng hoá t nhân là hàng hoá
hay dịch vụ đợc tiêu thụ loại trừ khả năng tiêu thụ nó của ngời
khác. Ví dụ nh khi xem xét việc bạn ăn một món bánh, bạn sẽ
có sự thoả mãn với mùi vị và với cái dạ dày đã no hơn - đó là,
bạn đã có đợc một lợi ích cá nhân. Chẳng có ai hởng lợi gì từ
việc bạn thởng thức món bánh đó; món bánh mà bạn mua ở thị
trờng là để bạn ăn một mình; đó là hàng hoá t nhân. Với lô gíc
nh vậy, hàng hoá công là hàng hoá và dịch vụ đợc một ngời
tiêu thụ không loại trừ việc tiêu thụ nó của ngời khác. Nếu bạn
mua tàu ngầm nguyên tử để tuần tra Thái Bình Dơng, không có
cách nào để bạn ngăn cản không cho các nớc láng giềng đợc

hởng sự bảo vệ do tàu ngầm nguyên tử của bạn tạo nên. Hoặc
là, những kẻ ngăn chặn tàu ngầm là những kẻ tấn công, hoặc
không phải. Trong trờng hợp đầu cả bạn và các nớc láng giềng
đợc sống mãi trong hạnh phúc. Trong trờng hợp sau tất cả đều
bị tan tành. Nh vậy, bạn và các nớc láng giềng của bạn đợc
hởng hoặc không đợc hởng lợi ích bảo vệ của tàu ngầm
nguyên tử cùng nhau. Việc sử dụng phòng thủ nguyên tử là hành
động chung không phụ thuộc vào việc ai thanh toán chúng. Do
vậy quốc phòng đợc coi nh hàng hoá công hay sản phẩm
công, trong chừng mực mà tiêu thụ hàng hoá công cộng bởi một
ngời không ngăn cản việc tiêu thụ cùng loại hàng hoá đó bởi
ngời khác.
Bản chất chung của hàng hoá công cộng dẫn đến một hoàn
cảnh khó xử thực sự. Nếu nói cả tôi và bạn đều hởng lợi từ việc
phòng thủ hạt nhân, ai trong số chúng ta sẽ mua tàu ngầm
nguyên tử? Tôi thích bạn mua nó, bằng cách ấy cung cấp cho tôi
sự bảo vệ mà không phải trả phí trực tiếp. Do vậy tôi có thể bày
tỏ một sự không mong muốn có tàu ngầm nguyên tử, thầm hy
vọng có đợc cuộc chơi miễn phí (free ride) trên việc mua sắm ở
thị trờng của bạn. Nhng thật không may mắn là bạn cũng có
một động cơ để che dấu mong muốn của bạn trong việc phòng
thủ quốc gia. Kết quả là chẳng có ai trong chúng ta đứng ra để
mua tàu ngầm nguyên tử trên thị trờng.
Sự khác nhau giữa hàng hoá công và hàng hoá t dựa trên sự
xem xét về kỹ thuật, chứ không phải là triết lý chính trị. câu hỏi
cơ bản là liệu chúng ta có đủ khả năng kỹ thuật để loại trừ những
ngời không trả tiền hay không. Trong trờng hợp quốc phòng
hoặc ngăn lũ, chúng ta đơn giản là không có khả năng đó.
Để liệt kê các hàng hoá công chúng ta có thể cộng thêm việc
thực thi công lý, các quy định về buôn bán, và xử lý các quan hệ

đối ngoại. Các dịch vụ này có giá trị nhiều tỷ đô la và sử dụng
hàng ngàn lao động - cung cấp lợi ích cho tất cả mọi ngời,
không kể đến việc ai sẽ thanh toán. Trong mọi trờng hợp việc
loại trừ những ngời không thanh toán cho các dịch vụ đợc
hởng là không thể.
Những cuộc chơi miễn phí gắn với hàng hoá công làm đảo
lộn thực tiễn theo thông lệ của việc thanh toán cái mà bạn mua.
Vì mắt xích thờng gặp giữa thanh toán và tiêu dùng bị phá vỡ,
hàng hoá công không thể đợc bán ra trên thị trờng. Ngời ta
25 26

miễn cỡng mua thứ gì có thể tự do có đợc. Đó là một phản ứng
hoàn toàn chừng mực cho một ngời tiêu dùng có mức thu nhập
đợc sử dụng có hạn. Do vậy, hàng hoá công đợc mua nh
hàng hoá t, mọi ngời sẽ chờ ai đó trả tiền. Kết cục có thể là sự
thiếu hụt hoàn toàn các dịch vụ công. Đây là hoàn cảnh khó sử
mà Robert Heibroner bận tâm khi ông nói về cái tai điếc của
thị trờng.
Khái niệm hàng hoá công ở đây chỉ liên quan tới hàng hoá và
dịch vụ đợc tiêu thụ chung, bởi cả những ngời thanh toán và
không thanh toán cho nó. Hàng hoá công có thể đợc sản xuất
bởi khu vực Nhà nớc hay t nhân. Hàng hoá t cũng có thể
đợc cả hai khu vực trên sản xuất. Vấn đề là thị trờng có xu
hớng sản xuất quá ít hàng hoá công và sản xuất quá nhiều hàng
hoá t. Nếu muốn nhiều hàng hoá công hơn, chúng ta cần tới
một áp lực phi thị trờng - can thiệp của Chính phủ - để đạt đợc
điều đó. Chính phủ sẽ phải bắt mọi ngời đóng thuế, rồi dùng
doanh thu thuế để chi cho sản xuất quốc phòng, khống chế lũ lụt
và các hàng hoá công khác.
Đối với các quốc gia đang phát triển nh Việt Nam, việc chi

tiêu giành cho khu vực công là rất lớn (chẳng hạn nh chi cho
xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, sản xuất quốc phòng, khống chế
lũ lụt ). Để trang trải cho các khoản chi nói trên, ngoài việc sử
dụng nguồn vốn từ thu ngân sách trong nớc, Nhà nớc còn phải
tận dụng từ các nguồn vốn khác nh nguồn ODA (hỗ trợ phát
triển chính thức), FDI (đầu t trực tiếp nớc ngoài)
Nh đã phân tích ở trên, một trong những mục tiêu quan
trọng nhất của mọi quốc gia (đặc biệt là đối với các nớc nghèo)
là phải tận dụng mọi nguồn lực, chi tiêu một cách có hiệu quả,
công bằng và minh bạch nhất. Trong nền kinh tế thị trờng, áp
lực về thiếu việc làm luôn là bài toán nan giải đối với Chính phủ
của tất cả các nớc. Việc tham gia tìm kiếm việc làm, phân chia
công việc một cách công bằng, tạo điều kiện để các doanh
nghiệp cạnh tranh, tự đào thải và phát triển luôn đợc coi là quốc
sách đối với các quốc gia đang phát triển. Đặc biệt, vấn đề tự
hoàn thiện để chủ động hội nhập cũng là b
ớc đi hết sức cơ bản
trong quá trình cải cách và phát triển kinh tế đất nớc.
Để giải quyết các mục tiêu nói trên, ngoài việc cần tạo ra một
sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp và mọi chủ thể tham
gia thị trờng, những ngời quản lý và điều hành nền kinh tế đất
nớc cần phải nhận thức, nắm bắt đợc các quy luật kinh tế
khách quan, kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố kinh tế thị trờng
với sự can thiệp có chủ đích của Chính phủ để chi tiêu một cách
có hiệu quả nhất trong trong tất cả các hoạt động mua sắm (đặc
biệt là mua sắm công). Điều đó đồng nghĩa với việc đa hoạt
động đấu thầu đi vào nề nếp theo một khuôn khổ pháp lý phù
hợp với trình độ phát triển của mỗi quốc gia, đồng thời không
trái với các quy định về đấu thầu của quốc tế.
1.3. Phân loại đấu thầu

Để đạt đợc mục tiêu của công tác đấu thầu là tạo ra sự cạnh
tranh công bằng, minh bạch và đạt hiệu quả kinh tế, trên cơ sở
đặc thù về hàng hoá và dịch vụ cần mua, hoạt động đấu thầu
(công tác lựa chọn nhà thầu) đợc chia thành 3 lĩnh vực. Mỗi
lĩnh vực có quy trình tổ chức đấu thầu riêng phù hợp với đối
tợng hàng hoá hoặc dịch vụ cần mua đó.
27 28

1.3.1. Đấu thầu tuyển chọn t vấn
ở các nớc đang phát triển, nhu cầu về đầu t xây dựng mới
các công trình hạ tầng cơ sở hoặc nhà xởng, máy móc phục vụ
sản xuất thờng rất lớn. Để thực hiện tốt quá trình đầu t từ bớc
xác định dự án, chuẩn bị báo cáo tiền khả thi, báo cáo nghiên
cứu khả thi đến tổ chức thực hiện, giám sát quá trình xây dựng
cần có đội ngũ chuyên gia lành nghề, có kinh nghiệm và đã có
điều kiện tiếp cận với công nghệ tiên tiến và khoa học hiện đại
trên thế giới để thực hiện các dịch vụ t vấn phục vụ cho quá
trình này. Vì vậy, trong quá trình đầu t nhà tài trợ thờng yêu
cầu chủ đầu t tổ chức đấu thầu tuyển chọn t vấn để thực hiện
các dịch vụ khảo sát, thiết kế, lập hồ sơ mời thầu, tiêu chuẩn
đánh giá hồ sơ dự thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, giám sát quá
trình xây dựng đáp ứng các yêu cầu của dự án. Do đối tợng lựa
chọn để mua ở đây là các dịch vụ t vấn của chuyên gia, nên quy
trình đấu thầu không thể giống với việc mua sắm hàng hoá hay
dịch vụ xây lắp.
Trong đấu thầu tuyển chọn t vấn, các nhà thầu (nhà t vấn)
cạnh tranh nhau thông qua việc cung cấp các chuyên gia có
nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn với một mục tiêu để
thực hiện tốt nhất, chất lợng nhất các yêu cầu của bên mua.
Trách nhiệm đối với công việc gắn liền với uy tín của nhà t vấn

đã làm cho các nhà t vấn khi tham gia dự thầu thờng không
phải nộp bảo lãnh dự thầu nh đối với các lĩnh vực mua sắm
khác. Bên cạnh đó, tính độc lập, khách quan, trung thực, kiên
quyết luôn là những yếu tố không thể thiếu đối với những nhà t
vấn đích thực.
1.3.2. Đấu thầu mua sắm hàng hoá
Trong đấu thầu mua sắm hàng hoá, các nhà thầu cạnh tranh
nhau thông qua việc đảm bảo cung cấp hàng hoá có đủ chất
lợng theo yêu cầu của cơ quan mua sắm nhng với chi phí hợp
lý nhất cùng với các dịch vụ bảo hành, bảo trì, dịch vụ sau bán
hàng thuận lợi đối với ngời mua. Sự cạnh tranh trong cung cấp
hàng hoá còn thể hiện ở chỗ nhà thầu đa ra những hàng hoá
(đặc biệt là thiết bị) với công nghệ mới, đem lại nhiều lợi thế
trong sử dụng. Cũng tơng tự nh trong cung cấp dịch vụ t vấn,
các nhà thầu cung cấp hàng hoá luôn cạnh tranh nhau bằng uy
tín của mình.
1.3.3. Đấu thầu xây lắp
Trong lĩnh vực xây lắp, các nhà thầu xây dựng luôn cạnh
tranh nhau về giải pháp để thực hiện thiết kế nêu trong hồ sơ mời
thầu sao cho đáp ứng yêu cầu về chất lợng với chi phí thấp
nhất. Giải pháp thực hiện của nhà thầu xây dựng gắn liền với
kinh nghiệm đã đúc kết, gắn với việc áp dụng công nghệ mới và
không bỏ qua các biện pháp thực hiện phù hợp với điều kiện thi
công thực tế. Trong đấu thầu xây lắp, giải pháp thực hiện luôn là
yếu tố quan trọng để giành thắng lợi trong cuộc đấu thầu. Tuy
nhiên, trong một số trờng hợp không yêu cầu kỹ thuật cao thì
việc đa ra các đơn giá cạnh tranh lại là cơ sở giúp các nhà thầu
thắng thầu.
Tuy tính chất cạnh tranh trong 3 lĩnh vực nêu trên khác nhau,
song đều có chung mục đích là thoả mãn các yêu cầu của bên

mua với chi phí thấp nhất. Nhờ sự cạnh tranh giữa các nhà thầu,
bên mua luôn có cơ hội tìm đợc một dịch vụ theo ý muốn với
29 30

chi phí hợp lý. Mặt khác nhờ có sự cạnh tranh mà các nhà thầu
phải luôn luôn phải tự hoàn thiện mình để tồn tại và vơn lên.
Nh vậy, cạnh tranh chẳng những đem lại lợi ích cho ngời mua,
cho các nhà thầu, mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Vì vậy,
nhiệm vụ đặt ra đối với Nhà nớc là phải tạo ra môi trờng và
thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu.
1.4. Vai trò của Nhà nớc trong quản lý đấu thầu
Trong đấu thầu thực hiện các công trình công cộng hoặc mua
sắm hàng hoá sử dụng vốn Nhà nớc. Vai trò của Nhà nớc
trong việc tạo ra môi trờng, khuôn khổ pháp lý và điều hành
các hoạt động đấu thầu là vô cùng quan trọng, biểu hiện cụ thể
trên các mặt sau đây:
1.4.1. Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chính sách về đấu thầu
Theo nội dung công tác đấu thầu đã nêu, trong hoạt động đấu
thầu mua sắm công, Nhà nớc đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Sự tham gia chỉ đạo thực hiện chính sách về đấu thầu của Nhà
nớc là yếu tố quan trọng và không thể thiếu của hoạt động đấu
thầu. Nhờ đó mà công tác đấu thầu phát huy đợc vai trò, tác
dụng nh một công cụ quan trọng trong nền kinh tế thị trờng. ở
các nớc phát triển (các nớc có nền kinh tế thị trờng lâu đời)
công việc đấu thầu đã trở thành công cụ không thể thiếu trong
các hoạt động mua sắm. Mọi quy định về luật chơi (quy định về
đấu thầu) đều do bên mua định đoạt trên cơ sở phù hợp với các
quy định của pháp luật. Vai trò của Nhà nớc là bảo đảm cho
mọi hoạt động kinh tế - xã hội đợc ổn định, công bằng và đúng
pháp luật.

Đối với các nớc đang phát triển, Nhà nớc ngoài việc ổn
định trật tự xã hội, xây dựng Nhà nớc pháp quyền, còn có vai
trò là bên mua trong quá trình xây dựng hạ tầng cơ sở và phát
triển kinh tế đất nớc.
Với vai trò là bên mua, Nhà nớc cần đặt ra các quy định về
đấu thầu nhằm đạt mục tiêu là mua sắm đợc các loại hàng hoá
và dịch vụ đạt yêu cầu về số lợng, chất lợng, tiến độ với chi
phí thấp nhất. Song với vai trò quản lý toàn bộ nền kinh tế đất
nớc, Nhà nớc coi các nhà thầu là các tế bào của mình để
hoạch định các chính sách nhằm tạo điều kiện cho các nhà thầu
phát triển, bằng cách tạo ra môi trờng kinh doanh công bằng và
minh bạch.
1.4.2. Soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về đấu thầu
Là một trong 4 thành tố cơ bản của công tác đấu thầu, hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý bảo đảm
cho hoạt động đấu thầu đợc thực hiện theo một quy trình thống
nhất, công bằng, minh bạch. Với t cách là bên mua, Nhà nớc
cần ban hành các chính sách mang tính quy phạm pháp luật về
đấu thầu nh: Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông t hớng dẫn
nhằm tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đấu thầu nói
riêng và toàn bộ quá trình lựa chọn nhà thầu nói chung. Hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu cần đảm bảo
tính thống nhất, ổn định và phải phù hợp với các văn bản Luật
khác có liên quan, đồng thời thể hiện đợc ý chí của Nhà nớc là
xây dựng một Nhà nớc pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa. Với
phơng châm vừa làm vừa học hỏi, rút kinh nghiệm, Việt Nam
31 32

đã ban hành tơng đối nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đấu

thầu. Tuy nhiên, mới chỉ dừng lại ở mức độ Nghị định. Hy vọng
rằng, trong thời gian tới sẽ có một văn bản Luật về đấu thầu
hoàn chỉnh, ổn định, tính luật hoá cao hơn đáp ứng đợc yêu cầu
là cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động về đấu thầu, đảm bảo đợc
mục tiêu tạo ra môi trờng cạnh tranh công bằng, bình đẳng,
minh bạch và thoả mãn yêu cầu về hiệu quả kinh tế.
1.4.3. Hớng dẫn thực hiện chính sách và các quy định về
đấu thầu
Nh đã phân tích trên đây, để phát huy tính hiệu quả của công
tác đấu thầu trong nền kinh tế thị trờng, cơ quan ban hành các
quy định về đấu thầu có trách nhiệm hớng dẫn những ngời
thực hiện, đảm bảo tính thống nhất trong toàn bộ phạm vi và đối
tợng áp dụng. Đặc biệt đối với các nớc đang phát triển, việc
mua sắm công thờng chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giá trị
chi tiêu xã hội. Chủ đầu t (bên mua) thờng do Nhà nớc bổ
nhiệm hoặc giao trọng trách (họ đợc dùng tiền của Nhà nớc để
chi tiêu cho các mục tiêu công cộng). Họ là những công chức ở
các ngành, các cấp khác nhau trong bộ máy công quyền. Trình
độ và nhận thức của họ không giống nhau. Vì vậy, Nhà nớc
phải hớng dẫn, đồng thời yêu cầu họ thực hiện đúng các quy
định đã ban hành để bảo đảm đạt đợc các mục tiêu đã đặt ra
của công tác đấu thầu.
1.4.4. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo và
xử lý các vi phạm trong đấu thầu
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý
các vi phạm trong đấu thầu là một trong các chức năng quan
trọng của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng. Đặc biệt trong
các nghiệp vụ chi tiêu công cộng, việc kiểm tra, thanh tra để kịp
thời uốn nắn những sai phạm, ngăn chặn những biểu hiện tiêu
cực, tham nhũng trong đấu thầu mua sắm công là việc làm

không thể thiếu của tất cả các quốc gia. Nhà nớc cần tổ chức cơ
quan chuyên trách, có đủ năng lực để đảm đơng công việc
thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm trong đấu thầu, đồng thời
giải quyết các tranh chấp hay khiếu nại, tố cáo phát sinh trong
đấu thầu. Để bảo đảm tính khách quan, cơ quan có trách nhiệm
thanh tra, kiểm tra cần có sự hoạt động độc lập tơng đối với các
cơ quan quản lý nhà nớc về đấu thầu. ở Việt Nam hoạt động
thanh tra, kiểm tra vẫn cha đợc tổ chức thành hệ thống riêng
biệt. Vì vậy, hoạt động của cơ quan này nhìn chung cha đạt
đợc kết quả mong muốn. Đặc biệt trong lĩnh vực đấu thầu, hoạt
động về thanh tra, kiểm tra hầu nh cha đợc đặt ra một cách
đúng mức, tơng xứng với tầm quan trọng vốn có của công tác
này. Hy vọng trong tơng lai, sau một số năm thực hiện đấu
thầu, Nhà nớc sẽ có sự quan tâm đúng mức để có đợc bộ máy
hoàn thiện hơn về quản lý đấu thầu và xử lý các vi phạm trong
đấu thầu.
33 34




Chơng 2
Thực trạng công tác đấu thầu ở Việt Nam và kinh nghiệm
quốc tế trong quản lý đấu thầu
2.1. Cơ chế đấu thầu ở Việt Nam
2.1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu
Giống nh các nớc mới chuyển sang quản lý kinh tế theo cơ
chế thị trờng, trong tiến trình đổi mới và hội nhập, những năm
vừa qua, Việt Nam đã ban hành hàng loạt các chính sách mới về
quản lý kinh tế liên quan đến đầu t nói chung và đấu thầu nói

riêng. Các văn bản liên quan đến quản lý đấu thầu mới nhất nh
sau (theo thứ tự thời gian):
Bảng 1: Danh mục văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu
Số văn bản và ngày ban
hành
Cơ quan
ban hành
Nội dung văn bản
Quyết định số 183/TTg
ngày 16/4/1994
Thủ tớng
Chính phủ
Thành lập Hội đồng Xét thầu Quốc
gia để t vấn cho Thủ tớng Chính
phủ quyết định kết quả đấu thầu các
dự án đầu t có giá trị 100 tỷ đồng
trở lên (tơng đơng 10 triệu USD)
Nghị định 43/CP ngày
16/7/1996
Chính phủ Quy chế Đấu thầu
Thông t liên Bộ số
02/TTLB ngày 25/02/1997
Bộ KH&ĐT-
Bộ XD-Bộ TM
Hớng dẫn thực hiện Quy chế Đấu
thầu
Thông t số 07
BKH/VPXT ngày
29/4/1997
Bộ KH&ĐT Hớng dẫn bổ sung một số nội

dung thực hiện Quy chế Đấu thầu
đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu t nớc ngoài
Nghị định 93/CP ngày
23/8/1997
Chính phủ Sửa đổi bổ sung một số Điều của
Quy chế Đấu thầu ban hành kèm
theo Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996
Nghị định 88/1999/NĐ-CP
ngày 01/9/1999
Chính phủ Quy chế Đấu thầu
Nghị định 14/2000/NĐ-CP
ngày 05/5/2000
Chính phủ Sửa đổi bổ sung một số Điều của
Quy chế Đấu thầu ban hành kèm
theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP
ngày 01/9/1999
Thông t số 04/2000/TT-
BKH ngày 26/5/2000
Bộ KH&ĐT Hớng dẫn thực hiện Quy chế Đấu
thầu
Quyết định số 1037/2000/
QĐ-BLĐTBXH ngày
09/10/2000
Bộ
LĐTB&XH
Quy định tiền lơng của chuyên
gia và lao độngViệt Nam làm việc
theo hợp đồng với các nhà thầu
nớc ngoài trúng thầu tại Việt Nam

Thông t số 121/TT-BTC
ngày 29/12/2000 và Thông
t số 94/2001/TT-BTC
ngày 22/11/2001 (bổ sung)
Bộ Tài chính Hớng dẫn thực hiện đấu thầu mua
sắm đồ dùng, vật t trang thiết bị,
phơng tiện làm việc đối với các cơ
quan Nhà nớc, lực lợng vũ trang,
đoàn thể và doanh nghiệp Nhà
nớc sử dụng nguồn Ngân sách
Nhà nớc
35 36

Thông t 17/2001/BTC
ngày 21/3/2001
Bộ Tài chính Hớng dẫn chế độ quản lý và sử
dụng lệ phí thẩm định kết quả đấu
thầu
Nghị định số 66/2003/NĐ-
CP ngày 12/6/2003
Chính phủ Sửa đổi bổ sung một số Điều của
Quy chế Đấu thầu ban hành kèm
theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP
ngày 01/9/1999 và số 14/2000/NĐ-
CP ngày 05/5/2000
Năm 1990 cùng với sự thay đổi nền kinh tế kế hoạch tập
trung sang nền kinh tế thị trờng có định hớng XHCN, Việt
Nam đã ban hành Quy chế Đấu thầu riêng trong lĩnh vực xây
dựng. Có ý kiến cho rằng đây là một biện pháp tình thế cần có
trong bối cảnh mà tình hình xây dựng nói chung lúc đó có nhiều

thất thoát do phân bổ công việc xây dựng chỉ đơn thuần theo
nguyên tắc chia đều. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng việc
ban hành Quy chế Đấu thầu trong xây dựng thực chất là một
bớc đệm, bớc thí điểm để tiến tới một quy định đầy đủ, hoàn
chỉnh hơn. Dù thế nào chăng nữa, không ai có thể phủ nhận các
thành tựu thu đợc thông qua việc áp dụng theo Quy chế Đấu
thầu trong xây dựng ban hành năm 1990. Rõ ràng so với trớc
đó, hình thức giao việc thông qua đấu thầu dù dới dạng đơn
giản cũng đã tỏ ra u việt hơn. Nhng nền kinh tế tự nó biến
động và buộc phải thay đổi để đi lên. Tổng số vốn đầu t trong
xây dựng ngày một nhiều hơn, nguồn vốn ODA bắt đầu trở lại
Việt Nam, các lực lợng xây dựng bắt đầu tìm đợc các lợi thế
cho mình, mặt khác xã hội thấy cha thể bằng lòng với quy định
hiện có mà thấy cần có những quy định đầy đủ, chặt chẽ, có hiệu
quả, có tính thuyết phục và tiếp cận dần với Thông lệ đấu thầu
quốc tế. Những yêu cầu này là khách quan và rõ nét dần theo
thời gian dẫn đến khi Quy chế Đấu thầu trong xây dựng phải
chuyển sang hình thức khác. Đầu tiên ngời ta bổ sung để nội
dung phong phú hơn, bao quát hơn về các đối tợng và hình thức
lựa chọn nhà thầu. Ngay cả thuật ngữ cũng đợc điều chỉnh cho
phù hợp và thế là tháng 3 năm 1994 Quy chế Đấu thầu trong xây
lắp ra đời. Biến động của thực tiễn đòi hỏi đến một thời điểm
nào đó phải có quy định mới thay cho quy định cũ. Các quy định
về đấu thầu tiếp theo, nh Quyết định 183/TTg (4/1994), QCĐT
ban hành theo Nghị định 43/CP và Nghị định 93/CP (1996 và
1997), sau đó QCĐT ban hành theo Nghị định 88/CP (1999),
Nghị định 14/CP (2000) và 66/CP (2003) đã là những giải pháp
khắc phục những phát sinh trong thực tế nhằm làm cho các văn
bản quy định của Nhà nớc trở nên hữu hiệu hơn. Chu kỳ 2-3
năm văn bản quy định về đấu thầu đợc thay đổi, điều chỉnh

hoặc bổ sung đã xảy ra ở ta trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên,
những thay đổi này chỉ nhằm nâng cấp về nội dung của một loại
hình văn bản pháp luật thông dụng nhất là Nghị định của Chính
phủ ban hành kèm theo Quy chế Đấu thầu. Với loại hình này có
những nội dung đợc thay đổi chỉ vài tháng sau khi ban hành
một khi nó không đợc thực tế chấp thuận hoặc trở nên bất lợi.
Điều này làm cho mỗi đối tợng tham gia các hoạt động đấu
thầu không yên tâm và luôn luôn bị động đối với những thay đổi
trong quy định. Nh vậy đòi hỏi của thực tế không chỉ là cần có
những nội dung quy định phù hợp, mà rất cần sự ổn định trong
thời gian càng dài càng tốt. Nh vậy, chỉ trong 10 năm thực hiện
đấu thầu gần đây, đã có 13 văn bản quy phạm pháp luật liên
37 38

quan trực tiếp đến đấu thầu đợc ban hành. Trong đó có 5 Nghị
định của Chính phủ, 1 Quyết định của Thủ tớng Chính phủ, 1
Thông t liên Bộ, 5 Thông t hớng dẫn và 1 Quyết định của Bộ
có liên quan. Với hệ thống các văn bản nêu trên, quy định về đấu
thầu đã có xu hớng ngày càng trở nên rõ ràng, đơn giản, gần
với quy định của các tổ chức quốc tế và dễ thực hiện hơn. Công
việc đấu thầu đã dần đi vào nề nếp và trở nên cần thiết đối với xã
hội, đồng thời là công cụ không thể thiếu góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trớc áp lực của tiến trình hội
nhập, cơ chế thị trờng ngày càng hoàn thiện, yêu cầu về tính
minh bạch và công bằng trong xã hội ngày càng đòi hỏi mức độ
cao hơn. Vì vậy, chính sách về đấu thầu cũng cần đợc luật hoá
ở mức độ ngày càng cao, sát với thực tế hơn và hoàn thiện hơn
về nội dung. Thực tế hoạt động đấu thầu ở nớc ta những năm
vừa qua cho thấy tuy chính sách đấu thầu đã đợc chú trọng bổ
sung sửa đổi thờng xuyên, song về cơ bản vẫn cha đáp ứng

đợc mục tiêu của công tác đấu thầu nói chung. Điều đó có thể
đợc giải thích bằng một số nguyên nhân nh sau:
- Một là, cơ quan soạn thảo và ban hành văn bản pháp luật về
đấu thầu đã quá chú trọng đến việc hớng dẫn về kỹ thuật đấu
thầu, phân cấp quản lý, cách thức trình duyệt, mà không chú ý
đến việc quy định các chế tài bắt buộc ngời thực hiện phải tuân
thủ theo các quy định;
- Hai là, quy định nhiều hình thức lựa chọn nhà thầu, nhng
thiếu các điều kiện áp dụng của mỗi hình thức một cách chặt chẽ
về pháp lý, dẫn đến tình trạng ngời thực hiện áp dụng việc lựa
chọn một cách rất tuỳ tiện, mà vẫn không xử lý đợc;
- Ba là, quy định về đấu thầu có quan hệ chặt chẽ với các quy
định khác về quản lý kinh tế, nhng giữa các quy định này lại
thiếu tính đồng bộ, đôi khi còn mâu thuẫn nhau, nên chẳng
những gây khó khăn cho ngời thực hiện, mà còn tạo kẽ hở cho
việc lợi dụng, đục khoét tiền của của Nhà nớc của một số cá
nhân trong bộ máy công quyền;
- Bốn là, bộ máy Nhà nớc chuyên làm công tác quản lý các
hoạt động về đấu thầu hiện tại cha có tính chuyên nghiệp, thừa
về số lợng nhng quá thiếu về chất lợng. Song do hậu quả của
sự chậm chạp trong cải cách hành chính, nên tình trạng này sẽ
còn kéo dài và cha biết đến bao giờ mới khắc phục đợc.
Có lẽ do nhận thức đợc tầm quan trọng của công tác đấu
thầu, nên ngay từ cuối thập niên 90 trong ch
ơng trình xây dựng
Luật của Quốc hội, dự án xây dựng Pháp lệnh về đấu thầu đã
đợc giao cho Chính phủ soạn thảo. Song cho đến nay, đã qua
rất nhiều lần dự thảo, nội dung Pháp lệnh nói trên vẫn cha đợc
thông qua. Trong khi đó, điều rất cần trong giai đoạn chuẩn bị và
tiến tới hội nhập là phải có một văn bản luật chính thống và ổn

định về công tác đấu thầu. Tuy nhiên với tình trạng làm Luật nh
hiện tại, hy vọng có đợc một Bộ luật hoàn chỉnh với các quy
định về đấu thầu thật rõ ràng, minh bạch phù hợp với các quy
luật kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trờng vẫn còn là
một tơng lai khá xa.
Trong thực tế tình trạng vi phạm Quy chế Đấu thầu, gây thất
thoát nghiêm trọng vẫn diễn ra thờng xuyên và cho đến nay vẫn
cha có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Vì vậy, kết quả thanh
tra các dự án đầu t xây dựng trong cả nớc năm 2002 cho thấy,
39 40

100% các dự án đợc thanh tra đều có vấn đề sai phạm gây thất
thoát, lãng phí tiền của của Nhà nớc.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy và quy trình thực hiện đấu thầu
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu t, công tác quản lý
đấu thầu trong thời gian qua đã dần đi vào nề nếp và không
ngừng đợc nâng cao, đầu mối quản lý về công tác đấu thầu ở
hầu hết các Bộ, ngành là các Vụ, Ban kế hoạch và Đầu t, ở địa
phơng là các Sở Kế hoạch và Đầu t. Cơ quan quản lý Nhà
nớc về đấu thầu thuộc ngành Kế hoạch và Đầu t đã tham gia
vào việc thẩm định kế hoạch và kết quả lựa chọn nhà thầu, xử lý
các tình huống phát sinh trong quá trình đấu thầu. Ngoài ra các
cơ quan này còn có trách nhiệm nghiên cứu, trình ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu, hớng dẫn và đào tạo
đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu, theo dõi, kiểm tra tình
hình thực hiện công tác đấu thầu trên phạm vi cả nớc.
Tuy nhiên, dù công việc đấu thầu đã thực hiện trên 10 năm,
song những ngời làm công tác này hầu hết đều cha qua đào
tạo bài bản. Họ chủ yếu là những cán bộ đợc đào tạo để làm
công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung chỉ huy. Vì

vậy, bộ máy quản lý về đấu thầu hiện nay thực sự là cha có thể
đáp ứng về chuyên môn để vận hành nhằm phát huy hết vai trò
của công tác đấu thầu trong nền kinh tế thị trờng.
Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nớc về đấu thầu có thể tóm
tắt theo sơ đồ sau:

Sơ đồ 1: Hệ thống cơ quan quản lý nhà nớc về đấu thầu




















Với cách thức tổ chức bộ máy quản lý đấu thầu nh nêu trên,
có thể thấy rằng các cơ quan hành chính Nhà nớc từ cấp thấp
nhất đến cấp cao nhất đều tham gia quản lý đấu thầu. Trong bối

thủ tớng chính phủ
bộ kế hoạch và đầu t
(vụ quản lý đt)
Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc chính phủ (cơ
quan giúp việc đấu thầu)
ubnd tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ơng
(sở kế hoạch và đầu t)

chủ
đầu t

dNNN
các
ban
quản
lý dự
án

các
chủ
đầu
t là
dNNN
ubnd quận,
huyện, thị
x (các
phòng ql
đấu thầu)

các
ban
quản
lý dự
án
ubnd x phờng thị trấn (bộ phận
quản lý đấu thầu)
41 42

cảnh nền kinh tế mới chuyển đổi sang cơ chế thị trờng, kinh
nghiệm quản lý, vận hành của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cha
nhiều. Hơn nữa công việc mua sắm lại hoàn toàn sử dụng nguồn
vốn Nhà nớc, mọi thiệt hại về kinh tế (nếu có) đều không ảnh
hởng đến lợi ích cá nhân của những ngời tham gia vào quá trình
thực hiện mua sắm. Vì vậy, để tổ chức đợc bộ máy quản lý đấu
thầu vừa hoàn thành tốt công việc mua sắm trong thời gian ngắn
nhất, lại đảm bảo có hiệu quả là điều cần phải tiếp tục nghiên cứu
và hoàn thiện dần trong thời gian tiếp theo.
Thực tế công tác đấu thầu trong những năm qua cho thấy,
mặc dù các quy định về đầu t và đấu thầu cha mang tính luật
hoá cao, song cũng đã có tác dụng thúc đẩy quá trình lành mạnh
hoá các quan hệ kinh tế thông qua công tác đấu thầu. Tuy nhiên,
việc thực hiện ở các cấp nhìn chung đều mang nặng tính hình
thức, hiện tợng vi phạm các quy định còn nhiều, gây thất thoát
lớn về vật chất của Nhà nớc. Đây là tồn tại rất cơ bản thuộc về
công tác tổ chức bộ máy. Để mau chóng khắc phục tình trạng
này cần đẩy nhanh tốc độ cải cách hành chính nhà nớc, đồng
thời với việc kiện toàn bộ máy quản lý và thực hiện đấu thầu với
chất lợng đáp ứng các yêu cầu chung. Hy vọng rằng dới sự
giám sát chặt chẽ của toàn dân, toàn xã hội và cơ quan thanh tra

độc lập với đầy đủ kiến thức và bản lĩnh xử lý các vi phạm trong
đấu thầu, trong tơng lai không xa công tác đấu thầu sẽ thực sự
công bằng, bình đẳng, minh bạch và đem lại hiệu quả kinh tế
cho xã hội.
Quy trình tổ chức đấu thầu đợc bên mời thầu thực hiện theo
trình tự nh sau (sau khi đã có kế hoạch đấu thầu và đã xác định
quy mô, nội dung của từng gói thầu):
2.1.2.1. Sơ tuyển nhà thầu: Đối với những gói thầu có quy mô
lớn hoặc có các yêu cầu về kỹ thuật phức tạp cần phải có bớc sơ
tuyển để lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực thực hiện vào
tham gia đấu thầu. Việc sơ tuyển bao gồm các bớc nh sau:
- Lập hồ sơ sơ tuyển bao gồm:
+ Th mời sơ tuyển;
+ Chỉ dẫn sơ tuyển;
+ Tiêu chuẩn đánh giá sơ tuyển;
+ Các phụ lục kèm theo.
- Thông báo mời sơ tuyển.
- Nhận và quản lý hồ sơ dự sơ tuyển;
- Đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển;
- Trình duyệt kết quả sơ tuyển;
- Thông báo kết quả sơ tuyển.
2.1.2.2. Lập hồ sơ mời thầu, bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Th mời thầu
- Mẫu đơn dự thầu
- Chỉ dẫn đối với nhà thầu
- Các điều kiện u đãi (nếu có)
- Các loại thuế theo quy định của pháp luật
- Các yêu cầu về công nghệ, vật t, thiết bị, hàng hoá, tính
năng kỹ thuật và nguồn gốc, yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm
và địa vị hợp pháp của nhà thầu

2.1.2.3. Gửi th mời thầu hoặc thông báo mời thầu;
2.1.2.4. Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu;
43 44

2.1.2.5. Mở thầu: Phải thực hiện công khai với sự chứng kiến
của các nhà thầu. Mọi thông tin cơ bản về gói thầu đợc nêu
trong hồ sơ dự thầu của các nhà thầu phải đợc công bố công
khai trong buổi mở thầu;
2.1.2.6. Đánh giá, xếp hạng nhà thầu: Việc đánh giá các hồ sơ
dự thầu phải theo đúng tiêu chuẩn đánh giá đã nêu trong hồ sơ
mời thầu. Đối với đấu thầu tuyển chọn t vấn, đánh giá theo
cách chấm điểm, nhà thầu đợc đề nghị trúng thầu là nhà thầu
có hồ sơ dự thầu đạt số điểm tổng hợp cao nhất. Đối với đấu thầu
xây lắp và mua sắm hàng hoá, đánh giá, xếp hạng theo tiêu chí
giá đánh giá, nhà thầu đợc đề nghị trúng thầu là nhà thầu có hồ
sơ dự thầu đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của gói thầu và có giá
đánh giá thấp nhất.
2.1.2.7. Trình duyệt kết quả đấu thầu: Việc trình kết quả đấu
thầu do chủ đầu t hoặc chủ dự án thực hiện, việc phê duyệt kết
quả đấu thầu do ngời hoặc cấp có thẩm quyền (theo phân cấp)
thực hiện.
2.1.2.8. Công bố trúng thầu, thơng thảo hoàn thiện hợp đồng;
2.1.2.9. Trình duyệt nội dung hợp đồng (Ngời hoặc cấp có
thẩm quyền phê duyệt nội dung hợp đồng) và ký hợp đồng.
Quá trình nêu trên nếu đợc thực hiện một cách nghiêm túc
với tinh thần trách nhiệm và bằng năng lực chuyên môn phù hợp
của mỗi cá nhân có liên quan, thì chắc chắn sẽ lựa chọn đợc
nhà thầu xứng đáng nhất với hiệu quả kinh tế cao.
2.2. Thực trạng hoạt động đấu thầu ở Việt Nam
2.2.1. Kết quả của việc thực hiện đấu thầu theo đánh giá chung

Đấu thầu là công việc mới đợc thực hiện trong lĩnh vực mua
sắm công ở Việt Nam khoảng từ năm 1994 đến nay. Nhìn chung,
việc áp dụng các quy định về đấu thầu để lựa chọn nhà thầu có
xu hớng ngày càng tăng về số lợng. Chứng tỏ mức độ xã hội
hoá của công tác đấu thầu ngày càng cao và ý thức chấp hành
chính sách của Nhà nớc đối với mọi tầng lớp nhân dân là tơng
đối nghiêm chỉnh. Theo con số báo cáo của cơ quan quản lý Nhà
nớc về đấu thầu ở các cấp, năm 1998 mới có 4.577 gói thầu
đợc áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu theo quy định của
Quy chế Đấu thầu, thì năm 2000 con số đó là 10.179 gói và năm
2002 là 30.768 gói. Dới đây là một số thông tin tình hình đấu
thầu diễn biến theo thời gian trong những năm qua:
Bảng 2: Kết quả đấu thầu (Nguồn: Bộ KH&ĐT)
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
1998
Năm
1999
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
Tổng số gói thầu 4.577 9.623 10.179 28.539 30.768
Tổng giá gói thầu 3.584,4 2.392,75 1.883,98 58.255,9 63.616,7
Tổng giá trúng thầu
3.184,4 2.061,52 1.619,91 53.179,5 58.420,7
Giá trị tiết kiệm 400,0 331,23 264,07 5.076,46 5.196,0
Tỷ lệ tiết kiệm 11,2% 13,84% 14% 8,71% 8,17%

Nhờ áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu theo Quy chế
Đấu thầu mà hàng năm Nhà nớc tiết kiệm đợc từ 10 đến 15%
tổng vốn đầu t (chênh lệch giữa giá trúng thầu và giá gói thầu
trong kế hoạch đấu thầu đã duyệt). Song theo số liệu thống kê tại
45 46

Bảng trên cho thấy tỷ lệ tiết kiệm thông qua đấu thầu đang giảm
dần theo thời gian.
Theo số liệu thống kê của Bộ KH&ĐT về tình hình đấu thầu
trên toàn quốc năm 1999 (là năm chuyển giao giữa Quy chế Đấu
thầu ban hành kèm theo Nghị định 43/CP và 93/CP sang thực
hiện theo Quy chế Đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định
88/CP) cho thấy: Giá trúng thầu thờng thấp hơn giá gói thầu
đợc duyệt trong kế hoạch đấu thầu nên đã tiết kiệm đáng kể
nguồn vốn đầu t (khoảng 331 triệu USD), mức tiết kiệm trung
bình khoảng 14%. Tuy nhiên, nếu ngành địa phơng nào tuân
thủ các quy định của Quy chế Đấu thầu tốt hơn sẽ cho kết quả
tốt hơn. Chẳng hạn, tỉnh Cà Mau thực hiện 55 gói thầu với tổng
giá ớc tính là 73,81 tỷ đồng, tổng giá trúng thầu là 51,31 tỷ
đồng, tiết kiệm 22,5 tỷ đồng, là đơn vị có tỷ lệ tiết kiệm cao nhất
(30,48%). Ngoài ra còn một số đơn vị cũng có tỷ lệ tiết kiệm khá
cao nh:
Bảng 3: Mức tiết kiệm trong đấu thầu (Nguồn: Bộ KH&ĐT)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tên đơn vị (1) Tổng số
gói thầu
(2)
Tổng giá
gói thầu
(3)

Tổng giá
trúng thầu
(4)
Chênh lệch
Tuyệt đối
(5=3-4)
Tơng đối
(6=5:3,%)
TCT Bu chính
VT
488 2.754,18 2.069,62 684,56 24,86
TCT Xi măng
VN
125 211,702 169,509 42,193 19,93
Tỉnh Bình Dơng 94 261,46 219,55 41,91 16,03
TCT Điện lực VN 608 3.574,31 3.030,62 516,69 14,57
TCT Hàng không
VN
24 81,026 69,614 11,411 14,08
2.2.2. Kết quả đấu thầu đánh giá theo hình thức lựa chọn:
Theo Quy chế Đấu thầu hiện hành, việc lựa chọn nhà thầu
đợc thực hiện theo 1 trong 7 hình thức sau đây:
- Đấu thầu rộng rãi;
- Đấu thầu hạn chế;
- Chỉ định thầu;
- Chào hàng cạnh tranh;
- Mua sắm trực tiếp;
- Tự thực hiện;
- Mua sắm đặc biệt.
Trong 7 hình thức nêu trên, chỉ có 3 hình thức mang tính chất

đấu thầu, vì trong đó có chứa đựng yếu tố cạnh tranh là: Đấu
thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế và chào hàng cạnh tranh. Thực
chất chỉ có hình thức đấu thầu rộng rãi mới thực sự mang tính
cạnh tranh công bằng, minh bạch. Tham gia vào những cuộc đấu
nh vậy các nhà thầu mới đợc bộc lộ hết năng lực chuyên môn
của mình, đợc cạnh tranh một cách bình đẳng để giành đợc
hợp đồng một cách xứng đáng.
Bốn hình thức lựa chọn còn lại về bản chất đều đợc thực
hiện giống nh chỉ định thầu. Bởi vì, đối với các hình thức này
nhà thầu đều đợc định đoạt trớc khi đàm phán hợp đồng.
47 48

Nh vậy, có thể chia các hình thức lựa chọn nhà thầu thành 3
nhóm hình thức cơ bản nh sau:
- Nhóm cạnh tranh tối đa: Đấu thầu rộng rãi;
- Nhóm có cạnh tranh (hạn chế ở mức độ nhất định): Đấu
thầu hạn chế và chào hàng cạnh tranh;
- Nhóm không mang tính cạnh tranh: Bao gồm các hình thức
còn lại.
Thực tế cho thấy, áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu
khác nhau sẽ cho 3 nhóm kết quả về mức tiết kiệm khác nhau.
Dới đây là Biểu so sánh về tỷ lệ tiết kiệm giữa 3 nhóm hình
thức lựa chọn nhà thầu.
Bảng 4: Mức tiết kiệm theo hình thức lựa chọn (thống kê
năm 1999 của Bộ KH&ĐT):

Hình thức
lựa chọn
nhà thầu
Nhóm A Nhóm B Nhóm C A+B+C

Tuyệt
đối
(Tr.$)
Tơng
đối
(%)
Tuyệt
đối
(Tr.$)
Tơng
đối
(%)
Tuyệt
đối
(Tr.$)
Tơng
đối
(%)
Tuyệt
đối
(Tr.$)
Tơng
đối
(%)
Rộng rãi 43,34

13,02 13,92 17,39 9,71 7,60 66,97 12,60
Hạn chế,
Chào hàng
cạnh tranh

12,39

5,52 20,43 10,94 30,54 11,45 63,36 9,34
Chỉ định
thầu, tự
thực hiện
0,48
*
7,72 0,4 1,25 1,58 0,94 2,46 1,19
Mua sắm
trực tiếp và
mua sắm
đặc biệt
0,23 7,37 16,65

27,48 15,46 15,31 32,34 19,65
Bảng trên cho thấy tỷ lệ tiết kiệm đối với các gói thầu đợc áp
dụng hình thức đấu thầu rộng rãi là cao nhất (12,60%), tiếp theo
là đấu thầu hạn chế và chào hàng cạnh tranh (9,34%), còn chỉ
định thầu chỉ có (1,19). Nh vậy đấu thầu rộng rãi là phơng
thức đem lại sự cạnh tranh và hiệu quả kinh tế nhất. Trờng hợp
mua sắm trực tiếp có tỷ lệ tiết kiệm cao chủ yếu do 2 đơn vị là
TCT Bu chính Viễn thông (về giá trị chiếm 81,82%, tỷ lệ tiết
kiệm là 22,65%) và TCT Điện lực VN (tỷ lệ tiết kiệm là 34,61%)
vì họ có khách hàng truyền thống đã quan hệ mua bán với nhau
từ lâu, còn lại các đơn vị khác tỷ lệ tiết kiệm đều thấp).
Xác định đợc tầm quan trọng cũng nh hiệu quả của việc áp
dụng Quy chế Đấu thầu, do vậy một số Bộ ngành và địa phơng
đã quan tâm và tạo ra các cơ hội cạnh tranh bình đẳng trong quá
trình thực hiện đấu thầu. Thực tế cho thấy rất nhiều đơn vị đã có

ý thức thực hiện việc lựa chọn nhà thầu theo hình thức đấu thầu
rộng rãi nhằm tăng tính cạnh tranh nh:
- Tỉnh Đăk Lăk: 328 gói thầu (299 rộng rãi, 29 chào hàng
cạnh tranh).
49 50

- Tỉnh Bến Tre: 105 gói thầu (74 rộng rãi, 12 hạn chế và 19
chỉ định thầu).
- TCT Điện lực VN: 608 gói thầu (448 rộng rãi).
- Tỉnh Bình Dơng: 94 gói thầu (87 rộng rãi, 7 hạn chế).
- Bộ Y tế: 297 gói thầu (131 rộng rãi)
- Tỉnh Kon Tum: 56 gói thầu (55 rộng rãi, 1 hạn chế)
- Các gói thầu thuộc dự án ODA chủ yếu thực hiện theo hình
thức đấu thầu rộng rãi (Bộ GTVT có 422 gói thầu thuộc dự án
nhóm A thì có 371 gói thầu đấu thầu rộng rãi).
Tuy nhiên, nếu xem xét trong cả quá trình từ năm 1998 đến
năm 1999 có thể thấy rằng đang diễn ra tình trạng lợi dụng cơ
chế quản lý lỏng lẻo về đấu thầu để làm giảm tính cạnh tranh
trong việc lựa chọn nhà thầu nói chung. Tình trạng đó thể hiện
nh sau:
Bảng 5: Tỷ lệ áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu theo
thời gian (Nguồn: Bộ KH&ĐT)
Đơn vị tính: Gói thầu
Đấu thầu
rộng rãi
Đấu thầu
hạn chế
Chỉ định thầu và các
hình thực còn lại
Tổng số

Năm 1998 1222
26,7%
1536
33,5%
1819
39,8%
4.577
100%
Năm 1999 1887
19,6%
2947
30,6%
4789
49,8%
9.623
100%
Năm 2000 1302
12,9%
2600
25,5%
6277
61,7%
10.179
100%
Năm 2001 4277
14,98%
6081
21,32%
18181
63,70%

28539
100%
Năm 2002 4377
14,23%
6015
19,55%
20.376
66,22%
30.768
100%
Số liệu trên cho thấy, xu hớng làm giảm tính cạnh tranh
trong đấu thầu đang là nguy cơ cần đợc các nhà quản lý và các
nhà hoạch định chính sách quan tâm. Nếu nh tỷ lệ số gói thầu
đợc áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi của năm 1998 là
26,7%, thì con số đó đối với năm 2000 chỉ còn là 12,9% và năm
2003 là 14,23%. Điều đó đồng nghĩa với việc là trên 80% số gói
thầu đợc áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu khác nh: chỉ
định thầu, đấu thầu hạn chế là những hình thức mà hầu nh
không có tính cạnh tranh hoặc biểu hiện của tính cạnh tranh
không cao. Chứng tỏ trong thực tế, việc cố tình tạo ra những tình
huống không minh bạch trong đấu thầu đang đợc khai thác triệt
để. Tất nhiên, những việc làm đó sẽ gây ra những thiệt hại không
nhỏ cho công quỹ của Nhà nớc nói riêng và những thiệt hại về
lợi ích kinh tế - xã hội khác của toàn xã hội.
Trong cùng điều kiện và cách thức tiến hành chuẩn bị dự án
nh nhau, dự án đờng Hồ Chí Minh (giai đoạn 1) đợc áp dụng
chủ yếu hình thức chỉ định thầu (có vài gói áp dụng hình thức
đấu thầu hạn chế) nên đã sử dụng hết ngay tổng mức đầu t
(theo con số dự toán là 5.300 tỷ đồng), bởi vì ở đây không có sự
cạnh tranh, do đó không có sự giảm giá; trong khi đó, dự án

Quốc lộ 6 đoạn Hoà Bình - Sơn La áp dụng hình thức đấu thầu
rộng rãi, nên giá ký hợp đồng chỉ bằng khoảng trên 60% tổng

×